ƯU TIÊN CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG THẾ KỶ 21

Chuyên mục này dành cho những vấn đề có thể cùng lúc liên quan đến trên một hoặc tất cả các nhóm chủ đề khác như: lý luận văn hoá học, văn hoá Việt Nam, văn hoá thế giới, văn hoá học ứng dụng...

ƯU TIÊN CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG THẾ KỶ 21

Gửi bàigửi bởi phanthikimanh » Thứ 2 12/11/07 23:32

Là một nước chậm phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Một mặt, nếu chủ động nắm bắt các xu hướng thời đại, kiên quyết thực hiện các khâu đột phá thì Việt Nam có thể chuyển sang một giai đoạn phát triển mới đầy năng động và phồn vinh. Mặt khác, nếu chưa được chuẩn bị đầy đủ thì với những tác động mạnh của toàn cầu hóa kinh tế sẽ dẫn đến nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô, gia tăng áp lực xã hội... Đây là thời điểm lịch sử cho các nhà hoạch định chính sách, chiến lược đưa ra các đối sách cho Việt Nam trước một thế giới đầy biến động...

Những xu thế mới gắn liền với cơ hội và thách thức mới

Những xu thế mới.

Vào những năm cuối thế kỷ 20 và bước vào thế kỷ 21, nhân loại đang chứng kiến sự thay đổi về chất mang tính toàn cầu, chi phối sâu sắc hầu hết các quốc gia trên hành tinh. Những xu thế mới được đặc trưng ở một số khía cạnh cơ bản sau đây:

- Xu thế hòa bình ổn định, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở chuyển từ thế giới 2 cực sang thế giới đa cực, chuyển từ đối đầu sang đối thoại hợp tác.

- Xu thế phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, sự xuất hiện kinh tế tri thức, trong đó sự xuất hiện các ngành kinh tế dựa trên nền tảng tri thức như công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới trở thành trụ cột của nền kinh tế và là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và tồn tại của mỗi quốc gia.

- Xu thế tự do hóa thương mại ở cấp độ toàn cầu và cấp độ khu vực với sự vận hành các tổ chức thương mại tự do (AFTA, NAFTA, APEC, EU, WTO...) đang gắn kết các nước với nhau trong môi trường thương mại giảm thiểu thuế quan và phi thuế quan sẽ làm tăng khả năng trao đổi mậu dịch, nâng cao lợi thế cạnh tranh và chất lượng hàng hóa.

- Xu thế phát triển hệ thống tài chính toàn cầu và tăng các dòng đầu tư quốc tế càng làm tăng khả năng thích ứng của các quốc gia trong khuôn khổ thể chế tài chính toàn cầu cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau về nguồn vốn đầu tư và phát triển.

- Xu thế của các thể chế, định chế về mặt luật pháp, kinh tế, xã hội có tính chất toàn cầu đã trở thành thế tất yếu đòi hỏi các quốc gia phải tuân thủ luật chơi mới để nhanh chóng thích ứng với những chuyển biến sâu sắc của một thế giới đang thay đổi.

Những cơ hội và thách thức mới.

Cơ hội:

- Rút ngắn khoảng cách về công nghiệp hóa-hiện đại hóa, đặc biệt cho các nước chậm phát triển như Việt Nam có khả năng tiếp cận nhanh kỹ thuật công nghệ, phương pháp quản lý, nguồn vốn, thị trường thương mại, các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

- Thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, trong đó chuyển dần những ngành kinh tế có hàm lượng lao động cao sang các ngành kinh tế có hàm lượng kỹ thuật cao.

- Nâng cao và từng bước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, xây dựng tác phong và lối sống công nghiệp, dần dần tạo ra sự tăng trưởng cao, ổn định, cải thiện từng bước đời sống xã hội.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các nước chậm phát triển có khả năng mở rộng trao đổi thương mại, thu hút đầu tư, sử dụng hiệu quả nguồn vốn, mở rộng thị trường, tăng khả năng tích lũy cơ bản để tái đầu tư phát triển.

Thách thức:

- Phần lớn các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, xuất phát điểm ban đầu là nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ, tích lũy thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, do đó có khoảng cách khá xa về trình độ phát triển so với các nước công nghiệp.

- Các nước đang phát triển, kể cả Việt Nam, mới ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường do đó khi tiếp cận với những xu thế mới của toàn cầu không tránh khỏi khó khăn về cơ sở vật chất, trình độ quản lý, kỹ thuật...

- Các căn bệnh kinh tế - xã hội của một nền kinh tế chậm phát triển (nghèo đói, thất nghiệp...) kết hợp với dấu ấn của cơ chế quan liêu bao cấp đang trở thành lực cản quan trọng đối với việc thích ứng với những xu thế thay đổi của thế giới.

Hiện trạng kinh tế Việt Nam

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã thu được những kết quả to lớn thể hiện trên các mặt: Đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cao, kiểm soát được lạm phát, tăng nhanh sản lượng lương thực, đẩy mạnh xuất khẩu với mức tăng trưởng nhiều năm trên 20%, thu hút được một lượng đáng kể vốn nước ngoài... Bước đầu hình thành được cơ chế thị trường, các khu vực kinh tế năng động bắt đầu xuất hiện và phát huy hiệu quả, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao. Những chính sách đổi mới mạnh dạn đã tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động, khơi dậy được các nguồn lực phát triển trong tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Cộng đồng các nhà tài trợ gồm các nước phát triển và các cơ quan quốc tế bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam từ 1993 do đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường... tiến triển nhanh và góp phần đáng kể cho sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế.

Tuy vậy, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á và những yếu kém nội tại của nền kinh tê,ở trong giai đoạn 1997 - 1999, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giảm nhanh (thấp nhất là 1999 đạt 4,8%), tỷ lệ thất nghiệp tăng, hàng hóa tồn kho đã tăng lên một cách đáng ngại. Mức tăng trưởng chậm lại từ năm 1997 - 1999 có tính chất không bình thường đã bộc lộ những yếu kém của nền kinh tế, trước hết có thể nói Việt Nam phát triển theo mô hình còn dựa quá nhiều vào vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, hệ số ICOR tăng từ 1,76 (năm 1992) lên 5,3 (năm 1998) tức là gấp 3 lần. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, ngành có hệ số ICOR thấp nhất và tạo được nhiều việc làm nhất, giảm mạnh trong suốt thời kỳ 1991 đến 1995. Đây là quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Một nguyên nhân khác góp phần làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế là khó khăn của hệ thống ngân hàng. Vì có nhiều khoản nợ không thu hồi được, đã có những ngân hàng phải tuyên bố phá sản. Mặt khác các ngân hàng thường chỉ tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước vay, hệ quả kéo theo là tỷ lệ tăng trưởng tín dụng giảm liên tiếp trong các năm 1997 - 1999.

Sang năm 2000, kinh tế Việt Nam phục hồi trở lại, do các chính sách thích hợp của Việt Nam nhằm tháo gỡ các hoạt động sản xuất kinh doanh cho tất cả các thành phần kinh tế. Nổi bật là Luật Doanh nghiệp 2000, sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài, Chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Chương trình kích cầu đầu tư và tiêu dùng được thực hiện. Đầu tư toàn nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh sau 2 năm trì trệ lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển...

Nhìn chung ở Việt Nam cơ chế thị trường tuy đã hình thành về đại thể nhưng còn nhiều khiếm khuyết. Thị trường vốn mới ra đời, dòng vốn vận động nhìn chung còn phải qua kênh Nhà nước bằng mệnh lệnh. Các bất động sản lưu thông kém do còn quá nhiều thủ tục. Sức lao động dư thừa khó lưu thông do công tác đào tạo và tuyển dụng còn quá nhiều bất cập. Tình trạng độc quyền khá phổ biến, hạn chế cạnh tranh, tạo ra giá cả cao phi lý, làm tăng chi phí, giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư... Đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn để phát triển tương xứng với tiềm năng. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đã được khẳng định là nguy cơ số 1 đối với Việt Nam. Khoảng cách giữa Việt Nam với các nước trong khu vực có thể rút ngắn được hay không phụ thuộc vào khả năng điều chỉnh chiến lực dài hạn thích ứng và chương trình hành động linh hoạt hiệu quả, trong đó sự lựa chọn các hướng ưu tiên phát triển kinh tế có vai trò quyết định.

Những chuyển hướng chiến lược và khâu đột phá cần thiết

Để thích ứng với các xu thế lớn thời đại, với thực trạng nền kinh tế Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, trong khung khổ của các nghiên cứu công phu đã được trình bày bởi nhiều tác giả và tổ chức, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một số hướng đột phá cho phát triển bền vững ở Việt Nam bao gồm:

* Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế

Nhìn lại chặng đường 15 năm qua ta thấy việc từ bỏ quan niệm cũ về cơ cấu kinh tế, trong đó cường điệu hóa vai trò của công nghiệp nặng, không công nhận hàng hóa và thị trường... đã được khẳng định là phù hợp với thực tiễn của đất nước, nguyện vọng của nhân dân và quy luật phát triển của thời đại. Bước sang thiên niên kỷ mới với những xu thế mới đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế. Trong đó quan trọng nhất là đổi mới về chính sách cơ cấu kinh tế, hình thành cho được một cơ cấu kinh tế bảo đảm nền kinh tế nước ta đủ hiệu quả và sức cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế với các nước trong khu vực. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu, tranh thủ sự hỗ trợ và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Nhanh chóng tạo lập đồng bộ và đầy đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại, nhờ đó mọi thành phần của nền kinh tế phải được ủng hộ và nâng đỡ phát triển, thị trường trong nước phải khai thông hơn nữa với thị trường thế giới, nhiều lĩnh vực độc quyền hiện nay cần được xóa bỏ tạo lập một môi trường giàu tính cạnh tranh hơn...

Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế và vai trò của cộng động tham gia các dự án phát triển kinh tế xã hội

Thực tế trong những năm qua chỉ ra rằng đã có nhiều quyết sách phát triển đúng đắn nhưng khi triển khai vào cuộc sống thì rất chậm. Sự hạn chế của Việt Nam trong việc hành động nhanh bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Ví dụ, khả năng ra quyết định trên cơ sở nhất trí hoàn toàn, phân chia trách nhiệm giữa các bộ, ban ngành, sự thiếu kết hợp hiệu quả giữa ngành dọc và địa phương, thiếu cán bộ có kinh nghiệm, kế hoạch thực tế không hợp lý về thời gian... Mặt khác, khi xây dựng các chính sách thường không tính đến sự khác biệt giữa các khu vực đô thị, nông thôn, các cực tăng trưởng, hơn nữa sự phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương còn chưa tiến hành mạnh mẽ.

Việt Nam đã trải qua các cuộc chiến tranh với sức mạnh thần thánh của nhân dân. Công cuộc xây dựng phát triển kinh tế mới Việt Nam chưa tiếp thu được hết kinh nghiệm lịch sử này, nhất là chưa phát huy vai trò và khơi dậy các sáng kiến, các mô hình tự quản từ cấp cộng đồng. Tuy rằng những năm gần đây các công tác như quy hoạch và quản lý rừng, công tác bảo vệ môi trường, công tác xây dựng đô thị đã gặt hái những kết quả khích lệ nhờ sự tham gia của cộng đồng song những kết quả này chỉ là bước đầu. Trong thời gian tới trong xu thế mặt bằng dân trí ngày càng nâng cao, quá trình phân cấp càng được đẩy mạnh, Chính phủ cần có các nghiên cứu có quy mô nhằm nâng cao hơn nữa, huy động hiệu quả nhiều hơn nữa các nguồn lực từ cộng đồng vào các dự án phát triển kinh tế xã hội.

Sớm có chiến lược phát triển kinh tế tri thức, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Sự xuất hiện kinh tế tri thức là vận hội chưa từng có để các nước đang phát triển "đi tắt đón đầu" trong quá trình thu hẹp khoảng cách với nước phát triển. Nhờ có toàn cầu hóa kinh tế và sự bùng nổ thông tin mà các nước chậm phát triển có thể nhận được các thành quả khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm trên thế giới mà không cần phải làm lại từ đầu. Xây dựng kinh tế tri thức trong thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hóa là việc cực kỳ khó khăn. Một số nước đang phát triển đã kịp điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng vừa tiếp tục công nghiệp hóa vừa xây dựng nền móng của kinh tế trí thức. Nội dung chính là chú trọng phát triển khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, đổi mới giáo dục, thực sự trọng dụng người tài. Những ngành công nghệ cao được ưu tiên phát triển là công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động, đặc biệt là công nghệ thông tin, tuy bản thân công nghệ thông tin không tạo ra trực tiếp nhiều giá trị sản phẩm nhưng nó cho phép tăng nhanh các hoạt động dịch vụ, giảm chi phí dịch vụ, đẩy nhanh sự phát triển các ngành kinh tế. Tuy nhiên không nên đồng nhất kinh tế tri thức với kinh tế công nghệ cao, vì về thực chất, kinh tế tri thức là sự áp dụng rộng rãi tri thức toàn cầu vào tất cả các hoạt động kinh tế chứ không phải là sự phát triển của một số ngành công nghệ cao. Như vậy, nâng cao mặt bằng dân trí, đổi mới hệ thống giáo dục, xây dựng các hệ thống đổi mới quốc gia là các yếu tố quyết định cho phát triển kinh tế trí thức.

Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một số ngành, vùng, lĩnh vực của nền kinh tế đã manh nha những yếu tố của nền kinh tế tri thức như ngành viễn thông, công nghệ thông tin, công nghệ gen, công nghệ vật liệu mới, một số khu vực công nghiệp cao đã hình thành như khu công nghệ cao Hòa Lạc, khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh... tạo cơ sở quan trọng để tiếp cận với kinh tế tri thức đang phát triển trên thế giới. Nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% lao động trong khu vực nông nghiệp, dưới góc độ kinh tế tri thức có thể hiểu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học công nghệ phục vụ đời sống nông nghiệp và nông thôn. Cần chú ý đến công nghệ sinh học để nhanh chóng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, xây dựng vùng chuyên canh, vùng cây đặc sản, tạo ra một nền nông nghiệp nông thôn có sản phẩm hàng hóa đa dạng, chất lượng cao, giá cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Phát triển kinh tế tri thức cần khơi dậy các nguồn tài nguyên tri thức, đặc biệt là tiềm năng con người, cần có kế hoạch đào tạo, sử dụng và đãi ngộ các nhà khoa học, cán bộ kỹ sư, công nhân viên... có trình độ cao đáp ứng yêu cầu tiếp cận kinh tế tri thức. So với GDP đầu người Việt Nam có trình độ về nguồn nhân lực tương đối cao với các nước trong khu vực, đây là lợi thế mà Việt Nam cần phát huy trong giai đoạn tới.

Cần có cách nhìn nhận đánh giá mới về người lao động. Đặc biệt coi trọng phát triển và trọng dụng những nhân tài trên mọi lĩnh vực khoa học, văn hóa, xã hội và quản lý, các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia thuộc các lĩnh vực, các nghệ nhân, nghệ sĩ, đội ngũ sinh viên tài năng và học sinh năng khiếu.... Sớm có các cơ chế chính sách khuyến khích về tinh thần và vật chất xứng đáng cho các đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Phát triển các quỹ tạo học bổng cho các tài năng trẻ. Đặc biệt, cần tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo nguồn nhân lực hướng vào năng lực giải quyết vấn đề, hướng vào thực tiễn, hướng theo tinh thần doanh nghiệp; đồng thời cần đổi mới phương pháp giáo dục chuyển từ kiểu đào tạo lấy thầy và kiến thức làm trung tâm sang lấy trò và năng lực làm trung tâm. Đào tạo người lao động có những tố chất mới, có trình độ, tự chủ, sáng tạo, có kỹ năng giao tiếp...

Gắn kết các chính sách kinh tế vĩ mô với bảo vệ môi trường

Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế, có các thảm thực vật phong phú, các khu rừng quốc gia, các khu dữ liệu tự nhiên, các loài động vật quý hiếm với hơn 3.200km đường bờ biển... Nói chung, những năm qua Việt Nam đã phát huy các lợi thế về điều kiện môi trường để phát triển các ngành kinh tế như du lịch - ngành đã được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn; đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng gạo, cà phê, nông sản, hải sản, dầu thô, than. Song dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ, môi trường tự nhiên Việt Nam đã chịu nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng.

Theo chúng tôi, thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa việc xem xét các chính sách kinh tế vĩ mô với bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, gắn vấn đề môi trường trong công tác lập kế hoạch đầu tư.

Đồng thời, cần nhanh chóng áp dụng công cụ kinh tế môi trường, tuy nhiên việc này còn mới mẻ ở Việt Nam, vì vậy Chính phủ nên khuyến khích các doanh nghiệp, các địa phương phát huy sáng kiến sử dụng các công cụ kinh tế môi trường như xây dựng Quỹ môi trường ở Tổng công ty Than, khuyến khích các hình thức đấu thầu thu gom xử lý rác thải, khuyến khích xây dựng mô hình quản lý môi trường cấp cộng đồng. Nói chung, trong điều kiện chuyển đổi hiện nay việc áp dụng các công cụ kinh tế môi trường cần phải tiến hành mềm dẻo từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng gắn kết xu hướng phân cấp và nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội về môi trường.

Kết luận

Trong thế kỷ 21, với lợi thế nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một khu vực phát triển năng động nhất thế giới Việt Nam có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Trong xu thế chung, phát triển kinh tế ngày càng gắn chặt với các vấn đề văn hóa, xã hội, môi trường, việc hoạch định và thực hiện phát triển kinh tế chỉ đạt được kết quả nếu các hệ thống văn hóa, xã hội có những đổi mới và tiến bộ thích hợp.

PHẠM XUÂN SƠN

Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội
Tiếng chim hót trong bụi mận gai...
Hình đại diện của thành viên
phanthikimanh
 
Bài viết: 381
Ngày tham gia: Thứ 7 30/06/07 20:55
Đến từ: TP. Hồ Chí Minh
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Quay về NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến21 khách

cron