CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA.

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về chung về lý luận văn hoá học

CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA.

Gửi bàigửi bởi Le kieu anh » Thứ 5 02/07/09 10:18

Ở bất cứ tộc người nào trên thế giới,lễ hội dân gian truyền thống cũng đều là một thành tố quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc ấy.Lễ hội dân gian là hoạt động phản ánh tương đối đầy đủ điều kiện sinh hoạt vật chất,đạo đức xã hội,đời sống tín ngưỡng,vũ trụ quan,thế giới quan,nhân sinh quan...của chính dân tộc đó.
Người Chăm trải qua những thăng trầm lịch sử vẫn bảo toàn được bản sắc văn hóa dân tộc mình,một phần trọng yếu là do vẫn gìn giữ được ngôn ngữ,chữ viết,sắc phục và đặc biệt là các lễ hội truyền thống trông đó có âm nhạc-một trong những yếu tố quan trọng nhất tạo nên lễ hội.
Nhạc cụ của người Chăm rất phong phú và đều dùng để phục vụ cho lễ hội,chưa thấy có nhạc cụ nào được sử dụng riêng biệt cho các hoạt động vui chơi giải trí.Ở đây chỉ xin được đi vào tìm hiểu một phần nhỏ,đó là bộ ba nhạc cụ luôn đi cùng nhau và được sử dụng trong hầu hết các lễ hội dân gian thuần túy:Kèn Xaranai;trống Pa ra nưng và trống Ghì nằng.
I)NHẬN DIỆN.
-Kèn Xaranai:có 3 phần.
Thân kèn dài 20-21cm làm bằng gỗ quý hoặc sừng rỗng ruột.Kèn có 7 lỗ ở trên và 1 lỗ ở dưới.
Loa kèn dài 10-11cm làm bằng ngà voi,sừng trâu hoặc gỗ quý.Loa kèn tròn,bầu ở phần giữa và loe ở đầu loa.
Chuôi kèn dài 6cm làm bằng bạc hoặc đồng thau dạng lá,uốn theo hình ống từ bé đến lớn.Phần lớn đút vào thân kèn,phần nhỏ có gắn dăm (lưỡi gà) làm bằng lá nón hay lá buông.
-Trống Pa ra nưng:
Trống chỉ có một mặt làm bằng da hoẵng hoặc da dê,không dùng dùi mà vỗ bằng các ngón của hai bàn tay.Thân trống cao 9cm,dày 2cm,có hình chậu hơi lượn cong,làm bằng gỗ lom hoặc gỗ cốc.
-Trống Ghì nằng:
Là loại nhạc cụ đầy uy lực và sinh khí trong bộ nhạc của tộc người Chăm,chỉ được sử dụng theo nguyên tắc có đôi,đặt tựa vào nhau theo hình chữ nhân.Trống hình trụ,hơi bầu ở giữa thân.Chiều dài thân trống từ 75-80cm,làm bằng cây gỗ lim xanh đục rỗng ruột.Thành trống dày từ 2-3cm.Mặt lớn bịt bằng da trâu,đường kính 28cm,bao giờ cũng đặt nghiêng tiếp đất ở vành trống (mặt âm) và dùng dùi gõ (dương).Mặt nhỏ bịt bằng da hoẵng hoặc da dê,đường kính 24cm (mặt dương) được vỗ bằng bàn tay trái (âm).
II)XÁC ĐỊNH HỆ TỌA ĐỘ C-K-T.
-Chủ thể:Do con người sáng tạo và sử dụng.
-Không gian:Trong các lễ hội dân gian của dân tộc Chăm,có thể diễn ra tại Thánh đường,đền,tháp (nếu là công lễ),trong làng hoặc tại nhà (nếu do làng,gia tộc hoặc gia đình tổ chức).
-Thời gian:Diễn ra quanh năm hoặc định kỳ (mấy năm một lần).
Lễ hội Ri chà Nư cành (còn gọi là Lễ Múa mừng đầu năm) do cộng đồng làng tổ chức vào dịp đầu năm,tháng giêng lịch Chăm (khoảng tháng 4 dương lịch) vào hai ngày thứ năm và thứ sáu.
Công lễ Palao Ri chà Xá tổ chức tại cửa biển vào hai ngày chủ nhật và thứ hai thượng tuần trăng tháng hai lịch Chăm (khoảng tháng 5-6 dương lịch).
Công lễ Dôn Dang tổ chức hàng năm tại các đền,tháp Bà la môn vào hai ngày chủ nhật và thứ hai thượng tuần tháng tư lịch Chăm (khoảng tháng 7 dương lịch).
Lễ hội Kate (còn gọi là Băng Kate hoặc lễ cúng Vía ông,lễ Tạ kim) lấy đền,tháp là các trung tâm diễn ra lễ hội vào ngày mùng 1 tháng 7 lịch Chăm (khoảng tháng 10 dương lịch).
Công lễ Chabun (còn gọi là lễ Tạ thổ hoặc lễ Cúng bà) tổ chức ở các đền,tháp Bà la môn vào ngày 16 tháng 9 lịch Chăm (khoảng tháng 12 dương lịch).
Công lễ Ramadan diễn ra tại Thánh đường Hồi giáo (Bà ni và Islam) vào cuối tháng 8 và cả tháng 9 Hồi lịch (có năm trùng với Tết Nguyên đán của người Việt).
Lễ hội nhập Kut do dòng tộc tổ chức vào hai ngày thứ ba và thứ tư của các tháng 3-6-8-10 lịch Chăm,diễn ra tại nhà và khu vực Kut (khu mộ).
Lễ cắt tóc đặt tên dành cho trẻ mới sinh được một tháng hoặc 40 ngày.
Ngoài ra còn có các lễ cưới,lễ tang,lễ hỏa táng,lễ phong chức...
III)CHÙM CÁC ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA.
-Tính nhân sinh:Do con người sáng tạo trong quá trình lao động sản xuất,sinh hoạt tín ngưỡng nhằm phục vụ chính những dịp tụ họp,lễ hội dân gian,đáp ứng nhu cầu tinh thần của mọi thành viên trong tộc người.
-Tính lịch sử:Hình thành từ khởi nguồn nền văn hóa của tộc người Chăm và liên tục được hoàn thiện trong suốt chiều dài lịch sử cho đến tận ngày nay.
-Tính hệ thống:Lễ hội Chăm đa số là lễ nghi nông nghiệp.Hệ thống lễ hội dày đặc đó chứa đựng những giá trị tinh thần,giá trị đạo đức bên trong nó.Đó là thái độ ứng xử của con cháu đối với ông bà tổ tiên,bề trên của mình.Đó là sự tôn kính,lòng hiếu thảo,đức tri ân thường xuyên và sâu sắc đối với những vị anh hùng,những người đã có công khai phá đất đai,đào mương đắp đập,dạy dân trồng lúa,trồng bông,dệt vải...Đó là sự đề cao lòng chung thủy,vệc giữ lời hứa và thực hiện lời hứa.Trong khi thực hiện phần lễ,bao giờ các chức sắc tôn giáo cũng chơi nhạc cụ,hát múa lễ để thỉnh cầu các vị nhân thần và thiên thần,kể sự tích,ca ngợi công đức...hoặc các bài hát múa khác phù hợp với mục đích buổi lễ.Nó không chỉ đơn thuần là âm thanh mà còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc,như một sự định hướng,dẫn dắt,đưa phần tâm linh của những người dự lễ đến gần với tổ tiên của họ hơn.
-Tính biểu tượng:Bộ ba nhạc cụ này rất độc đáo cả về hiệu quả âm thanh,tính chất âm nhạc lẫn về hình tượng trong tín ngưỡng tâm linh của người Chăm.
Như một nguyên tắc bất di bất dịch,ba nhạc cụ này luôn luôn đi với nhau và chỉ đi với nhau.Khi chơi,bao giờ ta cũng thấy kèn Xaranai ở trên,giữa là trống Pa ra nưng và dưới cùng là cặp trống Ghì nằng.Chúng tượng trưng cho hình ảnh một con người.
Kèn Xaranai được ví như phần đầu.Bảy lỗ phía trên thân kèn,theo quan niệm của người Chăm nhằm biểu thị:thính giác,thị giác,vị giác và khứu giác.Lỗ bên dưới của kèn là đường thoát của hồn khi rời khỏi xác (phần âm).
Trống Pa ra nưng được ví như phần thân của cơ thể nên khi vỗ phải đặt trước bụng.
Cặp trống Ghì nằng được ví như đôi chân chống đỡ cho cả cơ thể.
RANDOM_AVATAR
Le kieu anh
 
Bài viết: 8
Ngày tham gia: Thứ 2 27/04/09 10:11
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA.

Gửi bàigửi bởi ngo thanh huong » Chủ nhật 05/07/09 23:51

Cảm ơn bạn KA đã chọn chủ đề này, tôi rất thích vì nó đã giúp tôi hiểu thêm được những nhạc cụ của dân tộc, mà tôi chưa có cơ hội tìm hiểu về chúng. Tôi thiết nghĩ rằng chúng ta cần tiếp tục gìn giữ và trân trọng những nhạc cụ dân tộc ấy, bởi chúng là những di sản văn hoá quý báu mà cha ông ta đã để lại.
RANDOM_AVATAR
ngo thanh huong
 
Bài viết: 8
Ngày tham gia: Thứ 2 27/04/09 15:30
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA.

Gửi bàigửi bởi bagia » Thứ 6 10/07/09 15:03

Cám ơn bạn le kieu anh đã giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều điều thú vị về các nhạc cụ trong lễ hội dân gian Chăm. Để minh họa cụ thể hơn, Bagia xin được bổ sung một số hình ảnh về các nhạc cụ này:
1- Kèn Xaranai: là nhạc cụ định âm duy nhất trong các nhạc cụ khác nhau của dân tộc Chǎm. Xaranai thuộc họ hơi chi dǎm kép.

Hình ảnh

2- Trống Paranưng: là nhạc cụ họ màng rung, chi gõ vỗ của tộc người Chǎm Ninh Thuận, Bình Thuận.

Hình ảnh

Hình ảnh

3- Trống Ghinằng: Trống ghinằng có hình dạng tương tự như trống cơm của người Việt, nhưng lớn hơn.

Hình ảnh
RANDOM_AVATAR
bagia
 
Bài viết: 30
Ngày tham gia: Thứ 2 27/04/09 11:08
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA.

Gửi bàigửi bởi Le kieu anh » Thứ 7 15/08/09 11:32

Xin cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của các bạn với bài viết,nhất là Bagia đã giúp tôi bổ sung thêm phần ảnh-một phần rất quan trọng mà người viết chưa làm kịp.Rất mong được sự quan tâm,bổ sung nhiều hơn nữa của các bạn để nội dung bài viết được hoàn thiện và để tất cả chúng ta có cơ hội mở rộng kiến thức về vốn văn hoá của ông cha ta để lại.
RANDOM_AVATAR
Le kieu anh
 
Bài viết: 8
Ngày tham gia: Thứ 2 27/04/09 10:11
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA.

Gửi bàigửi bởi taquangdongk15 » Chủ nhật 16/08/09 9:48

Chào bạn Lê Kiều Anh, tôi xin được bổ xung thêm hình ảnh của trống ghì nằng để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn lời giới thiệu của bạn về các nhạc cụ này.
Trong một số ít trường hợp, trống ghì nằng cũng có thể được chơi đơn chiếc như hình ảnh minh họa ở bài viết trên nhưng khi hòa tấu cùng với kèn Xaranai và paranưng thì trống ghì nằng luôn được sử dụng theo nguyên tắc có đôi, đặt tựa vào nhau theo hình chữ nhân. Như bạn đã giới thiệu: “… kèn Xaranai được ví như phần đầu…, trống Pa ra nưng được ví như phần thân của cơ thể nên khi vỗ phải đặt trước bụng, cặp trống Ghì nằng được ví như đôi chân chống đỡ cho cả cơ thể.”

Hình ảnh

Người chụp ảnh: Tạ Quang Động
RANDOM_AVATAR
taquangdongk15
 
Bài viết: 10
Ngày tham gia: Thứ 7 11/07/09 17:31
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN H

Gửi bàigửi bởi Quang Tuan » Thứ 7 23/10/10 10:58

Những giá trị văn hóa luôn ẩn hiện trong mọi nền văn hóa trong đó dân tộc Chăm mà các bạn đang trình bày ở đây là một ví dụ điển hình nhất, đây có thể là những nhạc cũ tôi cho là "thô" nhất trong các nhạc cũ Chăm nhưng đây cũng chứng tỏ rằng các bạn rất am hiểu về bản sắc của dân tộc Việt Nam nói chung.
Qua đây, tôi xin giới thiệu thêm về "vai trò nhạc cụ Chăm trong khu vực Đông Nam Á" tiếp cận "Khu Vưc".
- Đây chỉ là "mẫu" nghiên cứu nhỏ từ góc độ "Văn hóa Chăm"

QUAN HỆ GIỮA NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG TỘC NGƯỜI CHĂM VÀ CÁC TỘC NGƯỜI MÃ LAI – ĐA ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN

Trong thành phần 54 dân tộc Việt Nam hiện nay, có 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo, bao gồm các tộc người: Chăm, Êđê, Giarai, Raglai, Churu. Các tộc người này thuộc loại hình nhân chủng Indônesien, có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô – Pôlynesien trong họ ngôn ngữ Nam Đảo. Hiện nay dân số của 5 tộc người này có trên 600.000người, chiếm tỷ lệ gần 1% dân số của Việt Nam và trên 0,23% tổng số dân các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Đông Nam Á.
Những tộc người này vốn được hình thành và phát triển lâu đời trên các địa bàn của núi rừng nam Trường Sơn – Tây Nguyên và vùng đồng bằng ven biển Trung bộ.
Trong quá trình sinh sống, các dân tộc này ngoài đặc điểm chung về nền tảng văn hóa và nguồn gốc Mã Lai – Đa Đảo thì các dân tộc này đã có sự giao lưu rất rõ rệt về kinh tế – văn hóa – xã hội. Chính vì vậy, các tộc người này có sự tương đồng rất lớn về nhiều mặt, đặc biệt là về văn hóa. Tuy nhiên mỗi tộc người lại có những thang bậc khác nhau về trình độ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội. Mặc dù vậy nhưng các tộc người Mã Lai – Đa Đảo cũng đã có sự đóng góp đáng trân trọng vào quá trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Các tộc người Mã Lai – Đa Đảo có tiềm năng và sự phát triển nghệ thuật rất to lớn. Họ là những người có năng khiếu về nghệ thuật mang dấu ấn đặc trưng của tộc người Mã Lai – Đa Đảo.

1. Nhạc cụ truyền thống tộc người Chăm

Người Chăm là một tộc người có nền âm nhạc rất phong phú và đa dạng. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử nền âm nhạc của tộc người Chăm cũng phát triển một cách đặc biệt, vừa mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang các vùng, các tộc người xung quanh, vừa học hỏi, tiếp nhận nền âm nhạc của các tộc người khác. Chính điều này đã tạo nên một kho tàng âm nhạc dân gian Chăm vô cùng độc đáo và giàu bản sắc.
Trong nền âm nhạc Chăm, nhạc cụ truyền thống đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng Chăm. Hầu hết các lễ hội, lễ nghi, tín ngưỡng tôn giáo của tộc người Chăm đều không thể thiếu nhạc cụ truyền thống.
Hệ thống nhạc cụ truyền thống Chăm được chia làm 2 loại:
Một là, các nhạc cụ đã thất truyền như đàn champi, kaping, đàn rabap…các nhạc cụ này chỉ còn được ghi nhận qua các văn bản cổ của người Chăm và trong các ký ức người già.
Hai là, nhạc cụ hiện đang tồn tại như đàn kanhi, kèn xaranai, trống baranưng, trống ginơng… những nhạc cụ này hiện được người Chăm sử dụng rất phổ biến trong các sinh hoạt văn hóa của mình.
Dựa trên các tiêu chí về về hình dáng, nguyên tắc phát âm, cấu trúc, tính năng âm nhạc… mà người Chăm đã có sự phân loại theo hệ thống cụ thể như sau:
- Nhóm gõ: bao gồm những nhạc cụ có màng rung và nhạc cụ tự thân vang:
Ginơng: trống đôi 2 mặt, Baranưng: trống 1 mặt, Hagar praung: trống lớn 2 mặt, Hagar xit: trống nhỏ 2 mặt, Ceng đap (sar): chiêng bằng, Ceng tathuw: chiêng có núm, Grong: lục lạc, Chụm chọe
- Nhóm hơi: Kèn xaranai, Axơng: tù và, Waw: sáo, Kadait: tù và sừng trâu
- Nhóm dây: Đàn kanhi: làm bằng mai rùa, Đàn champi, Đàn kaping, Rabap: đàn bầu.
Trong hệ thống nhạc cụ trên, có 3 loại nhạc cụ được cộng đồng Chăm thường được sử dụng và xem như chủ đạo là kèn saranai, trống paranưng, trống ginăng.

2. Nhạc cụ truyền thống của các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên

Có thể nói mỗi dân tộc ở Tây Nguyên có những nét đặc trưng riêng dựa trên nền tảng văn hoá bản địa. Nhạc cụ truyền thống của các tộc người ở Tây Nguyên cũng như vậy. Trước tiên đó là sự tương đồng về một số loại nhạc cụ, đồng thời cũng có những nhạc cụ truyền thống đặc trưng của tộc người mình. Các tộc người theo ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo cũng không phải là ngoại lệ. Hều hết những sáng tạo về nhạc cụ truyền thống của người Tây Nguyên đều dựa vào môi trường tự nhiên. Các chất liệu để chế tác nhạc cụ thường được lấy từ tự nhiên như tre nứa, lá, da thú, gỗ, đất, vỏ bầu khô… Các vật liệu để chế tác nhạc cụ ở Tây Nguyên cũng có sự tương đồng mang yếu tố quốc gia và khu vực Đông Nam Á. Những nhạc cụ này là nhạc cụ dân gian nên chưa có một chuẩn rõ ràng, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người đi trước.
Nói đến âm nhạc Tây Nguyên, người ta thường nhắc đến nhạc cụ gõ. Nhạc cụ gõ cũng là hiện tượng âm nhạc hoá âm thanh và tiết tấu của cuộc sống lao động , mà đặc trưng ở đây là giã gạo chày tay, cây đàn tơrưng nước, tơrưng gió, klong pút…đều có gốc gác từ những dụng cụ đuổi thú trên nương rẫy.
Các nhạc cụ truyền thống thường thấy ở các tộc người Tây Nguyên nói chung và tộc người Mã Lai – Đa Đảo nói riêng đều là những sáng tạo của chính tộc người đó. Riêng duy nhất nhạc cụ cồng – chiêng không phải là sản phẩm do chính những tộc người ở đây sản xuất. Những cồng – chiêng này thường được mua từ người Việt ở miền trung, người Khmer ở Campuchia, người Lào… Tuy cồng – chiêng không phải do tộc người ở đây sản xuất nhưng họ lại là những bậc thầy về khả năng chỉnh âm của chiêng. Và họ (pô ching) chính là những người có khả năng cảm nhận và điều chỉnh tiếng chiêng cho phù hợp với sắc thái, tâm lý và sở thích của tộc người mình. Cồng – chiêng được xem là nhạc cụ tiêu biểu nhất không chỉ của riêng tộc người Nam Đảo mà ở tất cả tộc người ở Tây Nguyên. Phải nói là trong bất cứ nghi lễ, lễ hội hay sinh hoạt nào của tộc người Tây Nguyên lại không thể không có âm vang của cồng – chiêng. Điều này cho thấy tuy không trực tiếp sáng tạo ra cồng chiêng nhưng những tộc người ở đây có khả năng cảm nhận cồng chiêng, và cồng chiêng có vai trò, vị trí đặc biệt trong các sinh hoạt, lễ hội, lễ nghi của các tộc người ở đây.
Ngoài những nhạc cụ truyền thống trên thì ở Tây Nguyên còn được biết đến bởi những bộ đàn đá cổ xưa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bộ đàn đá mới được phát hiện ở Tây Nguyên có cấu trúc hoàn toàn phù hợp với cấu trúc phổ biến của dàn cồng chiêng các tộc người Êđê, Raglai, Mnông, Bana… .
Như vậy, có thể thấy các nhạc cụ truyền thống của tộc người Nam Đảo nói riêng và các tộc người ở Tây Nguyên nói chung khá đa dạng, tận dụng mọi điều kiện sẵn có của tự nhiên để tạo ra các nhạc cụ có tính năng và hiểu quả cao.

3. Mối quan hệ giữa nhạc cụ truyền thống của tộc người Chăm với nhạc cụ truyền thống của các dân tộc Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên

Các dân tộc Mã Lai – Đa Đảo trong quá trình sống đã có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa lẫn nhau kể cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần. Tuy nhiên trong số các dân tộc nói trên, tộc người Chăm có trình độ cao hơn về nhiều mặt từ cách thức xã hội, nghệ thuật, chữ viết… Do đó, văn hóa Chăm có sự ảnh hưởng mạnh mẽ sang các vùng, các tộc người xung quanh và lẽ dĩ nhiên, trong đó có thể có sự ảnh hưởng qua lại của các nhạc cụ truyền thống giữa các tộc người.
Hệ thống nhạc cụ của người Chăm khá đa dạng. Tuy nhiên, trải qua quá trình sử dụng thì đã có một số ít nhạc cụ đã thất truyền và chỉ còn tồn tại ở các tộc người như Raglai, Êđê, Giarai, Churu…
Trong các loại nhạc cụ hơi của các tộc người Raglai, Êđê… đáng chú ý là loại kèn bầu mà người Raglai gọi là rơkle, loại lớn hơn gọi là kuwach, còn người Êđê gọi là đinh năm, người Churu gọi là rơkel. Rơkle được cấu tạo từ 6 ống nứa nhỏ, có lưỡi gà, được gắn vào quả bầu khô và hàn kín bằng sáp mật ong. Rơkle cho 6 âm thanh tương ứng với các âm như: đô, rê, mi, son, la, si. Kèn của người Raglai, Giarai, Êđê…giống nhau ở chỗ có 6 ống: 4 ống hàng trên đảm nhiệm phần giái điệu, 2 ống ở phần dưới đảm nhiệm phần bè, đệm. Ngoài ra, còn phải kể đến tawao (Raglai), tawao còn thấy ở người Êđê với tên là đinh buôt chôc (ống khóc) hoặc đinh buôc mu-ing (ống hát), người Giarai gọi là vô-ông, người Chăm gọi là wao, người Churu gọi là kwao. Đó là chiếc sáo dọc có 4 lỗ, tiếng tawao trong sáng, mượt mà, bay bổng rất thuận lợi cho việc diễn tả tình cảm con người.
Một nhạc cụ hơi khác là kèn awach (tên gọi theo của người Raglai), người Chăm gọi là kadait. Awach là loại nhạc cụ được làm bằng sừng trâu, bò hay dê rừng. Sừng được cắt thủng hai đầu, đầu nhọn được dùi bằng lỗ nhỏ thông với phần rỗng của sừng để làm lỗ thổi, đầu lớn dùng sáp mật ong để đắp thành cái bầu nhỏ, có tác động cộng hưởng. Tiếng awach rất trầm, có độ vang xa. Awach không tham gia vào diễn tấu với các nhạc cụ khác mà chủ yếu vào công việc kêu gọi, ra hiệu lệnh hoặc gây không khí huyên náo.
Trong bộ dây, có 1 nhạc cụ đáng chú ý là đàn goong rel (theo tiếng Giarai). Tùy từng vùng, từng tộc người có tên gọi khác nhau. Người Raglai gọi là chapi hoặc chaping, người Chăm gọi là champi. Ngoài ra còn có k’ny, loại nhạc cụ dây kéo của Giarai, Êđê tuy nhiên, k’ny không có bầu cộng hưởng như đàn kanhi của người Chăm. Khi chơi đàn để khuếch đại âm thanh, người ta dùng 1 sợi dây, 1 đầu dây buộc vào dây đàn, đầu kia buộc vào 1 mảnh mo măng tre có hình tròn. Nghệ nhân phải ngậm toàn bộ mảnh tròn này vào miệng sao cho 1 mặt của nó sát vào hàng răng cửa và giữ cho dây tơ căng. Ở loại nhạc cụ này, người nhạc công thay đổi khẩu hình của mình làm biến dạng âm sắc của cây đàn. Âm lượng của k’ny rất nhỏ, âm thanh được phát ra nghe rất độc đáo, gần giống giọng của con người.
Riêng bộ gõ của các tộc người Nam Đảo có rất nhiều nhạc cụ khác nhau. Cụ thể như hơgơr praung (tiếng gọi của người Raglai, Êđê), người Raglai gọi là sagar, người Chăm gọi là hagơr praung, người Churu gọi là sơgơr. Hagơr praung là lọai nhạc cụ có ống lớn thuộc loại nhạc cụ không định âm có âm thanh trầm, vang xa. Hầu hết các tộc người Nam Đảo dùng trống xưa kia đều tin rằng, tiếng trống mạnh mẽ, linh thiêng. Vì thế, nhiều nơi trống được cất giữ cận thận, chỉ đưa ra đánh vào các ngày hội và lễ.
Một loại nhạc cụ màng rung đáng chú ý khác là hơgơr tăk m’lia (hơgơr păk) là danh từ của tộc người Giarai để chỉ một loại trống nhỏ thường dành cho cá nhân sử dụng. Loại trống này không phổ biến ở các dân tộc Tây Nguyên. Đây là loại nhạc cụ giống hagơr xit của người Chăm. Hơgơr tăk m’lia có âm thanh 1 bên trầm có màu âm đục, 1 bên cao có màu âm vang thanh thoát hơn. Hai mặt có âm thanh khác nhau nên để diễn tả những tình cảm lắng đọng, sâu sắc.
Nói đến cồng – chiêng (theo cách gọi của người Việt) hoặc ching – ceng (người Raglai), knah – ching (người Êđê), hoặc ceng đap – ceng tathuw (người Chăm) có nghĩa là chỉ hai loại: cồng có núm và chiêng bằng không có núm. Tuy nhiên, cũng với hai loại nhạc cụ này người Chăm có cách gọi ngược lại, nếu như cồng có núm được gọi là ching hay knah thì người Chăm gọi là sar. Còn chiêng gọi là cheng.
Cồng và chiêng là hai loại nhạc cụ rất đặc thù ở Việt Nam và Đông Nam Á. Vùng Tây Nguyên được xem là một trong những trung tâm cồng chiêng của Đông Nam Á. Hầu hết các tộc người cư trú trên địa bàn Tây Nguyên đều có dàn cồng chiêng của riêng mình. Có tộc người có đến 2-3 dàn chiêng cho các nghi lễ khác nhau. Người Êđê có chiêng knah, gồm 6 chiêng không có núm, 3 chiêng có núm và 1 hơgơr. Người Raglai có 1 dàn chiêng aráp, người Giarai, Chăm H’roi… có dàn chiêng trum. Âm thanh của cồng – chiêng trầm, vang vọng. Ching – cheng được sử dụng rộng rãi trong đời sống của đồng bào Tây Nguyên, đặc biệt âm thanh của nó là ngôn ngữ giao tiếp với thế giới siêu nhiên.
Hệ thống nhạc cụ người Chăm rất đa dạng và phức tạp. Trong đó, có một số nhạc cụ có tên gọi, cấu tạo và chức năng tương tự như các nhạc cụ của các tộc người cùng ngữ hệ Nam Đảo ở Tây Nguyên. Đó là đàn bầu rabáp, kèn sừng kadait, sáo waw, trống hagơr, ceng – ching… nhưng đồng thời người Chăm cũng có những nhạc cụ rất độc đáo như kèn xaranai, trống ginơng, baranưng và đàn kanhi.
Các tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa Đảo có sự tương đồng rất lớn trong văn hóa nghệ thuật qua một số loại hình nhạc cụ truyền thống. Sự tương đồng này trước tiên do những mối quan hệ gần gũi về nguồn gốc văn hoá Mã Lai – Đa Đảo, tiếp đến là do môi trường sống ngày xưa của các tộc người này khá gẫn gũi và giống nhau. Đặc biệt là quá trình sống, sinh hoạt và giao lưa tiếp biến văn hoá chính là yếu tố đặc biệt tạo nên sự tương đồng này.
Ngày nay, để tìm hiểu về hệ thống nhạc cụ Chăm không thể không tìm hiểu qua nhạc cụ truyền thống của các dân tộc Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên để có những so sánh, đối chiếu và trong tương lai cũng có thể phục hồi lại một số nhạc cụ đã thất truyền của người Chăm. Đây cũng là sự góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc.
Như vậy, nhạc cụ truyền thống của người Chăm và các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên có mối quan hệ rất gần gũi nhau khôngchỉ về cấu trúc, hình dáng, chức năng mà cả âm thanh, thang điệu. Tuy nhiên, mỗi tộc người lại có những nhạc cụ đặc trưng của riêng mình. Điều này cho thấy được yếu tố thống nhất trong đa dạng về các loại nhạc cụ truyền thống của tộc người Chăm với các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên.

_______________________
Tài liệu tham khảo

1. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc Jrai và Bahnar, NXB Trẻ 1993.
2. Đào Huy Quyền, Nhạc khí dân tộc ở Gia Lai, NXB Giáo Dục, Hà Nội 1998
3. Đình Hy – Trượng Tốn, Nhạc cụ truyền thống tộc người Chăm, Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Ninh Thuận, 1996.
4. Hải Liên, Vai trò của âm nhạc trong lễ hội dân gian Chăm Ninh Thuận, NXB Âm Nhạc, Hà Nội 1999.
5. Lê Ngọc Canh – Tô Đông Hải, Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội 1995
6. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB Trẻ 2004.
7. Nguyễn Văn Huy (chủ biên), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997.
8. Nguyễn Tuấn Triết, Lịch sử phát triển xã hội các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2000.
9. Phan Xuân Biên, Người Chăm ở Thuận Hải, Sở Văn hóa thông tin Thuận Hải, 1989.
10. Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1984.
RANDOM_AVATAR
Quang Tuan
 
Bài viết: 113
Ngày tham gia: Thứ 6 15/10/10 21:50
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 5 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN H

Gửi bàigửi bởi honomushi » Thứ 5 11/11/10 20:08

Theo ý mình phải chăng nên thêm 1 phần nêu ý nghĩa, vai trò của nhạc cụ trong đời sống tinh thần của người Chăm ?? Khi chơi nhạc cụ nào đó họ muốn gửi gắm điều gì?
RANDOM_AVATAR
honomushi
 
Bài viết: 75
Ngày tham gia: Thứ 7 08/12/07 22:15
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 1 lần

Re: CÁC NHẠC CỤ TRONG LỄ HỘI DÂN GIAN CHĂM TỪ GÓC NHÌN VĂN H

Gửi bàigửi bởi Quang Tuan » Thứ 7 13/11/10 9:20

Chào bạn "honomushi" thân mến! Âm nhạc giúp người ta cảm nhận và bọc lộ nhiều suy nghĩ của mình về lĩnh vực nào mà bạn quan tâm nên có câu "âm nhạc là không biên giới" nếu bạn hiểu một tí về văn hóa Chăm thì bạn có thể hiểu được nhạc cụ Cham đang gửi gắm với bạn, tôi và tất cả chúng ta về những cái gì...và những ý nghĩa của nó....theo mình âm nhạc là một "ẩn số" mà tôi và bạn sẽ thưởng thức và cảm nhận về nó....và mỗi loại nhạc cụ của người Chăm đều mang trong mình những ý nghĩa rất riêng của nó mà tôi và bạn "Le Kieu Anh", "bagia", taquangdongk15" đã trích dẫn và bài tiểu luận của tôi về nhạc cụ Chăm. Cảm ơn bạn khi ghé thăm chúng tôi và có những góp ý thật quý giá.....nếu có gì thắc mắc bạn cứ hỏi chúng tôi...Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức trả lời câu hỏi của bạn....Hân hạnh.
RANDOM_AVATAR
Quang Tuan
 
Bài viết: 113
Ngày tham gia: Thứ 6 15/10/10 21:50
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 5 lần


Quay về Lý luận văn hóa học

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến34 khách