gửi bởi Le Truc Anh » Chủ nhật 11/01/09 19:08
[justify]Trước hết xin bày tỏ sự vui mừng cùng lời Cảm ơn trân trọng vì đề tài đã nhận được nhiều mối quan tâm, đồng cảm và những ý kiến tranh luận khác nhau từ phía độc giả. Điều này cho thấy Tấm lòng và ý thức Trách nhiệm của Quý vị đối với việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong giai đoạn mở rộng giao thoa văn hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Ngay từ đầu, khi đặt vấn đề tôi đã nhấn mạnh tính mục đích của đề tài này: “dù không sinh ra tại Hà Nội, chúng ta vẫn là những người con mang dòng máu Tiên – Rồng, vậy hẳn ai cũng mong muốn thủ đô Hà Nội - “trái tim của cả nước” thật sự xứng đáng là thành phố hào hoa, thân thiện, hòa bình. Cùng nhau tìm hiểu và chỉ ra căn nguyên của những biểu hiện “xấu xí”, vô văn hóa ở những “công dân thủ đô đương đại” từ một Lễ hội hoa hầu góp phần gieo trồng những giá trị văn hóa tích cực hơn, thiết nghĩ là một cách để chúng ta thể hiện vai trò, (trong đó có cả trách nhiệm) của những người say mê nghiên cứu VHH và yêu quý Văn hóa Việt Nam”. Như vậy, để chung tay, góp sức Xây dựng Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc- một NỀN văn hóa mà Cha Ông ta đã dày công gây dựng để hôm nay tất cả chúng ta đang cùng Chung Hưởng, từ đó cùng có Trách nhiệm tiếp tục giữ gìn, phát triển…thiết nghĩ, CẦN VƯỢT THOÁT RA KHỎI TÂM LÝ VÙNG, MIỀN dẫn đến biểu hiện TỰ ÁI trong quan niệm về “người Hà Nội” và “người nhà quê”, “người thành phố” và “người nông thôn”… Điều này dễ khiến những tranh luận của chúng ta “lạc xa” khỏi mục đích tốt đẹp ban đầu, rơi vào “rừng rậm” của hẹp hòi, định kiến về văn hóa vùng miền…với những đối lập tuyệt đối và thiển cận về “người nông thôn” và “người thành thị”, về “chất nông thôn” và “chất Hà Nội”…
Theo nghĩa tích cực, để lý giải nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Lễ hội hoa Hà Nội (mà ý nghĩa thiết thực và cụ thể nhất là góp phần tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc tổ chức Lễ hội 1000 năm Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội đang đến rất gần), chúng ta cần có sự nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, thẳng thắn, trung thực và thiện chí. Trong trường hợp này, về phương pháp luận, tư duy duy vật biện chứng và duy vật lịch sử sẽ giúp chúng ta tránh được cái nhìn cực đoan, hoặc phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời về “chất nông thôn” hay “chất Hà Nội” biểu hiện qua Lễ hội hoa Hà Nội vừa qua. Cũng từ đó, chúng ta sẽ thấy, những điều GS.TSKH Trần Ngọc Thêm phát biểu trả lời phỏng vấn báo Pháp Luật TP.HCM và nhiều ý kiến đóng góp xây dựng của một số nhà nghiên cứu văn hóa, xã hội, nhà văn, trí thức, học giả và một số quần chúng nhân dân theo hướng này (như báo chí đã dẫn) là hoàn toàn có căn cứ và cơ sở lý luận khoa học.
Thứ nhất, trên nền tảng của tư duy duy vật biện chứng, không thể phủ nhận rằng, phương thức kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước – hệ quả của điều kiện địa lý – khí hậu nhiệt, ẩm, gió mùa, môi trường sông nước… rất đặc thù của Việt Nam (được GS Thêm xếp vào loại hình Văn hóa Gốc nông nghiệp - Định cư - Trọng Tĩnh) đã sản sinh ra nhiều truyền thống văn hóa trở thành bản sắc chung cho toàn thể con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, bất kể Bắc – Trung – Nam, miền xuôi – miền núi, nông thôn – đô thị, “thành phố” hay “ngoại tỉnh”, hiện ở trong nước hay đang sinh sống tại nước ngoài…Nói đến nông nghiệp – nông thôn – nông dân Việt Nam là nói đến cội nguồn, gốc rễ, căn cước văn hóa của toàn thể dân tộc. Hiểu được như vậy, sẽ rất thừa khi cứ phải nhắc đi nhắc lại rằng: “tôi… truyền đời cả nội ngoại đều là nông dân” (Khương Hồng Minh) hoặc “văn hóa của người dân VN đều bắt nguồn từ văn hóa làng xã, cái "thanh lịch" của người Tràng An cũng là sự kết tinh của văn hóa mà người dân các làng nghề tứ xứ hội tụ về đây thuở đất Thăng Long mới hình thành”…(Hữu Thọ) bởi điều đó là tất yếu! Càng tất yếu hơn, khi ta nắm rõ mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa kinh tế và văn hóa… Từ nguyên lý cơ bản và phổ quát nhất , vật chất quyết định ý thức, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội…và “suy cho đến cùng kinh tế đóng vai trò quyết định” (C.Marx)…thì ngược lại, đồng thời phải khẳng định, ý thức xã hội (cụ thể trong trường hợp này, là văn hóa truyền thống)…có Tính độc lập tương đối, nghĩa là nó có thể tác động ngược trở lại, theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực đối với sự vận động và phát triển tiến bộ của đời sống xã hội. Phải chăng, vì thế, sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh - người học trò xuất sắc của Marx – Engels – Lenine, luôn nhắc nhở chúng ta, để xây dựng “Đời sống mới” cần có tư duy tỉnh táo, khoa học và cách làm kiên trì, thận trọng bởi: Thói quen xấu và truyền thống lạc hậu cũng là giặc nội xâm của dân tộc. Đã là “giặc” thì cần phải chống! Không ai nói chống giặc ngoại xâm dễ hơn chống “giặc nội xâm” và ngược lại. (Nói thế không chừng lại làm cho những người thích suy luận, suy diễn theo kiểu của ông Khương Hồng Minh càng “nóng nảy” hơn nữa!? Trong bài viết của mình, ông hoàn toàn đúng khi cho rằng “đất nước còn nợ giai cấp nông dân món nợ có lẽ không bao giờ trả được, đó là hàng triệu người nông dân mặc áo lính và không mặc áo lính đã ngã xuống trong mấy cuộc kháng chiến oanh liệt giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc chúng ta…”. Giặc ngoại xâm đã gieo rắc và để lại trên mảnh đất quê hương ta một “kỷ lục” mà có lẽ không một người Việt Nam có lương tri nào lại muốn kỷ lục ấy được nêu trong Guiness như một “thành tích”: Đó là kỷ lục Đau thương, kỷ lục của những mất mát, hi sinh âm thầm và vĩ đại không thể diễn đạt hết bằng lời, không thể tính đếm bằng năm tháng, bằng máu xương của một vài thế hệ, hay chỉ một, hai giai - tầng cụ thể trong xã hội …Vì thế, thậm chí, nếu trong bài viết của mình, ông có liệt kê và bổ sung thêm: “đất nước còn nợ giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam…” thì cũng chưa thật thỏa đáng! Đã là người Việt Nam, ai không hiểu Chân lý khách quan: Khi Tổ quốc cần “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!” và Đạo lý truyền thống: “Uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”… Nhưng, điều đáng nói ở đây là, ông đã rất sai khi đồng nhất hình ảnh người nông dân cụ thể với “căn tính nông dân” - được hiểu như một “symbol” - một “biểu trưng” cho nét bản sắc, tính cách văn hóa truyền thống của con người Việt Nam. Tâm lý, tính cách, bản sắc, diện mạo văn hóa truyền thống…v..v…đều chịu sự quy định của tồn tại xã hội (trong đó bao gồm điều kiện địa lý - khí hậu, môi trường sống, dân cư…) và của phương thức kinh tế (yếu tố được C.Marx nhấn mạnh “suy cho đến cùng”- nghĩa là nguyên nhân của mọi nguyên nhân). Các truyền thống, tâm lý, tính cách… này, đến lượt nó, tác động ngược trở lại sự vận động và phát triển xã hội theo hai cách: vừa thúc đẩy (nếu nó tốt và phù hợp), vừa kìm hãm (nếu nó xấu và đã trở nên lạc hậu trước những biến đổi của hoàn cảnh và hiện thực khách quan…) – Đây chính là quy luật tất yếu phản ánh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội mà chúng tôi đã dẫn ở trên. Tương tự, GS Thêm, bằng phương pháp Hệ thống – Loại hình đã lý giải tính hai mặt (lưỡng phân) của các truyền thống văn hóa Việt Nam như hệ quả đa chiều của Loại hình văn hóa GỐC nông nghiệp – Nếu ai từng đọc và nghiên cứu kỹ cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của GS. VS Trần Ngọc Thêm thì chắc chắn không thể có những nhầm lẫn cực đoan và đáng tiếc như vậy! ).
Trở lại vấn đề đang bàn, hẳn không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví von, so sánh “Thói quen xấu và truyền thống lạc hậu” với “giặc” mà lại là “giặc nội xâm”. “Giặc nội xâm” là giặc ở bên trong, nằm ngay trong lòng dân tộc, trong nếp nghĩ, thói quen, trong hành xử hàng ngày của chúng ta…Cổ nhân có câu: Giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời. Cái gọi là “bản tính”, “căn tính” ấy (ở đây nhấn mạnh đến cái xấu) chính là những “tàn tích văn hóa”, hình thành từ ngàn năm trước, vẫn đang hiện diện và gây ra không ít trở ngại cho đời sống văn minh, hiện đại của con người. Thậm chí nó có thể đẩy lùi sự phát triển kinh tế xã hội, kèm theo đó, hành xử của con người không những không nhân văn hơn mà còn có những biểu hiện thô bạo, “man rợ”. Lễ hội hoa Hà Nội vừa qua là một minh chứng. Vậy, chống “giặc nội xâm” trên tinh thần của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy là “chống” những biểu hiện tiêu cực gắn liền với “căn tính nông dân” đang tồn tại trong cả dân tộc chứ không phải “bêu xấu”, “quay về đổ lỗi cho nông thôn” với thái độ “quá coi thường những người nông dân” (như ông Hữu Thọ viết) đang sinh sống ở thành phố trong quá trình đô thị hóa tại Hà Nội cũng như bất kỳ vùng nào trên đất nước ta.
Thứ hai, trên nền tảng của tư duy duy vật lịch sử, khi xem xét bất kỳ một truyền thống văn hóa hay một hiện tượng văn hóa nào, đánh giá tính giá trị của nó, khẳng định là tốt hay xấu, phù hợp hay không phù hợp… phải dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể. Trong nghiên cứu lý luận Văn hóa học, hệ tọa độ K - T - C mà GS Thêm cung cấp là một công cụ khoa học không thể thiếu. Ngay từ những bài giảng đầu tiên, GS đã nhấn mạnh và khẳng định, cung cấp công cụ trong nghiên cứu văn hóa là để có được cái nhìn khách quan trong đánh giá các giá trị, những tập tục, hay truyền thống văn hóa dân tộc của Việt Nam nói riêng, của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới nói chung. Chẳng hạn, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng, có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng, vào những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có thể có hoặc không có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn...Như vậy, không thể áp đặt một quan niệm về phẩm chất (tốt hay xấu, tiêu cực hay tích cực…) cho một giá trị văn hóa nào đó ở mọi không gian, mọi thời gian…Ứng dụng cho việc lý giải nguyên nhân sự thê thảm của Lễ hội hoa vừa qua, trước hiện tượng một số người có hành vi bẻ cành, ngắt hoa…, khi phóng viên hỏi: Tại sao lại hành động như vậy? nhiều người hồn nhiên đáp: Chơi Xuân thì phải hái lộc mang về mới may mắn! Như vậy, chính nghề nông nghiệp trồng trọt đã làm nảy sinh nhu cầu, ao ước về sự sinh sôi, nảy nở phồn thực của mùa màng, cây trái…Từ đó hình thành tục Hái lộc đầu xuân với mong cầu, nguyện ước về sự no đủ, phồn vinh, hạnh phúc đến với mọi nhà, mọi người. Nhưng tập tục này chỉ có ý nghĩa trong không gian làng xã trước đây, trong bối cảnh hiện nay, khi cách thức tổ chức cộng đồng của Hà Nội nói riêng, của toàn thể xã hội Việt Nam nói chung được xây dựng trên nền tảng Pháp luật, trong đó nguyên tắc ứng xử “Sống và Làm việc theo Pháp luật” đã thay thế truyền thống “Phép vua thua lệ làng” thì việc bẻ cành, ngắt hoa nơi công cộng bị xem là vi phạm pháp luật, vi phạm Luật bảo vệ môi trường…Tách rời quan điểm lịch sử - cụ thể, không nghiên cứu và vận dụng đúng đắn lý luận về Hệ tọa độ văn hóa, rất dễ rơi vào chủ quan, cảm tính, kinh nghiệm trong đánh giá các truyền thống văn hóa dân tộc, kể cả với những truyền thống thường được xem là tích cực như tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết, truyền thống trọng tình, tương thân tương ái…Không ai phủ nhận “những ứng xử "kính trên nhường dưới", "chị ngã em nâng", "tắt lửa tối đèn có nhau", "thương hoa tiếc nguyệt" chẳng phải là "đặc sản" của riêng của văn hóa vùng miền nào mà là của chung dân tộc Việt Nam được đúc kết truyền thống văn hóa ứng xử từ hàng ngàn đời này mà ra” (như ông Hữu Thọ đã viết) là sản phẩm tất yếu của nông nghiệp – nông dân – nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, các truyền thống này luôn mang tính nước đôi: Quá trọng tình, sẽ dẫn đến xem nhẹ lý, quá linh hoạt sẽ dẫn đến biến báo, tùy tiện, không quen sống trong khuôn khổ pháp luật, quá dân chủ dẫn đến cào bằng, “trên bảo dưới không nghe”…Hình như điều này, một người Việt Nam lạc quan nhất cũng không thể không thừa nhận đây là những điểm yếu trong tính cách của người Việt. Và chính nó là một trong những “giặc nội xâm” phá hỏng Lễ hội hoa Hà Nội vừa qua! Như vậy, không thể phủ nhận “căn tính nông dân” là một nguyên nhân CÓ THẬT , thậm chí cần thẳng thắn chỉ ra đây là một nguyên nhân căn cơ nhất, ẩn sâu nhất và khó trị nhất đối với chúng ta trong quá trình phát triển hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, an toàn, lành mạnh, và bền vững. Ông cha ta đã dạy, “trị bệnh phải trị tận căn”. Nếu như chúng ta, vì tự ái (không loại trừ trong đó, có cả những “ẩn ức”, tự ái cá nhân, a dua, nói cho “sướng “ miệng…một cách thiếu bình tĩnh và thiện chí) không dám nhìn vào những điểm “xấu xí” trong tính cách văn hóa của chính bản thân dân tộc mình, lờ đi hoặc chối bỏ “căn nguyên” gốc rễ của “bệnh” thì sẽ tiếp tục kéo dài sai lầm và thất bại trong việc tổ chức và quản lý xã hội. Điều này, Bác Hồ cũng đã dạy, cái xấu - giống như vết nhọ, cần phải tẩy xóa cho sạch. Tuy nhiên, “nhọ trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ trong óc, ở tinh thần mà không nói cho người ta sửa là hại người”. Phê bình là để sửa sai, nếu “sợ phê bình “mèo khen mèo dài đuôi” thì không thể tiến bộ được và bản chất của “ Phê bình không phải là để công kích, để nói xấu, chửi rủa…” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trg. 261) mà để cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.
Chúng ta học văn hóa, nghiên cứu văn hóa là để phát hiện và chỉ ra các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển văn hóa của một dân tộc…Quan trọng nhất, khi suy xét một hiện tượng văn hóa, không phải để khẳng định văn hóa của cộng đồng người này cao hơn hay thấp hơn cộng đồng người khác, lối sống của vùng miền này tốt hơn vùng miền khác, dân tộc này văn minh hơn dân tộc khác, người nông dân tốt hơn người thành phố, hay ngược lại, người thành thị thanh lịch hơn người nông thôn…v..v.. mà để tìm ra những mối liên hệ có tính bản chất, góp phần lý giải các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình vận động và phát triển.
Trên đây là một số ý kiến để những tranh luận của chúng ta đi đúng mục đích đặt ra: Tìm nguyên nhân thất bại của Lễ hội hoa Hà Nội, tránh việc sa vào phân tích sự khác biệt hay độc tôn văn hóa vùng, miền giữa người nông thôn và thành thị một cách cực đoan, không mang tính khoa học.
Cá nhân tôi đang tiếp tục suy nghĩ và nghiên cứu theo hai hướng:
1. Nếu “căn tính nông dân” được xem là một đặc trưng văn hóa chung của người Việt Nam thì Tại sao Lễ hội hoa tổ chức tại Đà Lạt, Thành phố Hồ Chí Minh..vv..thành công, còn ở Hà Nội thì thất bại?
2. Giáo dục có phải là nguyên nhân chính không, khi toàn quốc (từ 1975 đến nay) đều thống nhất một hệ thống giáo dục, trong đó Hà Nội - thủ đô của cả nước là nơi được thụ hưởng nhiều điều kiện thuận lợi nhất?
Xin các nhà nghiên cứu VHH và những ai yêu quý văn hóa Việt Nam tiếp tục góp bàn. Cám ơn nhiều![/justify]