“Hai bảy năm trôi qua, chúng tôi không thêm một tuổi nào” - đó là câu thơ viết về mười nữ liệt sỹ thanh niên xung phong Đồng Lộc của nhà thơ Vương Trọng năm 1995. Tháng bảy này, tháng của hàng triệu con tim về với các chị. Dưới mặt đất kia, vọng về niềm kiêu hãnh của 40 năm.
Ngã ba này năm xưa nằm trên trục đường mòn Hồ Chí Minh, thuộc địa bàn xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Mười cô gái ấy đều là người con Hà Tĩnh, thuộc 7 xã, 1 thị trấn của 3 huyện Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn và thị xã Hà Tĩnh. Tất cả nằm lại không phải trên mảnh đất chôn rau cắt rốn.
Tại ngã 3 huyết mạch Bắc - Nam này, họ chung chiến hào khốc liệt trong những thời khắc lấp hố bom của Mỹ dội xuống để không đứt mạch giao thông nối hậu phương với tiền tuyến miền Nam. Để rồi, họ cùng nằm lại trong lòng đất đớn đau vào một buổi chiều nghiệt ngã và khốc liệt, lúc 16 giờ, ngày 24/7/1968. Và trở thành bất hủ, chung một danh xưng: Mười cô gái Đồng Lộc.
Hôm nay, sau 40 năm, nếu còn sống, họ trở thành những bà, những mẹ cao niên. Nhưng, các cô mãi mãi đã N“không thêm một tuổi nào”. Các cô vĩnh viễn ra đi để lưu danh thì con gái mười chín đôi mươi. Người nhiều tuổi nhất là Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ và Võ Thị Tần, 24 tuổi; người ít tuổi nhất là Võ Thị Hà, 17 tuổi.
Tôi đã từng thắp hương tưởng nhớ các liệt sỹ ở nghĩa trang Điện Biên, nơi có những anh hùng Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... Tôi cũng đã từng đến viếng thăm hơn 10 ngàn liệt sỹ tại nghĩa trang Trường Sơn, Quảng Trị, nghĩa trang liệt sỹ lớn nhất Việt Nam...
Cũng là nghĩa trang liệt sỹ - mảnh đất chở che phần cốt nhục của những người con hy sinh vì Tổ quốc thân yêu, nhưng với nghĩa trang Đồng Lộc thì thật khác.
Nơi này chỉ có 10 liệt sỹ, và tất cả đều là con gái trẻ. Thương đau lắm! Thiêng lắm! Nơi này còn lưu một chứng tích mà mỗi người con Lạc cháu Hồng, tóc đen máu đỏ hay dù ở một quốc gia nào khi đến đây đều chân chùng xuống, bước ngập ngừng và cúi đầu lặng lẽ - đó là một hố bom. Hố bom ấy là chứng tích tội ác của kẻ xâm lược.
Tĩnh tâm niệm tưởng, hình như đâu đó làn khói thuốc nổ của 40 năm trước còn vảng vất quanh mấy ngọn cỏ dại mọc dưới lòng hố sâu kia. Có thể là khói hương từ phần mộ của 10 cô. Thân xác trinh nguyên của các cô đã tan vào đất nhưng anh linh thì quảnh quất trong sợi khói. Không biết nữa...! Nhưng ngàn vạn người đến đều trỗi lên trong ký ức những năm tháng khốc liệt nơi đây.
Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1968, đế quốc Mỹ hạn chế ném bom toàn miền Bắc để chuyển hải quân và không quân tập trung đánh phá vùng “yết hầu” từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20 hòng chặn đứng chi viện của hậu phương với tiền tuyến. Mức độ đánh phá của giặc tăng lên 2,6 lần và mật độ bom tăng 20 lần. Chúng chọn 4 “nút” giao thông đường bộ của ta tại Hà Tĩnh là Linh Cảm - Bến Thủy; Đồng Lộc; Gia Thượng - Cổ Ngựa.
Có thể nói, đây là giai đoạn cường độ đánh phá của giặc Mỹ xuống mảnh đất Hà Tĩnh thân thương này cao nhất trong chiến tranh phá hoại. Tất cả các địa danh trên toàn tỉnh đều bị đánh phá ác liệt, trong đó Đồng Lộc là trọng điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất.
Ngã ba này là “túi bom” với hàng vạn tấn bom, trung bình mỗi m2 chịu 3 quả bom lớn.
“Nghìn năm sau lịch sử sẽ còn ghi
Những năm tháng chiến tranh ác liệt
Nghìn vạn chuyến xe đi
Qua trái tim ngã ba Đồng Lộc”(Huy Cận - Ngã ba Đồng Lộc, 1971).
Khác nữa, rất khác, trước 10 phần mộ là những “cây hương” màu đỏ thắm của quốc kỳ, sợi khói trôi mông lung, hư ảo. Hình như người phục vụ cũng không muốn cất bớt đi những cây hương đã cháy hết trong ngày nên chân hương ken vào nhau ngày một to và cao lên như cây cối mỗi ngày sinh sôi. Lòng thành kính dâng đầy. Mặc dù nó nghiêng dần về phía trước nhưng chẳng đổ gục. Những gì thuộc về vong linh các cô đều được mỗi người nâng niu, thật khẽ khàng.
10 cô gái ngã ba Đồng Lộc
Tháng bảy dương lịch, tháng có 10 người trinh liệt ở ngã ba Đồng Lộc. Thật nhiều người tìm đến cửa chùa, nguyện cầu an phúc. Và, cũng thật đông khách thập phương đến viếng mộ 10 cô gái Đồng Lộc. Các cô đã hiển linh trong tâm tưởng của mỗi người.
Sách xưa dạy không quét phần mộ màu trắng, chỉ quét màu xám nhưng ở đây 10 phần mộ toát một màu trắng tinh khôi. Màu của trinh trắng và màu của tang tóc ở ngã 3 này như cứa vào hồn những người viếng niệm.
Mỗi ngôi mộ, ngoài bình hoa cúc màu trắng của Ban quản lý di tích đặt bên lư hương, trên phần mộ có hai loại hoa của khách viếng đặt lên rất nhiều là hoa cúc trắng và hoa hồng đỏ. Đó là “tâm hoa”, là thông điệp từ trái tim của những người đang sống viếng hương hồn các cô. Hoa cúc trắng muốt, hoa biểu tượng cuộc đời trắng trinh. Hoa hồng đỏ, hoa của tình yêu nồng nàn, son sắt… Hình như, màu trắng và màu đỏ của hoa đang cựa quậy để đằm hơn trên những phần mộ?
Mộ của các cô còn được người đến viếng đặt lên những đồ vật nhỏ để các cô dùng: chiếc gương soi, lọ dầu gió, chiếc lược chải tóc... và đặc biệt là những chùm quả bồ kết.
Trong cuộc chiến, dù phải giành giật từng mét đường lành lặn, dù bom nổ chát chúa, khói và đất đá mịt mùng, các nữ thanh niên xung phong vẫn không quên làm đẹp hình thức để tôn vinh giá trị người phụ nữ của một dân tộc yêu hòa bình.
Mộ của các cô trong những năm qua đã di chuyển đến 3 lần và hơn 10 năm nay mới chuyển về chính thức tại ngã ba này - bên đồi Trọ Voi, xã Đồng Lộc. Còn những quả bồ kết được đặt lên mộ có lẽ bắt đầu từ sau khi nhà thơ Vương Trọng viết bài thơ “Lời thỉnh cầu ở Nghĩa trang Đồng Lộc”, ngày 5/7/1995:
Cần gì ư? Lời ai hỏi trong chiều
Chúng tôi chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu
Ngày bom vùi tóc tai bết đất
Nằm xuống mộ rồi, mái đầu chưa gội được
Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang
Cho mọc dậy vài cây bồ kết
Hương chia đều trong hư ảo khói nhang...Bài thơ xao động bạn đọc cả nước. Riêng anh Nguyễn Tiến Tuẫn - một trong ba anh hùng ở Đồng Lộc thì bị ám ảnh không nguôi. Năm 1998, anh quyết định lên huyện Hương Sơn cách đấy hơn 20 cây số tìm hai cây bồ kết con mang về trồng cẩn thận bên mộ của 10 đồng đội.
Bây giờ, giữa những ngày trời thu xanh trong veo hoa bồ kết nở, hương lâng lâng dâng lên quanh vùng. Và ngày 14/8/2002, một bia đá cao 80cm, rộng 40cm khắc bài thơ của Vương Trọng, gồm 4 khổ, 24 câu đặt cạnh 2 cây bồ kết. Thơ bằng chữ quốc ngữ được khắc trên bia đá và đặt tại nghĩa trang có lẽ cũng chỉ ở ngã ba Đồng Lộc này.
Ngoài 10 ngôi mộ và bát hương lớn, hố bom, bia đá và nhiều phần đất khác của sườn đồi, Trọ Voi thường xuyên có những nén hương của khách viếng cắm xuống, mặc dù không có lư hương. Bởi, từng tấc đất nơi đây đâu cũng trộn máu thịt anh hùng...
Chúng tôi chia tay 10 cô gái Đồng Lộc lúc trời chạng vạng. Cánh cò rời thửa ruộng chao về ấp mình trong đồi xanh Trọ Voi. Gió Lào thốc vào mặt nóng hâm hấp. Khói hương vẫn bâng lâng quanh 10 ngôi mộ, bảng lảng trong những mắt lá bồ kết, quẩn quanh dưới ngọn cỏ non và vương vấn người đi... Dặt dìu, chiều chầm chậm. Lắng đọng vùng quê yên bình...
(Theo Minh Đạo/VNN)
Nguồn:
http://www.chovinh.com/xu-nghe-i534-D%C ... B%99c.html