Hàng kém chất lượng đang lan tràn ở thị trường Việt Nam. Nó ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trong khi ấy nhiều người Việt vẫn thường không khiếu nại khi mua phải hàng kém chất lượng. Tại sao lại có hiện tượng này? Chúng tôi rất mong các nhà nghiên cứu văn hoá học quan tâm và lý giải vấn đề này dưới góc nhìn văn hoá học. Sau đây, chúng tôi thử đưa ra một vài ý thể hiện quan điểm của mình.
1. Thực trạng sản phẩm kém chất lượng ở Việt Nam hiện nay
Người tiêu dùng đang có nhiều cơ hội lựa chọn khi thị trường ngày càng trở nên phong phú về chủng loại và số lượng các mặt hàng. Nhưng bên cạnh đó, nhiều người lại đang bất an với chất lượng sản phẩm - những mặt hàng mà họ phải mua sắm, tiêu dùng hằng ngày.
Xét về nguồn gốc, không chỉ có sản phẩm ngoại nhập, mà có khá nhiều sản phẩm do chính các cơ sở sản xuất trong nước tung ra thị trường.
Tình trạng bán sản phẩm chất lượng kém, quá đát, hư hỏng, không rõ nguồn gốc xuất xứ... vẫn tồn tại ở các chợ, cửa hàng bán lẻ và ngay cả những siêu thị nhỏ.
Trong khi đó, nông dân còn có tâm lý thích mua hàng giá rẻ mà không biết rằng hàng hóa đó có chất lượng kém, mua hàng không cần hóa đơn và địa chỉ nơi bán.
Ngày 12.3, Chi cục Quản lý thị trường TP. HCM chính thức công bố kết quả kiểm tra và kiểm định đối với 12 mẫu mũ bảo hiểm sản xuất tại TP. HCM. Kết quả có đến 11/12 mẫu kiểm định không đạt chất lượng, trong khi các cơ sở sản đều được cấp giấy chứng nhận hợp quy CR.
Thanh tra Sở Y tế TP.HCM đồng loạt kiểm tra và đã phát hiện nhiều loại sản phẩm nước uống đóng chai của ba cơ sở, công ty bị nhiễm trực trùng mủ xanh Pseudomonas aeruginosa - một loại vi trùng có thể gây nhiễm trùng huyết, viêm phổi, nhiễm trùng hệ thống hô hấp, suy yếu hệ thống miễn dịch, đã lờn nhiều loại kháng sinh…
Theo thống kê của Cục An toàn vệ sinh thực phẩm được công bố vào tháng 2, qua kiểm tra 468 công ty, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nước đá, nước uống đóng bình, đóng chai ở TP. HCM trong năm 2008, thì có tới 22/36 cơ sở sản xuất nước đá, 51/77 cơ sở sản xuất nước uống đóng chai không đạt tiêu chuẩn về VSATTP.
2. Từ đặc điểm tính cách người Việt đến văn hoá ứng xử trong mua – bán
2.1. Tính cách người Việt
- Tính linh hoạt
- Tính bao dung
- Tính rụt rè, kín đáo
- Tính hài hoà, trọng tình
2.2. Văn hoá ứng xử trong mua bán
2.2.1. Đối với nhà sản xuất và nhà bán hàng
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thị trường, một số doanh nghiệp đang cố gắng tạo thương hiệu uy tín trong sản xuất và phân phối sản phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có nhiều nhà sản xuất và phân phối vẫn không ngại tung ra thị trường những mặt hàng kém chất lượng với giá rẻ, đánh vào thị hiếu của những người ít tiền, ham giá rẻ. Không những thế, họ còn tìm cách chèn ép khách hàng. Nhiều nhà sản xuất và bán hàng lẻ với qui mô nhỏ thường không quan tâm đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trong khi ở phuơng Tây, “thương nhân kiếm lời bằng cách cố gắng chiếm và giữ lòng tin của khách hàng đồng thời tính toán để chèn ép nhau thì truyền thống thương nghiệp Việt Nam là thương nhân liên kết với nhau để chèn ép khách hàng” . Hay nói cách khác, trong khi ở phương Tây thương nhân coi khách hàng là “thượng đế”, thì ở Việt Nam, chịu thiệt vẫn là người tiêu dùng.
2.2.2. Đối với người tiêu dùng
Hiện nay, sản phẩm kém chất lượng tràn lan trên thị trường. Tuy nhiên, dường như nhiều người Việt cũng chẳng mấy quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Nhiều sản phẩm kém chất lượng được bán ra nhưng chỉ khi lúc thanh tra phát hiện ra người dân mới biết là sai phạm.
Trong khi đó, phần lớn người tiêu dùng khi mua phải sản phẩm dỏm, có tâm lý ngại kiện cáo với người bán hàng, nhà sản xuất. Hay nói cách khác, người Việt thường không khiếu nại khi mua phải hàng kém chất lượng. Dĩ nhiên, không phải toàn bộ người Việt đều làm ngơ trước quyền lợi của mình trong mua bán, nhưng phần đông đều chẳng mấy quan tâm đến vấn đề này. Tại sao lại có hiện tượng như thế?
Có người cho rằng: nguyên nhân đơn giản là do không có hóa đơn nên việc đổi và trả lại hàng cũng khó hoặc những sản phẩm khi đã mở ra dùng rồi, ví dụ như sữa, các loại thực phẩm đóng hộp... thì khó có cơ sở để xác minh thực hư về sản phẩm đó.
Lại có ý kiến khác cho rằng: do sự thờ ơ của doanh nghiệp, không chịu nhận sai để giải quyết khiếu nại. Do đó, nhiều người tiêu dùng biết là hàng kém chất lượng nhưng để theo hầu kiện với thời gian kéo dài mà nếu thắng kiện cũng chỉ được bồi thường có chút ít thì cũng chẳng bõ công, đôi khi còn ảnh hưởng đến thời gian, công việc nữa.
Chúng tôi cho rằng đó là những nguyên nhân ngoại tại. Chẳng lẽ từ những khó khăn khách quan mà người Việt lại chấp nhận chịu thiệt thòi như thế?
Dưới góc nhìn văn hoá học, chúng tôi cho rằng nguyên nhân nội tại sâu xa nhất khiến người Việt thường không khiếu nại khi mua phải hàng kém chất lượng là do người Việt có những đặc điểm như tính linh hoạt, bao dung, kín đáo, hài hoà và trọng tình. Trong những tính cách ấy, chúng tôi cho rằng, trọng tình là tính cách làm cho người Việt bỏ qua tất cả, thông cảm tất cả, vì “một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”.