Tre Việt Nam qua mấy nghìn năm lịch sử đã giúp dân tộc Việt Nam bao lần chống giặc ngoại xâm. Từ cuộc thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng đánh tan quân Mông Cổ, đến cuộc tiến quân như vũ bão ra Bắc của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh. Hay như đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tàn bạo thì tre đã trở thành thứ vũ khí thân thiết đối với quân và dân ta. Tre lúc đó đã trở thành chiến luỹ vững chắc, trở thành tầm vông, cung tên sắc nhọn, trở thành đòn gánh, dây thừng, trở thành thang tre, đuốc tre,…chống lại những vũ khí tối tân của kẻ thù. Và đối với những chiến sĩ nằm gai nếm mật nơi rừng sâu, thì măng tre trở thành thứ thực phẩm tuyệt vời trong bữa ăn. Thậm chí, những thanh âm được vang lên từ cây sáo tre giữa núi rừng kháng chiến còn làm tăng thêm ý chí chiến đấu, niềm tin vào ngày mai chiến thắng của cả dân tộc.
Nhớ lại thuở bình minh của lịch sử dân tộc Việt Nam, ta có huyền thoại về Thánh Gióng. Từ một chú bé trở thành võ sĩ khổng lồ, dùng roi sắt, áo giáp sắt, ngựa sắt để đánh giặc Ân. Khi roi sắt gẫy, chàng nhổ ngay bụi tre lớn để đuổi diệt tan quân giặc.
Có thể nói, từ xa xưa, hình ảnh cây tre, luỹ tre đã in đậm trong hình ảnh làng xã Việt Nam. Tre không chỉ cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm mà còn là công cụ đặc lực trong công cuộc diệt giặc lụt, giặc dốt, trong cuộc sống thường nhật nữa. Chẳng thế mà hình ảnh cây tre đã đi vào tâm thức của mỗi con người Việt Nam thật gần gụi, thân thương.
[center][/center]
Cây tre là nét đặc sắc nhất của làng xã Việt Nam. Mỗi làng như là cái nôi văn hóa dân tộc, là một hòn đảo có luỹ tre xanh bao bọc. Người nông dân xưa kia ít đi xa, gắn bó với làng mạc, ruộng đồng, với mảnh đất trôn nhau cắt rốn. Vì vậy, mỗi khi đi khỏi làng ít ngày về, từ xa trông thấy luỹ tre làng là lòng lại tràn ngập thân thương.
Hình ảnh cây tre không chỉ tượng trưng cho tinh thần thượng võ Việt Nam, tre còn là biểu tượng của văn hóa hòa bình, còn đi vào trong thơ ca, nghệ thuật, trong đời sống của mỗi người dân Việt Nam.
Cách đây 6-7 chục năm, có một cuốn sách vỡ lòng cho trẻ lên 6, lên 7, đã viết về công dụng của tre như sau: “lá thì để cho bò, cho ngựa ăn, cành thì làm hàng rào, làm giậu. Cây già thì làm cột nhà, kèo nhà. Cây non thì làm dây, làm lạt, măng thì làm đồ ăn, rễ thì làm bàn chải giặt quần áo,…”. Một thứ cây mà có ích cho ta như thế thì thật quý lắm.
Đi vào việc tìm hiểu sâu hơn tác dụng của tre đối với đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam còn vô cùng đa dạng, phong phú.
Trước hết, vấn đề ăn: Người Việt Nam ăn bằng đũa, phổ biến là đũa tre, riêng vấn đề này cũng đẻ ra nhiều tục lệ khác với nền văn hóa ăn đĩa, các món ăn đều được bày ra mâm, ai muốn gắp món nào tuỳ ý. Nấu cơm phải cần rá vo gạo, đóm châm bếp, đôi đũa cả,…Măng tre dùng làm thức ăn phổ biến dưới ba hình thức: măng tươi ngâm nước vài ngày trước khi nấu với thịt cá, măng chua ngâm nước làm cho lên men, nấu canh hay xào với thịt cá, măng khôi phơi nắng lâu ngày, để ninh với thịt là món ăn giỗ Tết.
[center][/center]
Chiếc điếu tre mang lại cho người nông dân những phút sảng khoái, quên hết mệt nhọc khi rít một điếu thuốc lào kêu sòng sọc.
Tre còn dùng làm thuốc. Lá tre đun với lá hương nhu, cúc tần, lá sả để xông chữa cảm. Nước măng non chữa sốt nặng. Tinh tre (vỏ ngoài ống) trị chứng trẻ con nôn oẹ.
Tre tạo nên một nền kiến trúc dân gian đơn giản, thoáng mát, hợp với khí hậu nhiệt đới. Nhà sử học người Pháp Brandet nhận xét là nền văn minh lúa mì ăn nhiều thịt và sử dụng kim khí, còn nền văn minh lúa gạo ăn ít thịt, nhiều rau, xây dựng dùng nhiều tre gỗ. Một căn nhà ở nông thôn Việt Nam xưa thường lợp lá, 3 gian 2 chái có thể làm hoàn toàn bằng tre, không dùng đến một chiếc đinh sắt nào.
[center][/center]
Tre cung cấp những nhu cầu chủ yếu ở nông thôn, đặc biệt cho nông nghiệp: vai cày, bừa, gàu tát nước, cán cuốc thuổng,…Tre làm thành cần câu, đơm, khung lưới để đi bắt tôm cá, thành cung, nỏ, tên, bẫy, lao,… để đi săn, thành thúng mủng,…để đựng nông sản,…
Tre cũng thật hữu dụng trong nhiều hoạt động lao động, sản xuất khác của người dân như: làm đòn gánh cho các chị, các cô gánh lúa về nhà, gánh nước những thùng nước trong vắt, gánh mẹt hàng rong đi bán. Rồi thì nhiều phụ tùng trên xe trâu bò kéo cũng dùng đến tre, làm thuyền thúng, thuyền nan để đi trên ao hồ cũng dùng đến tre,…
Rất nhiều đồ vật trong nhà cũng được làm bằng tre: từ cái chõng, cái bàn, cái ghế, cái giường, đến cái quạt nan, cái sào phơi,…nhất nhất đều làm bằng tre. Đồ chơi cho tre con nhiều thứ cũng làm bằng tre: như khung diều, que chuyền, thanh phách,…
[center][/center]
Những buổi chiều hè, ngồi dưới luỹ tre trò chuyện, hưởng cơn gió mát, dõi theo những cánh diều với tiếng sáo vi vu thì quả không có cái thú nào bằng.
Tre còn đi vào tín ngưỡng, tôn giáo. Nén hương đốt lên để tạo không khí giao cảm âm dương có thân bằng tre. Cây nêu ngày Tết để trừ tà làm bằng một thân tre có buộc các thứ bùa. Những đồ mã hóa vàng cúng người chết đều có cốt bằng tre.
[center][/center]
Trong văn học dân gian, tre có mặt trong các câu ca dao về tinh yêu, về vẻ đẹp của người phụ nữ:
[center]“Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre”.[/center]
[center]“ Trúc xinh trúc mọc bên đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh”.[/center]
Trong văn chương bác học, trúc và mai quyện với nhau thành một hình ảnh biểu tượng cho tình yêu, tuổi trẻ.
[center]“Làm thân trâu ngựa đến nghì trúc mai”[/center]
[right](Truyện Kiều - Nguyễn Du)[/right]
[center]“Một nhà sum họp trúc mai”[/center]
[right](Truyện Kiều - Nguyễn Du)[/right]
Có thể nói, từ mấy nghìn năm tre đã in đậm dấu lên nền văn hóa Việt Nam. Trong trào lưu toàn cầu hóa ngày nay, tre Việt Nam với tất cả những giá trị vật chất cũng như tinh thần của nó rất cần được bảo vệ chống lại sự xâm lăng của bê-tông hóa phi nhân tính đến chóng mặt như hiện nay.
[center]Bài viết còn mang tính sơ khai, mong được các bạn góp ý
Xin chân thành cảm ơn[/center]
Nhớ lại thuở bình minh của lịch sử dân tộc Việt Nam, ta có huyền thoại về Thánh Gióng. Từ một chú bé trở thành võ sĩ khổng lồ, dùng roi sắt, áo giáp sắt, ngựa sắt để đánh giặc Ân. Khi roi sắt gẫy, chàng nhổ ngay bụi tre lớn để đuổi diệt tan quân giặc.
Có thể nói, từ xa xưa, hình ảnh cây tre, luỹ tre đã in đậm trong hình ảnh làng xã Việt Nam. Tre không chỉ cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm mà còn là công cụ đặc lực trong công cuộc diệt giặc lụt, giặc dốt, trong cuộc sống thường nhật nữa. Chẳng thế mà hình ảnh cây tre đã đi vào tâm thức của mỗi con người Việt Nam thật gần gụi, thân thương.
[center][/center]
Cây tre là nét đặc sắc nhất của làng xã Việt Nam. Mỗi làng như là cái nôi văn hóa dân tộc, là một hòn đảo có luỹ tre xanh bao bọc. Người nông dân xưa kia ít đi xa, gắn bó với làng mạc, ruộng đồng, với mảnh đất trôn nhau cắt rốn. Vì vậy, mỗi khi đi khỏi làng ít ngày về, từ xa trông thấy luỹ tre làng là lòng lại tràn ngập thân thương.
Hình ảnh cây tre không chỉ tượng trưng cho tinh thần thượng võ Việt Nam, tre còn là biểu tượng của văn hóa hòa bình, còn đi vào trong thơ ca, nghệ thuật, trong đời sống của mỗi người dân Việt Nam.
Cách đây 6-7 chục năm, có một cuốn sách vỡ lòng cho trẻ lên 6, lên 7, đã viết về công dụng của tre như sau: “lá thì để cho bò, cho ngựa ăn, cành thì làm hàng rào, làm giậu. Cây già thì làm cột nhà, kèo nhà. Cây non thì làm dây, làm lạt, măng thì làm đồ ăn, rễ thì làm bàn chải giặt quần áo,…”. Một thứ cây mà có ích cho ta như thế thì thật quý lắm.
Đi vào việc tìm hiểu sâu hơn tác dụng của tre đối với đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam còn vô cùng đa dạng, phong phú.
Trước hết, vấn đề ăn: Người Việt Nam ăn bằng đũa, phổ biến là đũa tre, riêng vấn đề này cũng đẻ ra nhiều tục lệ khác với nền văn hóa ăn đĩa, các món ăn đều được bày ra mâm, ai muốn gắp món nào tuỳ ý. Nấu cơm phải cần rá vo gạo, đóm châm bếp, đôi đũa cả,…Măng tre dùng làm thức ăn phổ biến dưới ba hình thức: măng tươi ngâm nước vài ngày trước khi nấu với thịt cá, măng chua ngâm nước làm cho lên men, nấu canh hay xào với thịt cá, măng khôi phơi nắng lâu ngày, để ninh với thịt là món ăn giỗ Tết.
[center][/center]
Chiếc điếu tre mang lại cho người nông dân những phút sảng khoái, quên hết mệt nhọc khi rít một điếu thuốc lào kêu sòng sọc.
Tre còn dùng làm thuốc. Lá tre đun với lá hương nhu, cúc tần, lá sả để xông chữa cảm. Nước măng non chữa sốt nặng. Tinh tre (vỏ ngoài ống) trị chứng trẻ con nôn oẹ.
Tre tạo nên một nền kiến trúc dân gian đơn giản, thoáng mát, hợp với khí hậu nhiệt đới. Nhà sử học người Pháp Brandet nhận xét là nền văn minh lúa mì ăn nhiều thịt và sử dụng kim khí, còn nền văn minh lúa gạo ăn ít thịt, nhiều rau, xây dựng dùng nhiều tre gỗ. Một căn nhà ở nông thôn Việt Nam xưa thường lợp lá, 3 gian 2 chái có thể làm hoàn toàn bằng tre, không dùng đến một chiếc đinh sắt nào.
[center][/center]
Tre cung cấp những nhu cầu chủ yếu ở nông thôn, đặc biệt cho nông nghiệp: vai cày, bừa, gàu tát nước, cán cuốc thuổng,…Tre làm thành cần câu, đơm, khung lưới để đi bắt tôm cá, thành cung, nỏ, tên, bẫy, lao,… để đi săn, thành thúng mủng,…để đựng nông sản,…
Tre cũng thật hữu dụng trong nhiều hoạt động lao động, sản xuất khác của người dân như: làm đòn gánh cho các chị, các cô gánh lúa về nhà, gánh nước những thùng nước trong vắt, gánh mẹt hàng rong đi bán. Rồi thì nhiều phụ tùng trên xe trâu bò kéo cũng dùng đến tre, làm thuyền thúng, thuyền nan để đi trên ao hồ cũng dùng đến tre,…
Rất nhiều đồ vật trong nhà cũng được làm bằng tre: từ cái chõng, cái bàn, cái ghế, cái giường, đến cái quạt nan, cái sào phơi,…nhất nhất đều làm bằng tre. Đồ chơi cho tre con nhiều thứ cũng làm bằng tre: như khung diều, que chuyền, thanh phách,…
[center][/center]
Những buổi chiều hè, ngồi dưới luỹ tre trò chuyện, hưởng cơn gió mát, dõi theo những cánh diều với tiếng sáo vi vu thì quả không có cái thú nào bằng.
Tre còn đi vào tín ngưỡng, tôn giáo. Nén hương đốt lên để tạo không khí giao cảm âm dương có thân bằng tre. Cây nêu ngày Tết để trừ tà làm bằng một thân tre có buộc các thứ bùa. Những đồ mã hóa vàng cúng người chết đều có cốt bằng tre.
[center][/center]
Trong văn học dân gian, tre có mặt trong các câu ca dao về tinh yêu, về vẻ đẹp của người phụ nữ:
[center]“Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre”.[/center]
[center]“ Trúc xinh trúc mọc bên đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh”.[/center]
Trong văn chương bác học, trúc và mai quyện với nhau thành một hình ảnh biểu tượng cho tình yêu, tuổi trẻ.
[center]“Làm thân trâu ngựa đến nghì trúc mai”[/center]
[right](Truyện Kiều - Nguyễn Du)[/right]
[center]“Một nhà sum họp trúc mai”[/center]
[right](Truyện Kiều - Nguyễn Du)[/right]
Có thể nói, từ mấy nghìn năm tre đã in đậm dấu lên nền văn hóa Việt Nam. Trong trào lưu toàn cầu hóa ngày nay, tre Việt Nam với tất cả những giá trị vật chất cũng như tinh thần của nó rất cần được bảo vệ chống lại sự xâm lăng của bê-tông hóa phi nhân tính đến chóng mặt như hiện nay.
[center]Bài viết còn mang tính sơ khai, mong được các bạn góp ý
Xin chân thành cảm ơn[/center]