Từ xưa đến nay, đô thị bao giờ cũng là bộ mặt của quốc gia, của vùng miền. Nhìn vào diện mạo văn hóa đô thị có thể thấy cả quá khứ, hiện tại và tương lai, những đặc điểm lịch sử và xu hướng vận động của một nền văn hóa dân tộc.
Văn hóa đô thị Việt Nam, từ văn hóa “đô” đến văn hóa “thị”, từ đô thành đến thị cảng, theo dòng chảy lịch sử, phản ánh những thăng trầm của diễn trình văn hóa Việt Nam. Nói theo GS. Trần Quốc Vượng, là “mặt tiền” của văn hóa dân tộc, nhìn vào đô thị có thể nhận thức rõ quan hệ giữa văn hóa đô thị và văn hóa nông thôn, văn hóa đô thị và văn hóa cung đình, truyền thống và đổi mới, dân tộc và quốc tế, cơ chế tiếp biến để những yếu tố ngoại sinh chuyển hóa thành yếu tố nội sinh.
Các nhà sử học đã viết ít nhiều về đô thị trung cổ như những sản phẩm đặc thù của Việt Nam thời quân chủ. Có loại đô thị được thành lập hoàn toàn do nhu cầu chính trị của triều đình quân chủ; có loại đô thị thương nghiệp, đô thị – trạm dịch gắn liền với sự phát triển nhất định của kinh tế hàng hóa và thương nghiệp ở các thế kỷ X – XIV; có loại cảng – thị tiêu biểu cho các thế kỷ XVII – XVIII tạo ra một toàn cảnh bột phát và sầm uất của đô thị Việt Nam.
Có những đô thị hành chính thuần túy, thành đô, tỉnh lỵ, huyện lỵ, nơi mà phố phường, chợ búa, bến bãi chỉ mọc lên quanh một cái thành được xây cất làm trị sở, “thị” là phần phụ của “đô”, khi “đô” dời đi thì “thị” cũng biến mất. Có những đô thị kinh tế ở miền núi như Kỳ Lừa, Hưng Hóa, đô thị cảng như Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An, đô thị nội địa như Thăng Long, Sài Gòn – Gia Định.
Đặc điểm nổi bật của lịch sử đô thị Việt Nam là tất cả những “đô thị – kinh tế” đều hưng thịnh một thời, rồi lần lượt suy tàn và nông thôn hóa, chỉ các “đô thị hành chính – kinh tế” mới tồn tại lâu dài.
Dĩ nhiên, từ thế kỷ XX, với ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây, lịch sử đô thị Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới.
Chủ đề nghiên cứu văn hóa đô / thành thị ở Việt Nam được tập trung nghiên cứu văn hóa đô / thành thị ở Hà Nội, Huế, Hội An, hiện tại và trong lịch sử. Trước hết là những đô thị từng có tên tuổi một thời, nhưng chỉ còn là nét hào quang mờ nhạt trong hiện tại như Cổ Loa, Phố Hiến. Với Cổ Loa, Nguyễn Doãn Tuân đã làm luận án tiến sĩ về đô thị cổ của thời sơ sử này. (Lịch sử khu di tích Cổ Loa, Luận án Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Hà Nội 1997, Thư viện Quốc gia, ký hiệu L.A 04.07.591). Với Phố Hiến của một thời: Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến, năm 1993, Sở Văn hóa – Thông tin Hải Hưng từng có một hội thảo quốc tế để làm sáng tỏ những giá trị văn hóa của đô thị này.
Với Hội An, hội thảo khoa học quốc tế về Hội An năm 1998 đã được tổ chức, một số tham luận của các tác giả trong, ngoài nước góp phần khẳng định giá trị của khu phố cổ này. Tiếp cận từ tổng thể, với luận án PTS (nay là TS) Các loại hình di tích kiến trúc trong khu phố cổ Hội An (Hà Nội, 1992, Thư viện Quốc gia, ký hiệu LA. 04.07.938, sau được in thành sách) Nguyễn Quốc Hùng đã trình bày những giá trị văn hóa cơ bản của di tích lịch sử – văn hóa này. Năm 1999 khu phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản thế giới, một số công trình nghiên cứu về nó lại liên tiếp xuất hiện như cuốn sách Hội An, di sản thế giới của Nguyễn Phước Tương, Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam của Nguyễn Quốc Hùng.
Với Huế, do vị thế đặc biệt của nó, nhiều công trình nghiên cứu đô thị / kinh đô này đã xuất hiện trong những năm qua. Phần nhiều là các công trình nghiên cứu kiến trúc, lịch sử của các tác giả Phan Thuận An, Nguyễn Đắc Xuân v.v… Còn thiếu một công trình tổng thể về văn hóa đô thị / kinh đô của Huế.
Hà Nội là thành thị rồi đô thị thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngay từ khi người Pháp xâm lược rồi cai trị Hà Nội. Gần đây, trong cao trào hướng tới 1000 năm Thăng Long, một loạt các công trình nghiên cứu về văn hóa Hà Nội của các tác giả lớn như GS. Trần Quốc Vượng, GS. Vũ Khiêu, nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc liên tục được ra mắt bạn đọc. Xin nêu một số cuốn như Trên mảnh đất ngàn năm văn vật của GS. Trần Quốc Vượng; Hà Nội ngàn xưa của GS. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán; Hà Nội như tôi hiểu của GS. Trần Quốc Vượng; Văn hóa Thăng Long – Hà Nội, hội tụ và tỏa sáng Trần Văn Bính chủ biên; Danh nhân Hà Nội Lưu Minh Trị, Nguyễn Vinh Phúc, Vũ Khiêu chủ biên; Văn hiến Thăng Long Vũ Khiêu, Nguyễn Vinh Phúc chủ biên. Có thể nói, những giá trị cơ bản của văn hóa đô thị / kinh đô Hà Nội đã được khẳng định.
Văn hóa đô thị ở Việt Nam từ xưa đến nay vẫn bao gồm “văn hóa đô” và “văn hóa thị”.
Với đô thị cổ, không gian “văn hóa đô” phụ thuộc vào tầm vóc bộ máy hành chính, vào quy mô thành, dinh, trấn của các quan lại và những công trình phụ cận. Trừ cố đô Huế tồn tại với nhà Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng và một ít phế tích của Hoàng thành Thăng Long, nhìn chung, kiến trúc “đô” suốt nghìn năm văn hiến, trải qua những cuộc “hí trường” triền miên trong lịch sử, thì những “dấu xưa xe ngựa”, những “nền cũ lâu đài” chỉ còn lại là “hồn thu thảo” u hoài trong “bóng tịch dương”.
Mảng văn hóa phi vật thể của “đô” lại còn nghèo nàn hơn. Khác với phương Tây và Trung Hoa, giới trí thức nho học Việt Nam không tập trung ở đô thị mà ở làng xã. Ngay cả những quan lại trị nhậm trong “đô”, khi thành đạt vinh quy bái tổ, khi hưu cũng về với quê hương bản quán, sống ở làng. Chỉ ở đó, trong quan hệ với làng xã, nho sĩ trở thành tầng lớp khuyếch trương nho học, tham gia tích cực và hữu hiệu vào các hoạt động sáng tác ngôn từ, sáng tạo, bảo quản và lưu truyền các giá trị văn hóa dân gian.
Văn hóa đô thị, như vậy, chủ yếu là “văn hóa thị”. Nhưng với nền kinh tế hàng hóa chỉ có thể dựa dẫm và đóng vai trò phục vụ bộ máy cai trị, phần “thị” phụ thuộc vào phần “đô”, chịu sự khống chế của “đô”, lấy sự đáp ứng các nhu cầu thường nhật của “đô” làm lý do tồn tại, “thị” không thể chủ động phát triển. “Thị” chẳng những không được nhà nước quân chủ coi trọng, mà bộ mặt kiến trúc “thị” cũng bị khống chế nghiệt ngã từ phía quý tộc quan liêu. Mệnh lệnh sau đây là một minh chứng:
Dân phường nhà giáp đường quan
Không được làm gác trông ngang ra đường
Có cần làm chỗ chứa hàng
Chiều cao không được cao bằng kiệu quan !
Bộ máy cai trị thông qua “đô” kiểm soát và khai thác phần “thị”. “Thị” và thị dân không bao giờ có quyền tự quản. Trong thành phần cư dân đô thị, tầng lớp quan lại đại diện cho nhà nước quân chủ có địa vị cao nhất.
Văn hóa “thị” chịu sự níu kéo đa dạng và dai dẳng của văn hóa nông thôn, thậm chí, chịu số phận thua kém trong quan hệ cộng sinh với văn hóa nông thôn.
“Thị” là sự mở rộng của hệ thống chợ quê. Phần lớn phố phường ở đô thị, kể cả Thăng Long, đô thị lớn nhất và quan trọng nhất của Việt Nam đều mang tính chất thôn làng và chịu sự chi phối của thôn làng. Các phố phường này do các làng độc quyền chiếm giữ, bán các sản phẩm của làng hoặc dân làng ra thành phố vừa sản xuất vừa bán tại chỗ. Những người sản xuất và buôn bán hàng hóa ở đây không phải là thị dân tự do, mà thuộc về làng quê của mình. Họ gắn bó tình cảm với làng, đóng góp nghĩa vụ với làng, với họ. Giỗ tết, hội hè vẫn về làng tham dự. Khi đã an cư lập nghiệp ở thành phố, họ xây cổng làng, xây nhà thờ họ và tổ chức các hoạt động văn hóa như ở quê, có giao lưu trao đổi với làng quê. Làm ăn khá giả thì họ về làng tậu ruộng, khi loạn lạc thì về quê ẩn náu.
Trang 48 sách Đô thị cổ ở Việt Nam của Văn Tạo, Viện Sử học xuất bản năm 1998, có dẫn lại những nhận xét sâu sắc của ông Vũ Quốc Thúc:
“Thị dân Thăng Long không tách hẳn làng xóm và nông nghiệp, họ vẫn nối cái cuống rốn với làng xã được gọi là “nơi chôn rau cắt rốn”, nơi có mồ mả tổ tiên. Họ không có ý thức thị dân mà vẫn mang ý thức thôn làng. Thường họ còn mang cả bát hương thờ thần làng và bát hương nhà thờ họ ra Thăng Long để lập nơi thờ cúng. Thăng Long đầy rẫy đình thờ thành hoàng làng ở các phố phường. Một tác giả phương Tây đếnViệt Nam thế kỷ XVIII đã nhận xét thành thị Việt Nam, chủ yếu là Thăng Long cũng không khác làng xã bao nhiêu. Mỗi làng là một công xã, thành thị lớn thì phân chia thành các phường, mà mỗi phường cũng là một công xã”.
Quốc sách “trọng nông ức thương” và tâm lý trọng nông khinh thương biểu hiện ở mọi tầng lớp, từ quý tộc đến bình dân đã kìm chế nghiệt ngã sự phát triển của văn hóa đô thị. Nghề buôn bị coi nhẹ, thậm chí bị thành kiến. Dưới thời Hồng Đức, nhà vua còn định đuổi tất cả dân thành thị không có hộ khẩu ở Thăng Long phải trở về nguyên quán. Dân thành thị là dân tứ chiếng, sống nơi đất khách quê người, đứng ở bậc cuối trong bảng giá trị “dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt” nên lại càng có nhu cầu gắn bó chặt chẽ với quê hương bản quán.
Một không gian văn hóa “thị” mang đậm tính mô phỏng văn hóa làng, một tầng lớp thị dân không có ý thức thị dân mà mang đậm ý thức dân làng, một nhà nước quân chủ chuyên chế và quan liêu đóng vai trò kìm hãm sự phát triển của đô thị, xu hướng nông thôn hóa thành thị là tất yếu, phổ biến và lâu dài.
Có một mảng sách viết về văn hóa ẩm thực, chủ yếu ở Thăng Long, Huế và Sài Gòn, thú ăn chơi ở đô thị, dù đế vương hóa hay kiểu cách hóa thì vẫn mang dấu ấn của ngon vật lạ chợ quê và thi vị phong lưu nông nhàn.
Đó là đô thị và văn hóa đô thị trong xã hội quân chủ chuyên chế Nho giáo. Khi Việt Nam giao lưu tiếp xúc với văn hóa Pháp và phương Tây, từ đầu thế kỷ XX đã hình thành một mạng lưới đô thị kiểu mới, tiêu biểu là Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, … Văn hóa đô thị mới này đang từng bước hình thành diện mạo riêng của nó. Tuy nhiên quá trình này quanh co, phức tạp, rất khác nhau ở mỗi vùng miền. Có thể nói rằng sự đổi mới và dáng dấp diện mạo văn hóa đô thị hiện đại ở Việt Nam chỉ thực sự tăng tốc trong những năm cuối thế kỷ XX.
Diện mạo văn hóa đô thị đang thay đổi từng ngày. Khác với xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ, khi mà tầng lớp trí thức – thầy đồ tập trung nhiều ở làng xã, trong xã hội hiện nay, đô thị lại là nơi có mật độ dân cư rất cao, tập trung đông đảo các tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân, học sinh, sinh viên … nghĩa là bộ phận dân cư có học vấn, có trình độ văn hóa, có thu nhập cao hơn nhiều so với cư dân làng xã. Họ có năng lực sáng tạo, nhu cầu và thị hiếu văn hóa nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ dân trí của cộng đồng. Vì vậy, ngày nay không còn là thời nông thôn hóa thành thị, mà là xu hướng ngược lại, đô thị hóa nông thôn. Những gì không thể đứng vững ở đô thị, không được thế hệ trẻ tiếp nhận, phải lui về tồn tại ở nông thôn thì cần thiết phải xem lại chính mình. Trở về nông thôn không đồng nghĩa với trở về dân tộc. Trình độ và thị hiếu nông dân không đại diện cho trình độ dân trí.
Văn hóa đô thị đang diễn ra cùng một lúc cả hai xu hướng: có văn hóa nhà nước, văn hóa “bao cấp” và văn hóa vận hành “theo cơ chế thị trường”, theo xu thế “xã hội hóa”. Tuy nhiên, những vấn đề về văn hóa đô thị hiện đại, xu hướng vận động và phương thức quản lý, mối quan hệ hai chiều giữa văn hóa đô thị và văn hóa nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay … vẫn chưa được nghiên cứu nhiều.