Nếu bạn đi qua một đám thanh niên đang tụ tập, bạn có thể nghe thấy những từ: ông bô/ bà bô tao (bố, mẹ), tao sắp làm giỗ (tổ chức sinh nhật) mời chúng mày…, mày dở hơi ăn cám lợn à (kì cục), con đấy nó tanh tưởi lắm (giỏi), lúc đấy tao vãi linh hồn (sợ)…Nếu là người thuộc thế hệ trước, đáng tuổi ông bà, bố mẹ ta thì nghe xong có thể “choáng” và thấy kì cục, khó hiểu. Nếu bạn cũng là thanh niên, tuổi “teen” thì thấy nhóm đó thật suồng sã, thoải mái. Nếu bạn là người nước ngoài có biết qua về Tiếng Việt thì về phải giở ngay từ điển Tiếng Việt.
Xã hội càng hiện đại thì càng có nhiều ngôn ngữ như thế- tiếng lóng.
Phải nói rằng đây là một hiện tượng có tính phổ biến trên toàn thế giới( không gian), lan tràn khá nhanh, đặc biệt tập trung ở lứa tuổi “teen”, thanh niên (chủ thể), Tiếng lóng thường xuất hiện trong những diễn biến của một câu chuyện đùa, tếu, xưng hô thân mật (thời gian).
Tuy ở vài thế kỉ trước đã có tiếng lóng song do ít được ghi chép lại và có phần “thất truyền” nên khi toàn xã hội bước vào kỉ nguyên hiện đại, văn minh cong nghiệp mới là giai đoạn cho tiếng lóng thực sự trở thành một trào lưu của giới trẻ. Thời gian có mặt chưa lâu nên có nhiều nhận định về tiếng lóng.
Theo từ điển bách khoa kiwipendia: Tiếng lóng là một hình thức phương ngữ xã hội không chính thức của một ngôn ngữ, thường được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, bởi một nhóm người. Tiếng lóng ban đầu xuất hiện giữa những người thuộc tầng lớp dưới của xã hội nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn đạt theo quy ước chỉ những người thống nhất mới hiểu. Tiếng lóng thường không mang nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát ra mà mang nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng ( phương ngữ là hệ thống ngôn ngữ dùng cho một tập hợp người nhất định).
Theo từ điển mở Wiktionary: Tiếng lóng là cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp, nhóm người cốt chỉ cho nội bộ hiểu với nhau.
Theo PGS.TS ngôn ngữ học Phạm Văn Tình: tiếng lóng là một ngôn ngữ thuộc một nhóm người dùng để giao tiếp, mục tiêu: hạn chế phạm vi trao đổi. Vì vậy ban đầu mang tính chất là ngôn ngữ bí mật. Từ lóng có thể xuất phát từ mong muốn mang lại sự vui vẻ, điểm xuyết cho cuộc nói chuyện vui. Tiếng lóng xưa nay được xem là gắn với đối tượng không đàng hoàng, mờ ám nhưng thực tế không vậy: tiếng lóng được sử dụng trong bộ đội , lực lượng điều tra, công an,…nhằm không lộ bí mật hoặc dùng trong một số nghành nghề nhất định mang tính đặc thù. Từ lóng càng bí mật càng giá trị. Khi từ lóng được xã hội hoá thì trở thành “từ lạ”. Từ lóng dễ bị đào thải. Chỉ có một số từ lóng tồn tại lâu dài và trở thành ngôn ngữ toàn dân đến nay.
Nguồn gốc và chức năng của Tiếng Việt lóng:Đa số các từ lóng có nguồn gốc và được sử dụng tại một địa phương nhất định, đặc biệt là giữa các miền bắc, trung, nam. Nhiều từ có từ rất lâu đời. Một só từ mới xuất hiện trong vài chục năm gần đây, thậm chí chỉ vài năm.
Từ lóng trong Việt ngữ được sử dụng bởi nhiều thành phần xã hội. Nhiều từ mang nghĩa tục được dân chợ búa, nông thôn, xóm lao động nghèo dùng nhiều nhất. Những từ nhẹ nhàng thay thế cho các vấn đề tế nhị thì được dùng ở ngữ cảnh lịch sự hoặc trong cộng đồng trí thức. Những từ còn lại dùng trong ngữ cảnh: gia đình, giữa bạn bè, đồng nghiệp, ngoài quán…
Trong lịch sử phát triển của mình, tiếng lóng ngày nay cùng với nền kinh tế thị trường đã ngày càng phát triển, nở rộ hơn ở không gian mạng internet.
Nếu như tiếng lóng trước kia bị cho là ngôn ngữ của giới bình dân tầm thường, mang tính chợ búa thì nay tiếng lóng xâm nhập vào cả giới công viên chức, công sở, văn phòng, học đường…
Việc sử dụng tiếng lóng có hai mặt khi sử dụng đúng lúc đúng chỗ hay không. Xét về tính giá trị mà nó mang lại thì một số từ có giá trị cao về mặt văn hoá: VD: Kính đen- chỉ mật vụ
[center][/center] Cắt đuôi- chỉ việc dứt khỏi đối tượng bám theo
[center][/center] Lương khô- dự trữ nói chung
Những từ này tồn tại trong thời gian dài và trở thành thông thường.
Tiếng lóng giúp thể hiện cá tính, đặc điểm lứa tuổi. Tiếng lóng được coi như “ngôn ngữ vỉa hè” làm con người cảm thấy thoải mái, gần như một “ngôn ngữ chung” để thể hiện cá tính của mình. Đôi khi có những điều bạn nói ra không muốn người khác hiểu một cách bình thường và cách diễn tả này( tiếng lóng) làm cho câu chuyện, cách nói trở nên sinh động, thú vị, thoải mái và có tính biểu cảm, gợi hình, gợi thanh rất cao. Nó có thể vượt qua khuôn phép một chút nhưng nếu không mang ý nghĩa xấu, túc tĩu thì vẫn có thể chấp nhận được.
Điều này cũng là một trong những bước chuyển tất yếu của hầu hết các nước. VD: Tiếng Anh theo kiểu Nhật mà giờ đây được chính phủ Nhật công nhận, phải đưa vào từ điển, hay những cụm từ tiếng lóng mà bất cứ khi nào chat, giới trẻ Mỹ cũng dùng. Nếu phân định được lợi hại cũng như giới hạn của ngôn ngữ, không đánh mất nền tảng ngữ pháp chuẩn tiếng mẹ đẻ thì tiếng lóng vẫn có những giá trị riêng.
Tiếng lóng cũng làm giàu thêm vốn từ mới, để cho vui, bộc lộ cảm xúc dễ dàng hơn, mang tính thân mật, suồng sã, tự nhiên nếu phù hợp với nhóm người nghe đó, hoàn cảnh và nhóm văn hoá đó.VD: “không đâu mà”-> “hem đâu mừ”. Bạn có thấy cảm xúc nũng nịu qua câu tiếng lóng này không?
Tiếng lóng là một phần lịch sử, phản ánh thời kì xã hội. Nếu bỏ mặc một phần lịch sử chìm vào quên lãng thì quả là thiếu sót. Ở TháI Lan khi đọc tài liệu cũ thời vua Rama (cuối thế kỉ XIX, đầu XX), người ta không hiểu được một số từ bởi những chuyên gia thời đó “quên” thu thập và truyền lại cho hậu thế. Vì vậy, một góc nhỏ lịch sử đã bị mất đi. Ý thức được việc này, học viện hoàng gia Thái Lan đã bắt tay vào việc thu thập một số từ không chính thống và mới được giới trẻ “phát minh”. Họ tin rằng sự thu thập này có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp các dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu ngôn ngữ tương lai.
Từ những giá trị này dẫn đến việc tận dụng hết công suất, khả năng của tiếng lóng như:
Dùng trong xưng hô: ông bô, ông già tao ( bố tao)…
Bộc lộ cảm xúc cho thoải mái, hình tượng, VD: sến: chỉ tình cảm ứơt át, não nề; “chuối” thế: chỉ hành động, công việc khác người, nhàm chán,không đâu vào đâu…; “cải lương”: tính chất nửa vời hoặc chỉ sự dài dòng; chân “chấm phảy”: chân tập tễnh; leng keng, chập cheng: thần kinh có vấn đề; mít ướt: dễ mủi lòng, hay khóc…
Tiếng lóng thường được sử dụng nhiều nhất ở tuổi “teen”,thanh niên trẻ trung nên nó được dùng nhiều như ngôn ngữ thể hiện đặc điểm, cá tính giới trẻ. Thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ, chuyên gia Thái Lan phát hiện ra, đó không chỉ là sáng tạo đơn thuần mà phản ánh sự thay đổi trong lối sống của giới trẻ mà sự giao thoa của các nền văn hoá là một ví dụ mà trong đó ngôn ngữ là yếu tố dễ thấy nhất.
Tiếng lóng dùng trong giao tiếp của một nhóm người nên nó có tính chất “mật mã” đối với người thụôc nhóm văn hoá khác, làm kí hiệu riêng tự hiểu với nhau nên có thể nói vô tư với “đồng bọn” trước mặt người “phe khác”.
Mật mã này khác với mật mã nghiệp vụ của một nghành nghề nào đó. Mật mã tiếng lóng mang tính bộc lộ cảm xúc và không quá bí mật, không nhằm mục đích chính trị…
Tiếng lóng rất “đắt hàng” trong câu chuyện tếu
Tuy nhiên, tiếng lóng gây ra những hiểu lầm buồn cười, sự khó hiểu hay khó chịu cho một số người khác nên nó được xếp vào: ngôn ngữ không chính thống, cho nó là loạn ngôn, ngôn ngữ vỉa hè...Điều này gây ra tâm lí ức chế, cần đối phó: phong trào “Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”; trong ca dao có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Những nghiên cứu về “Tiếng Việt chuẩn”, “Tiếng Việt giàu và đẹp”…
Sùng bái: Một số bộ phận thanh niên dùng tiếng lóng quá nhiều, quá lạm dụng
VD: trên mạng internet (chat, blog…) ngôn ngữ tiếng lóng thì vô cùng, có từ tiếng lóng mang tính chất địa phương: vd: hết rồi-> hết roài, thế nhé->ừ hén…cho đến viết tắt hay thay đổi cả ngôn ngữ: Hello= hey, G’day, hola, yo..;mạng internet ở TháI Lan:55555= hahahaha (cười sảng khoái)
Lưu luyến: trên thế giới có các nhà biên soạn từ điển và nghiên cứu tiếng lóng, ở Việt Nam cũng vậy: đó là các nhà ngôn ngữ học, hay học viện hoàng gia TháI Lan
Tôi thấy đây là một hiện tượng rất hay và nhiều bạn có thể chia sẻ những ý kiến đóng góp sinh động về vấn đề này. Hãy cùng bàn luận nhé