GIAO LƯU VỚI GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Chuyên mục này dành cho những vấn đề có thể cùng lúc liên quan đến trên một hoặc tất cả các nhóm chủ đề khác như: lý luận văn hoá học, văn hoá Việt Nam, văn hoá thế giới, văn hoá học ứng dụng...

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi hanoi » Thứ 3 02/09/08 21:06

Cho đến nay, tôi chưa gặp nhà khoa học chân chính nào phải "bác bỏ" một nhà khoa học chân chính khác. Tôi tin là sẽ không bao giờ gặp phải tình huống này. Một khi đã có sự "bác bỏ" thì "kẻ bác bỏ" sẽ không bao giờ vươn lên tầm cao được hoangoclan ạ! "kẻ bác bỏ" bao giờ cũng sẽ chỉ còn lại với tro tàn, gạch vụn mà thôi!
RANDOM_AVATAR
hanoi
 
Bài viết: 6
Ngày tham gia: Thứ 7 30/08/08 13:12
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi hoangoclan » Thứ 4 03/09/08 6:09

@Hanoi: Mình không phải là nhà khoa học, càng không phải nhà khoa học chân chính. Mình chưa đủ trình độ để bác bỏ ai, cũng như vươn lên tầm cao nào đó. Mình vào diễn đàn để học hỏi thêm. Thấy ý kiến của bạn mang tính lý thuyết cao, mình cũng thử sức một chút và cũng mong muốn được học hỏi thêm ý kiến của bạn. Tôi nghĩ "bác bỏ", "bổ sung' hay "phát triển" là chuyện không quan trọng với vấn đề bạn đặt ra ở đây. Chúng ta hãy quay lại với nội dung chính của nó.

Bạn có thể giải thích thêm ý kiến của bạn cho rằng
hanoi đã viết:Phải chăng chúng ta nên xem 4 đặc trưng mà GS nêu chỉ là những điều kiện cần mà một ĐT thuộc lớp ĐT VH phải có? Nếu vậy, có lẽ còn có những đặc trưng khác để nhận dạng chắc chắn hơn một ĐT VH?
RANDOM_AVATAR
hoangoclan
 
Bài viết: 32
Ngày tham gia: Thứ 7 07/06/08 16:34
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi chuonchuonkim » Thứ 4 03/09/08 15:09

Mình nghĩ ứng xử của bạn hanoi ở đây là rất đúng mực.

Việc nghi vấn và đặt ra những vấn đề thắc mắc với GS Trần Ngọc Thêm, điều mà GS vẫn thường khuyến khích chúng ta trong nghiên cứu khoa học, là rất đáng hoan nghênh. Ngay cả trên trang chủ VHH, trong thư ngỏ gửi bạn yêu và thích VHH cũng đưa một câu nói nổi tiếng của Thiền sư Bạch Ẩn: "Đại nghi đại ngộ, Tiểu nghi tiểu ngộ, Bất nghi bất ngộ".

Bạn hanoi đã thắc mắc một cách khiêm tốn và hết sức trân trọng GS Trần Ngọc Thêm trên tinh thần muốn hiểu biết, học hỏi thêm ở GS chứ không phải vặn vẹo, cắc cớ.

Thiết nghĩ, diễn đàn VHH là nơi chia sẻ và học hỏi lẫn nhau giữa những người yêu thích và quan tâm đến VHH. Hễ những ai có thắc mắc hỏi han gì, mình đều "dội một gáo nước lạnh" vào tinh thần ấy rồi gán cho mấy chữ là "bác bỏ" thì mình nghĩ rồi sẽ chẳng còn một ai dám "cả gan" giao lưu hoặc nhờ giải đáp thắc mắc nữa đâu! Mà nếu như thế chắc hẳn GS Trần Ngọc Thêm của chúng ta sẽ buồn lòng lắm đấy!

Mình đồng ý với hoangoclan là nếu được chúng ta nên đi thẳng vào nội dung thắc mắc mà hanoi đã nêu, chúng ta cũng có thể nêu quan điểm của mình, những đối tượng mà hanoi thí dụ có hay không là "cái VH"? Có thì vì sao mà không cũng vì sao? Được vậy thì rất bổ ích.
Chuồn chuồn kim bé nhỏ, lặng lẽ bay trong chiều vàng...
Hình đại diện của thành viên
chuonchuonkim
 
Bài viết: 110
Ngày tham gia: Thứ 6 20/06/08 14:05
Đến từ: Bờ ao nhà mình
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi ngocthem » Thứ 6 05/09/08 9:52

1.
hanoi đã viết:Chúng ta hãy xem vài đối tượng sau đây:
- Hệ thống các nhà máy điện ở miền Bắc VN,
- Hệ thống các nhà máy phân đạm ở nước ta,
- Hệ thống truyền lực trong ô tô,
- Hệ thống truyền tín hiệu trong máy vi tính,
v.v…
Chúng có thể đều là những “cái VH” như "hệ thống đường bộ VN" mà GS đã xác nhận.

hanoi đã viết:Còn những đối tượng tôi đã nêu làm thí dụ về "cái VH" thì tôi tin là tôi có thể chứng tỏ rằng chúng đều thỏa cả 4 điều kiện cần và đủ để được đứng trong hàng ngũ những cái mà chúng ta gọi là những "cái VH" hay nói cách khác chúng là những phần tử của lớp đối tượng VH.

Không đơn giản như vậy đâu bạn Hanoi ạ. Vì các đối tượng này có thể thỏa mãn tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh, nhưng còn tính lịch sử thì chưa chắc. Đành rằng một đối tượng tồn tại một ngày thì có “lịch sử” một ngày, một năm thì có “lịch sử” một năm, nhưng văn hoá không phải là cái ngày một ngày hai, càng không phải là những cái mới nhất, tiên tiến nhất như văn minh.

hanoi đã viết:... Nhưng trực giác của chúng ta lại thấy dường như không phải vậy.

Như vậy trực giác của bạn về cơ bản là đúng đấy.

“Hệ thống truyền lực trong ô tô”, “Hệ thống truyền tín hiệu trong máy vi tính” hoàn toàn là sản phẩm của văn minh, không có tính lịch sử. Những người công nhân tạo ra chúng, nhưng người sử dụng thì hầu như không sờ đến chúng - dấu ấn của con người ở chúng tương đối mờ nhạt. Vì vậy, chúng KHÔNG PHẢI là những giá trị văn hoá.

“Hệ thống các nhà máy điện ở miền Bắc VN”, “Hệ thống các nhà máy phân đạm ở nước ta” thì Ở MỘT MỨC ĐỘ NHẤT ĐỊNH, có mang dấu ấn của con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam vì chúng được tạo ra đã trên dưới một nửa thế kỷ, sử dụng kỹ thuật phương Tây nhưng theo cách của người Việt Nam (linh hoạt, sáng tạo, tầm nhìn tiểu nông...). Vì vậy mà ở một mức độ nhất định, chúng là những giá trị của văn hoá Việt Nam.

"Hệ thống đường bộ VN" thì hình thành cùng với con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam nên có tính lịch sử rất lâu đời, mang dấu ấn rất rõ nét của một dân tộc nông nghiệp sống định cư ít đi lại (nên có hệ thống đường bộ rất kém phát triển). Vì vậy "Hệ thống đường bộ VN" hoàn toàn xứng đáng là một trong những giá trị điển hình của văn hoá Việt Nam.


2. Theo tôi, mối quan hệ giữa “bổ sung, phát triển” và “bác bỏ” mà các bạn tranh luận chỉ là vấn đề câu chữ. Nếu thấy THIẾU thì “bổ sung, phát triển”, còn nếu thấy SAI thì phải “bác bỏ” chứ sao? Thấy sai mà không chịu “bác bỏ” lại cứ khư khư giữ lấy để “bổ sung” thì càng bổ sung càng sai, càng tụt hậu chứ làm sao mà “phát triển” được?

TNT
Hình đại diện của thành viên
ngocthem
Quản trị viên
 
Bài viết: 243
Ngày tham gia: Thứ 7 20/10/07 6:55
Cảm ơn: 1 lần
Được cám ơn: 9 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi songnhi » Chủ nhật 14/09/08 22:19

Thầy ơi cho em hỏi:

Văn hoá ăn cộng đồng của người Việt Nam mình xuất phát từ nền văn hoá gốc nông nghiệp phải không Thầy? Theo như em biết, Nhật Bản cũng xuất phát từ nền văn hoá gốc nông nghiệp nhưng hình thức ăn cộng đồng của người Nhật Bản khác với người Việt Nam mình. Trong bữa cơm gia đình người Việt Nam chỉ có mỗi bát cơm là riêng biệt, thức ăn được dọn lên trên những tô hoặc đĩa lớn với một chén nước mắm. một nồi cơm và mọi người cùng ăn với nhau. Trog bữa cơm gia đình của người Nhật, ta sẽ thấy có những bát đĩa riêng biệt, và đương nhiên súp hay những món mà Nhật Bản gọi la tsukemono(giống như các món ngâm, muối như cải muối, dưa muối...của người Việt Nam mình) khi được dọn lên bàn ăn đã được chuẩn bị riêng biệt cho từng người. Em cũng biết đây chỉ là những khác biệt bình thường trong văn hoá của mỗi dân tộc nhưng Thầy có thể giải thích cho em biết xuất phát từ yếu tố văn hoá nào lại tạo nên sự khác biệt đó không ạ Em cảm ơn Thầy!

Ngoài ra, nguời Nhật Bản có tập quán ăn hết sạch thức ăn dọn trên bàn để tỏ lòng cảm tạ và sự tôn trọng với thức ăn( theo em nghĩ, vì tôn giáo bản địa của người Nhật Bản là Thần Đạo,với họ cỏ cây, sông núi... đâu đâu cũng có thần nên ăn hết sạch thức ăn là thể hiện lòng tôn kính đối với các vị thần). Là một người khách đến gia đình người Nhật dùng bữa, thông thường phải cố gắng ăn hết sạch phần ăn của mình để thể hiện ý nghĩa rằng: "Đã được chiêu đãi thức ăn ngon đến mức ăn hết sạch". Ngược lại đến gia đình người Trung Quốc hoặc Hàn Quốc dùng bữa, thông thường cuối cùng để lại ít thức ăn trong bát với ý nghĩa:" Đã được chiêu đãi nhiều thức ăn đến mức ăn không hết". Về vấn đề này, người Việt Nam mình giống người Trung Quốc phải không Thầy? Em thấy người Việt Nam ăn đến phần cuối cùng thì mọi người thường đùn đẩy nhau va rất ngại là người ăn phần cuối cùng còn sót lại đó.

Ở Nhật Bản, trong bữa cơm gia đình tại bàn ăn còn có cái gọi là kamiza( là chỗ ngồi quan trọng nhất dành cho người chủ gia đình hay những vị khách đặc biệt quan trọng) và shimoza( là chỗ ngồi ở vị trí xa nhất, dành cho con gái....). Đặc biệt, khi có khách đến nhà dùng bữa thì thứ tự của kamiza và shimoza được quy định hết sức nghiêm ngặt. Còn người Việt Nam mình như thế nào vậy Thầy? Trong bữa cơm gia đình của người Việt Nam mình từ xưa đến nay có khái niệm tương tự như kamiza và shimoza không vậy Thầy?

Nói về những điều cấm kị hay kiêng kị trong văn hoá ăn uống của người Nhật thật sự là rất nhiều. Đặc biệt là những điều kiêng kị trong cách sử dụng đũa. Em cũng biết một điều kiêng trong cách sử dụng đũa của người Việt Nam là không đặt đũa nằm ngang trên bát cơm, bởi vì như thế giống như cúng cơm cho người đã khuất. Ngoài điều kiêng này ra thì khi dùng đũa người Việt Nam mình còn kiêng điều gi khác không Thầy? Và liên quan đến văn hoá ăn uống của người Việt Nam, còn có những hành vi hoặc lời nói nào cần phải kiêng ki không vậy Thầy? Em rất mong nhận được ý kiến của Thầy.

Tìm hiểu về văn hoá của các nước bạn, em cũng muốn giới thiệu với bạn bè các nước khác về văn hoá của người Việt Nam mình, trước hết là văn hoá ăn uống và những điều kiêng kị, cấm kị liên quan đến văn hoá ăn uống. Em rất mong nhận được ý kiến giải thích từ Thầy. Cảm ơn Thầy rất nhiều.
Em chào Thầy!
RANDOM_AVATAR
songnhi
 
Bài viết: 8
Ngày tham gia: Thứ 2 12/11/07 19:40
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi xanhnguyen » Thứ 4 15/04/09 1:58

[justify]Hôm nay, khi lang thang trên mạng để tìm tư liệu phục vụ cho nhu cầu công việc, rất tình cờ mình đọc được một trang web…Web và diễn đàn thì có gì lạ đâu, có gì đáng ngạc nhiên trong thời đại bùng nổ thông tin...? Ấy vậy, sao cứ lâng lâng trong lòng, vui như thể bất chợt gặp được người tâm giao, hiểu biết, đồng cảm và trân trọng những lựa chọn, những định hướng giá trị mà mình đang khám phá, theo đuổi. Tại ngôi nhà này (Khoa VHH, Diễn đàn VHH) chúng ta cùng học Văn hóa, cùng “tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”… trên nền tảng lý luận Hệ thống – Loại hình - một hệ thống lý thuyết do GS. TS Trần Ngọc Thêm dày công nghiên cứu và xây dựng. Hệ thống lý thuyết ấy đã và đang trở thành một khuynh hướng, có người gọi là Trường phái Trần Ngọc Thêm. Không chỉ chúng ta – người trong nhà, quan tâm, học và ứng dụng…mà vui hơn thế, lan tỏa rộng hơn, những người “ngoài gia đình ta” cũng nghiên cứu kỹ lưỡng và vận dụng khá nhuần nhuyễn lý thuyết ấy trong những bài viết, những công trình khoa học của họ. Những đối thoại trong forum dưới đây cho thấy, hệ thống lý thuyết của GS Trần Ngọc Thêm không hề khép kín, chật chội, khô cứng... ngược lại, nó đang tuôn chảy, hòa quyện vào trong đời sống, trong nhận thức của những người yêu văn hóa và thích tìm tòi, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đời sống của con người từ góc nhìn văn hóa học. Đó chính là khởi nguồn và tiếp nối của sáng tạo! Là “dân” văn hóa học, lẽ nào chúng ta không vui, không tự hào về điều này!

Mình xin post bài viết NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY của duynhien (tác giả này có lẽ là một Thầy giáo)- người đã ứng dụng rất nhiều kiến thức VHH của GS. Trần Ngọc Thêm trong nghiên cứu so sánh trên). Các bạn có thể link vào địa chỉ sau để tìm hiểu thêm nhé:
http://www.maitruongxua.com/forum/archive/index.php/t-6091.html


[center]duynhien
NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY
[/center]

Vì vấn đề đa diện và đa dạng, nên tôi chủ yếu đề cập đến những khác biệt giữa đông và tây dựa trên khía cạnh TRỌNG TĨNH và TRỌNG ĐỘNG. Những ý tưởng sau đây phần lớn là dựa vào những điều mà tác giả Trần Ngọc Thêm ghi lại trong cuốn ‘Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam’, cộng với những gợi ý của số bạn hữu nhiều nơi.

A - Điểm xuất phát

Trước hết, để xác định Đông Tây, tôi chỉ xin hạn chế trong lãnh thổ địa dư của lục địa Âu Á. Và để cho rõ nét thì chỉ xin so sánh giữa Âu Châu và Viễn Đông, mà tạm quên vùng Cận Đông và Trung Đông. Một cách cụ thể, ta tưởng tượng một đường chéo thứ nhất kéo từ tây bắc Ấn Độ đến bắc Nhật Bản. Một đường chéo thứ hai song song với đường thứ nhất, kéo dài từ bắc Palestine đến biển Sibérie. Và như thế, Đông mà tôi đề cập là phần bên phải của đường chéo thứ nhất, hay phần đông nam của lục địa Á Âu, và Tây là phần bên trái của đường chéo thứ hai, hay phần tây bắc của lục địa. Còn phần giữa, gồm các nước trung cận đông, một phần của nước Nga và phía tây bắc Trung Hoa (từ Bắc Kinh trở lên) được xem là vùng trái độn, và không được xét đến trong bài này. Sở dĩ như vậy là để tránh những vấn đề nhập nhằng khi nêu lên những câu hỏi chẳng hạn: Thổ Nhĩ Kỳ, Palestine, Iran, Irak, Nga vân vân... là đông hay tây? (Mặc dù trong bài này tôi có trích dẫn vài câu từ Kinh Thánh Do Thái, miền cận đông, để minh họa cho tính chất tây phương)

Sau khi xác định như thế, ta thấy nổi lên sự khác biệt trên nhiều phương diện: ngôn ngữ tây thì biến hình và đông thì đơn lập; tây trọng cá nhân, đông trọng cộng đồng; khi giao tiếp, chào nhau, thì bên tây người này nắm tay người kia, còn bên đông thì mỗi người tự nắm tay mình... Những khác biệt đa dạng hơn được nêu lên qua các thuật ngữ: đông hướng nội, tây hướng ngoại; đông trầm mặc, tây hoạt động; đông trọng phẩm, tây trọng lượng...

Vì sao có sự khác biệt đó? Hay đặt vấn đề cách khác: Sự khác biệt đó bắt nguồn từ đâu? Từ môi trường tự nhiên và xã hội. Vì con người là một hữu thể sống trong một môi trường tự nhiên và xã hội nhất định nên hai yếu tố này hẳn là nguồn gốc của sự khác biệt đó.

Môi trường sống của cộng đồng dân cư ở phương Đông (chính xác là Đông Nam Á Âu, theo như xác định trên) là nóng, khiến mưa nhiều nên ẩm, tạo nên sông rạch và đồng bằng trù phú. Còn phương Tây (chính xác là Tây Bắc Á Âu) lại là xứ lạnh với khí hậu khô, thực vật khó sinh trưởng, có chăng là các đồng cỏ rộng lớn.
Hai môi trường ấy khiến các cộng đồng cư dân chọn một lối sống thích hợp, mà kinh tế chủ yếu dựa vào hoặc là trồng trọt hoặc là chăn nuôi. Người đồng bằng phương đông hướng về trồng trọt và thiên về nếp sống định cư, vì trồng thì phải đợi thu hoạch, và có những cây đòi hỏi phải chờ đợi thời gian dài. Người tây phương thiên về chăn nuôi và tài sản của họ là gia súc. Gia súc phải di chuyển để ăn khi đồng hết cỏ, vì thế nghề du mục dẫn đến nếp sống du cư.

Nếp sống định cư tìm kiếm một sự ổn định lâu dài, nên người phương đông có một não trạng TRỌNG TĨNH, còn nếp sống du cư thì phải tổ chức thể nào để di chuyển gọn gàng nhanh chóng, nên người phương tây có một não trạng TRỌNG ĐỘNG.

Từ hai não trạng đó, ta thử xem chúng tác động như thế nào trên cách thức tư duy, trên tổ chức xã hội và quan hệ với người khác.

(còn tiếp)

______________________________
Tran Huu Trung

Chào thầy Nhiên, chào các ban. Quả là thầy Nhiên đã đặt vấn đề một cách khá lý thú về não trạng và tâm trạng Đông - Tây để phân tích thêm về vấn đề khác biệt tính cách Đông - Tây. Nhưng rõ ràng là vấn đề này phức tạp hơn mới thoáng nhìn qua rất nhiều. Vì trong cách đặt vấn đề đã phải giới hạn những vùng địa lý để phân tích khiến người đọc cũng khá phân vân về mức độ khái quát hoá của lập luận, hay mức độ thuyết phục của sự phân tích. Ví dụ như nếu nói về nếp sống du cư thì như dân tộc Mông Cổ ngay sát Trung Quốc (mặc dù đúng là không nằm trong giới hạn phân tích của bài viết của thầy Nhiên do Mông Cổ nằm ở phía bắc của Bắc Kinh) là nhóm dân chuyên sống về du cư, chăn nuôi nhưng rõ ràng người Mông Cổ vẫn mang đặc tính rất phương Đông chớ không gần gũi với tính cách phương Tây. Theo học thuyết tiến hoá của Darwin thì môi trường sống đóng vai trò quyết định đến sự tiến hoá của muôn loài. Vậy chắc chắn rằng qua những bài phân tích kế tiếp của thầy Nhiên, chúng ta sẽ học được thêm nhiều điều bổ ích.

_____________________________
duynhien

À. Trung nhận xét và thắc mắc rất thú vị... Thầy tiếp tục rồi dần dần vấn đề sẽ rõ ra... Lúc ấy những thắc mắc em nêu sẽ được mặc nhiên tính đến... và nếu chưa đủ thuyết phục thì mình lại bàn tiếp nhé!
.................

______________________________
duynhien

NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY

(tiếp theo)

B - Tác Động trên nhận thức, tư duy

Người nông dân sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều, không phải vào những sự kiện riêng lẻ mà tất cả cùng một lúc: trời, đất, nắng, mưa... Nắng quá cũng chết mà không nắng cũng chết, mưa quá cũng chết mà không mưa cũng chết. Ta thấy qua sự trông mong của họ trong ca dao:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm,
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng...

Nếp sống này đưa đến lối tư duy tổng hợp. Cách nhìn mọi sự trong tổng thể lại dẫn đến nếp suy nghĩ biện chứng: người nông dân không xét mỗi yếu tố riêng lẻ mà xét theo quan hệ qua lại. Được mùa lúa, úa mùa cau - Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa.

Ngược lại, người du mục tập trung vào từng con vật mình nuôi. Và suy nghĩ theo lối phân tích: chia mọi yếu tố cấu thành ra từng phần biệt lập, khởi đầu từ việc mổ xẻ con vật ra mà ăn: mỗi bộ phận tự nó là đủ (bởi lẽ liên hệ giữa chúng là điều đương nhiên, không cần phải xem xét để tác động). Từ cách tư duy phân tích đó, người phương tây đi đến suy tư ‘siêu hình’ (theo nguyên ngữ của Aristote: meta physika, nghĩa là vượt qua cái hữu hình, cụ thể, vật chất) để đi đến việc trừu tượng hóa những cái cụ thể thành khái niệm.

Cái nhìn phân tích dựa trên sự trừu tượng hóa đó là cơ sở hình thành lối suy tư khoa học, theo nghĩa hiện nay của từ sciences . Một tư tưởng được xem là mang tính khoa học, khi nó được biện giải qua cách lý luận chặt chẽ, sau đó được kiểm tra bằng thực nghiệm. Muốn làm được điều này thì khi nghiên cứu một đối tượng hay một hiện tượng, người ta phải tách biệt nó ra khỏi các yếu tố và đối tượng có liên quan (kể cả người nghiên cứu), và xem xét nó với cái nhìn của người ngoài cuộc, nghĩa là khách quan. Cái ưu điểm của lối nhìn này, ấy là nó rất rõ ràng và có sức thuyết phục cao, nhưng cái đúng của kết luận khoa học chỉ đúng trong phạm vi mà mình đã giới hạn. Nếu vượt qua giới hạn ấy thì nó lại sai. Cái nhược điểm của khoa học là bao giờ cũng có phần sai. Ví dụ: ‘tổng của 3 góc một tam giác là 180 độ’ chỉ đúng trong hệ thống Euclide, mà sai trong thực tế hoặc trong hệ thống Riemann hay Lobatchevsky. Tuy nhiên nghịch lý là ở chỗ này: chính vì luôn chứa đựng sai lầm nên khoa học phát triển rất nhanh, bởi vì cái sau phải đến thay thế hay bổ sung cho cái trước để cho hoàn chỉnh hơn .

Trái lại, với lối tư duy tổng hợp của phương đông, thì sự chú ý bị phân tán nên không thể nghiên cứu cho sâu một đối tượng nào; bù vào đó, họ có một cái nhìn mang tính ĐẠO LÝ, qua một hệ thống tri thức thu thập bằng con đường kinh nghiệm, chủ quan, và cảm tính. Vì luôn xét các đối tượng một cách tổng hợp trong quan hệ biện chứng, nên người xem không thể tách ra khỏi chỗ đứng của mình, mà chỉ có thể nhìn với cặp mắt của người trong cuộc, nghĩa là chủ quan. Vì luôn đặt mình trong liên hệ với đối tượng nghiên cứu ở ngoài mình, nên phải dùng đến trực giác, hay cảm tính. Và vì chủ quan và cảm tính nên muốn kiểm tra một kết luận thì chỉ dựa vào kinh nghiệm. Cái nhược điểm của tư duy đông phương là sức thuyết phục không cao, nhưng ưu điểm là diễn đạt ngắn gọn, thâm thúy. Thêm vào đó, vì hình thành trong một mối liên hệ rộng lớn và được kiểm chứng bằng kinh nghiệm nên cái đúng của lối suy tư Đạo Lý này khá cao. Chính vì thế mà Phương Đông lại chuyển biến và thay đổi chậm.

Hai lối nhận thức này đưa đến hai hệ thống tư duy rất khác nhau: Phương đông đi đến lối tư duy nhất nguyên (Nhất nguyên phân cực - nhất thể lưỡng diện) dựa trên triết lý âm dương tôn trọng sự toàn vẹn của một đối tượng trong tương quan với các yếu tố khác, còn phương tây đi đến lối tư duy nhị nguyên dựa trên luận lý học tôn trọng 5 nguyên lý của lý trí (principes de la raison)

Rất thú vị khi ta thử so sánh hai hệ thống suy nghĩ này. Thử xem một nguyên lý của lý trí. Nguyên lý đồng nhất (principe d’identité) cho rằng mọi vật đều đồng nhất với chính nó: A là A, và mãi mãi là A. Nguyên lý này chỉ đúng khi nào tách một đối tượng hay một hiện tượng nghiên cứu ra khỏi tổng thể để xem xét một cách biệt lập, hoặc khi đối tượng đó tĩnh, đứng yên một chỗ, hay bất biến trong thời gian quan sát. Nhưng trên thực tế, mọi sự vật đều thay đổi với thời gian, mà đã thay đổi thì không còn đồng nhất với chính mình nữa. Nếu xét khía cạnh động, thì lối nhìn Âm Dương có vẻ đúng hơn: Trong âm có dương trong dương có âm mà dương tăng đến một lúc nào đó thành âm và ngược lại, như thế A là dương đến một lúc nào đó lại là âm nghĩa là không (phải) A mà vẫn là A.

Và ta có thể tiếp tục như thế đối với những nguyên lý còn lại là nguyên lý mẫu thuẫn (contradiction), nguyên lý triệt tam (tiers exclu), nguyên lý nhân quả (causalité), nguyên lý cứu cánh (finalité)

Như vậy, các nguyên lý của luận lý học chính là sản phẩm điển hình cho lối tư duy phân tích và chú trọng đến yếu tố biệt lập, xuất phát từ truyền thống du mục; còn triết lý âm dương là sản phẩm điển hình của lối tư duy tổng hợp và chú trọng các mối quan hệ, xuất phát từ truyền thống nông nghiệp.

C - Tác động trên tổ chức cộng đồng và tương quan xã hội.

(còn tiếp)

________________________________
duynhien

Làm rõ một số câu tối nghĩa:

1. Về 180 độ trong tam giác thì đúng trong hệ thống Euclide và sai trong hệ thống khác...
Ví dụ: Trong thực tế, khi muốn xây hai bức tường cho thật song song, người ta dùng dây dọi để xác định chiều thẳng đứng đối với mặt đất. Kết quả là hai bức tường ấy hợp với mặt đất thành 2 góc vuông nghĩa là 90 + 90 = 180 độ. Nhưng ai cũng biết rắng nếu tưởng tượng hai bức tường song song ấy được kéo dài mãi (sâu xuống đất) thì chúng sẽ gặp nhau ở trung tâm quả đất, và như thế thì ta có một tam giác cân mà hai đáy (gồm hai bức tường và mặt đất) đã là 180 độ. Góc thứ ba (do hai bức tường gặp nhau ở trung tâm trái đất) dù nhỏ cách mấy cũng khiến cho tổng số ba góc trong tam giác này lớn hơn 180 độ. Trường hợp này thì hình học Riemann đúng, còn hình học Euclide sai

2. Về các nguyên tắc của lý trí của Aristote (theo triết tây)

Ngoài nguyên tắc đống nhất đã nói trên thì còn:

- Nguyên lý mâu thuẫn cho rằng trong hai mệnh đề mâu thuẫn với nhau, nếu mệnh đề này đúng thì mệnh đề kia sai, hoặc ngược lại, chứ không thể cả hai cùng đúng. Ví dụ: hai câu mâu thuẫn: “Trái đất vuông” và “Trái đất không vuông”. Câu thứ hai (không vuông) đúng thì câu thứ nhất (vuông) phải sai, chứ không thể hai câu cùng đúng được. Nguyên lý này đúng khi tách rời một đối tượng ra mọi liên hệ khác mà thôi. Câu ‘A là anh’ hoặc ‘A là em’ thì chỉ có một câu đúng thôi, nếu ta tách hai người con cùng một cha mẹ ra mà xét. Còn nếu xem A là thành viên của một gia đình có nhiều con, thì ‘A là anh’ của B mà ‘A là em’ của C.

- Nguyên lý triệt tam cho rằng một mệnh đề chỉ có thể đúng hoặc sai chứ không thể vừa đúng vừa sai được, không có trường hợp thứ ba. Nguyên lý này cũng đúng nếu thỏa mãn những điều kiện như hai trường hợp trước, mà không đúng hoàn toàn với thực tế biến động của sự sống. Ví dụ như trong câu tục ngữ: nhất sĩ nhì nông; hết gạo chạy rong; nhất nông nhì sĩ. Trong khi đó với thuyết âm dương thì dễ chấp nhận hơn. Vấn đề nào cũng đi theo cặp: nông cần sĩ là đúng mà sĩ cần nông cũng vẫn đúng, tùy theo hoàn cảnh.

- Và cứ thế cho đến nguyên lý nhân quả hay cứu cánh (mọi vật đều có nguyên nhân - Mọi vật đều hướng về một cứu cánh : mọi nguyên nhân giống nhau thì đem đến kết quả giống nhau. Mọi kết quả giống nhau thì do những nguyên nhân giống nhau). Đối với một cặp tách rời thì đúng. Đối với một chuỗi hiện tượng thì âm phát triển mãi thành dương, dương phát triển mãi thành âm, và vì thế âm là nhân của dương, hay ngược lại? Không thể nào biết được. Họa sinh phúc, rồi phúc lại sinh họa; như được minh họa qua câu chuyện Tái Ông mất ngựa. Cũng như vấn đề muôn đời: con gà là nguyên nhân hay hậu quả của cái trứng?

_______________________________
duynhien

NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY


C - Tác động trên tổ chức cộng đồng và tương quan xã hội

Vì sống dài lâu với nhau, nên lối sống trọng tĩnh làm nảy sinh nguyên tắc trọng tình, trọng văn và trọng nữ.

Nói đến nguyên tắc trọng tình, thì mọi người dễ dàng đồng ý vì trong cuộc sống hằng ngày tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về điều này. Nó nằm trong truyền thống qua các câu ca dao tục ngữ như: máu chảy ruột mềm; một giọt máu đào hơn ao nước lã; nhưng: bà con xa không bằng láng giềng gần; lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Tuy nhiên khi bảo rằng phương đông trọng nữ thì có thể làm nhiều người ngạc nhiên, vì người Việt Nam hàng ngàn năm nay đã quá quen với văn hóa Khổng Mạnh nên ngỡ rằng tổ tiên mình xem người nữ kém người nam. Quả thật, đối với đạo đức Khổng Mạnh, thì ‘nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô’, và đời sống của người nữ chỉ là cái bóng của người nam với nguyên tắc ‘tam tòng’ dành cho ‘nữ nhi thường tình’. Tuy nhiên thuở xa xưa, ở phương đông, bao gồm Việt Nam, người nữ có một vị trí cao hơn người nam. Điều này còn thấy ở một số bộ tộc đang theo mẫu hệ. Và ngôn ngữ còn giữ lại nhiều dấu vết của giá trị người nữ: ví dụ chữ ‘cái’ trong tiếng Việt Nam cổ có nghĩa là ‘mẹ’: Con dại cái mang. Những gì quan trọng đều gọi là ‘cái’: sông cái, đũa cái, ngón cái, chữ cái... và tinh thần trọng nữ ấy vẫn còn tiềm ẩn nơi những cặp chữ như: vợ chồng (# mari et femme), hoặc như trong ca dao ngạn ngữ: Thuận vợ thuận chồng...; Nhất vợ nhì trời; hay

Ba đồng một mớ đàn ông,
đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Ba trăm một mụ đàn bà,
đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.


Phương Tây, vì sống du cư nên lối sống trọng động làm nảy sinh nguyên tắc trọng tài, trọng sức mạnh, trọng võ và kéo theo là trọng nam.

Từ xa xưa, người phụ nữ ở Tây phương không được mang tên gia đình mình (tương đương với ‘họ’ của người VN) khi lấy chồng. Cựu Ước xem phụ nữ đồng hàng với tôi tớ nô lệ, với gia súc và với đồ vật sở hữu của người nam. Cứ xem lại Ngũ Kinh thì thấy. Ví dụ điều răn thứ 10 trong sách Xuất Hành (xh 20, 8 ): “Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Trong ngôn ngữ, người Tây phương dùng một chữ duy nhất để vừa chỉ ‘người’ vừa chỉ ‘đàn ông’: anthropos (= aner, andros), homo (= vir), homme, man... cứ như thể đàn bà không phải là người. Trong Tân Ước, các thánh sử ghi lại phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống một lần 5000 ‘người’, một lần 4000 ‘người’. Và để xác định chỉ có ‘đàn ông’ mới là ‘người’ nên các ngài phải chua thêm ‘không kể đàn bà và trẻ con’ (Mt 14,21; 15,38 ); mà Tân Ước thì mới cách chúng ta chưa được 2000 năm, nghĩa là một thời gian rất gần so với toàn bộ lịch sử nhân loại!

Nguyên tắc trọng tình của phương Đông đưa đến một hình thức tổ chức cộng đồng một cách linh hoạt, luôn luôn thích nghi để sống với mọi người chung quanh, do đó nảy sinh cái triết lý: ở bầu thì tròn, ở ống thì dài - Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Lối sống nặng tình cảm và nhu cầu sống hòa thuận trong một bối cảnh ổn định đưa đến một tâm trạng hiếu hòa trong quan hệ xã hội. Trong cuốn người Việt cao quý, Vũ Hạnh (với bút hiệu là A. Piazzy) nhắc lại rằng mỗi khi nước ta thắng người Trung Hoa xong thì lại đi triều cống để giữ hòa khí. Nếp sống ‘tình làng nghĩa xóm’ này đưa đến một lối tổ chức xã hội mà mọi người được xem là bình đẳng với nhau, ngôn ngữ ngày nay gọi là dân chủ. Do đó, xưa kia phương đông đã theo nền dân chủ sơ khai, trước khi xuất hiện nền quân chủ phong kiến. Từ sinh hoạt dân chủ đó, mỗi người coi trọng tập thể và cộng đồng hơn. Vì thế, ở phương đông, rõ ràng hơn là ở Việt Nam, người ta làm gì cũng nghĩ đến tập thể trước và nghĩ đến mình sau.
Trái lại...
(còn tiếp)

_________________________
Tran Huu Trung

Chào thầy Nhiên và các bạn,

Những khái niệm, thuật ngữ cũng như mệnh đề, nguyên tắc manh tính triết học đúng là phải ngẫm nghĩ thật nhiều mới có thể thấm được phần nào những điều thầy Nhiên đang diễn giải.
Có một điều mà người đọc cũng dễ dàng lưu ý là những điều nói về phương Đông thường đều xuất phát từ Trung Quốc. Như vậy phần nào có thể hiểu được văn minh Trung Hoa đă ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cách người phương Đông như thế nào. Như vậy dân du mục Mông Cổ ngay sát bên cạnh Trung Quốc, dù cách sống khác hẳn, cũng không thể nào thoát khỏi cái bóng rất lớn của hệ thống tư tưởng, của văn hoá Trung Hoa ...

___________________________
duynhien

Trần Hữu Trung viết:

Chào thầy Nhiên và các bạn,

Những khái niệm, thuật ngữ cũng như mệnh đề, nguyên tắc manh tính triết học đúng là phải ngẫm nghĩ thật nhiều mới có thể thấm được phần nào những điều thầy Nhiên dang diễn giải.

Có một điều mà người đọc cũng dễ dàng lưu ư là những điều nói về phương Đông th́ thường đều xuất phát từ Trung Quốc. Như vậy phần nào có thể hiểu được văn minh Trung Hoa đă ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cách người phương Đông như thế nào. Như vậy dân du mục Mông Cổ ngay sát bên cạnh Trung Quốc, dù cách sống khác hẳn, cũng không thể nào thoát khỏi cái bóng rất lớn của hệ thống tư tưởng, của văn hoá Trung Hoa ...

Nhận xét của Trung rất đúng. Chỉ cần nhìn Việt Nam thì rõ. Tuy nhiên, trong lịch sử thì Mông Cổ đã có thời làm chấn động thế giới khi lập quốc vào thế kỷ thứ 13 (1206), và cái tên Thành Cát Tư Hản (Genghis Khan) cùng với triều đại Thiết Mộc Chân (Temujin). Mông cổ từng mang tâm trạng hiếu chiến và bắt đầu chinh phục các nước miền nam... Như phần kế tiếp mà thầy nói đến sau đây... Chờ xem nhé!

__________________________
duynhien
NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY

(tiếp theo)

Trái lại, nguyên tắc trọng tài, trọng sức mạnh của phương tây đưa đến một hình thức tổ chức cộng đồng một cách theo khuôn phép. Cuộc sống du cư đòi hỏi phải có tổ chức, phải tuân theo kỷ luật. Hình thức tổ chức cộng đồng như thế khiến người ta trọng lý hơn trọng tình. Muốn duy trì kỷ luật, cần phải có một người cai trị; từ đó phương tây hướng đến nền quân chủ. Hệ quả của việc tổ chức quân chủ này lại nâng cao tinh thần trọng động, trọng sức mạnh, dẫn đến cái nhìn độc tôn và hiếu thắng trong tương quan với người khác. Vì có cái nhìn bạn thù rất minh bạch nên bên thắng là tất cả và bên thua không là gì cả. Từ những nhận xét trên, khi nhìn lại lịch sử, ta thấy rằng những cuộc chiến (võ) thường xảy ra từ hướng Tây Bắc xuống Đông Nam, (từ Bắc xuống Nam - từ Tây sang Đông) và nền Đạo Đức (văn) thì thường đi từ Đông Nam lên Tây Bắc (Từ Nam lên Bắc - từ Đông sang Tây). Cách xử sự cộng đồng như thế dẫn đến hệ quả là tây phương coi trọng cá nhân. Vì thế, dưới thời quân chủ, cá nhân người cai trị được đặt ở vị trí thật cao. Rồi đến thời dân chủ, tự do cá nhân của mỗi người là điều bất khả xâm phạm. Người lãnh đạo đất nước không thể nào lấy lợi ích tập thể (nhìn dưới cái nhìn chủ quan của mình) mà đặt lên trên lợi ích của từng cá nhân được.

Tuy nhiên, khi nhìn mặt phải của hai bên thì đồng thời cũng nhìn ra mặt trái. Một xã hội khuôn phép và máy móc sẽ đem đến sự áp đặt thiếu bình đẳng, nhưng trong một xã hội linh hoạt thì người ta lại dễ đi đến xuề xòa, tùy tiện, ba phải, hòa cả làng, coi thường phép nước (vì phép vua thua lệ làng).

Thử minh họa bằng một biểu hiện của lối sống xã hội này: Tây phương sống bằng lý, nên đời sống dựa theo luật: Quyền lợi và nghĩa vụ. “Tôi chu toàn nghĩa vụ, tôi phải có quyền lợi”. Khi có xung đột, thì không tình không nghĩa gì cả, chỉ có lý. Ra tòa! Và tòa xử thế nào là chấp hành thế ấy chứ ‘không giỡn mặt với pháp luật’. Vì quan niệm rằng quyền lợi phải cân xứng với nghĩa vụ, nên tương quan xã hội có vẻ vô tâm và vô tình. “Cha mẹ tôi đã đóng hưu liễm suốt đời, tôi đã đóng thuế công dân, thì cha mẹ tôi có xã hội lo, có an sinh xã hội, có bảo hiểm xã hội, không việc gì đến tôi cả”.

Người Việt Nam hẳn sẽ sửng sốt khi biết rằng đợt nóng trong tháng 08/2003 ở Pháp đã lấy đi mạng sống của hơn 15 ngàn người mà trong số đó rất nhiều cụ cao niên không có một thân nhân nào ở bên cạnh vào những giờ phút cuối đời. Ngày 31/8 trên kênh TF1, chương trình ‘từ 7 đến 8 giờ’ chiếu lại hình ảnh một quan tài chứa đựng xác đang rữa của một cụ bà 90 tuổi, chết trong căn hộ mình cách đó ba tuần mà không ai biết tới. Bà chết ngày 11/8. Gia đình bà đến nhận diện thi hài, rồi ra đi nghỉ hè.

Ở Việt Nam thì không bao giờ có chuyện như thế xảy ra. Con cái nghe cha mẹ mình bệnh nặng thì chạy ngược chạy xuôi; chẳng may song thân qua đời, thì dù chuyện gì cũng phải gác lại để trở về mà thọ tang. Nếu một người nằm xuống mà không có ai thì láng giềng sẽ lo lắng chu đáo. Và ngay trong một Nhà Nước có luật lệ bảo hiểm hẳn hoi, thì người Việt Nam vẫn thấy những thân nhân mình là mối bảo hiểm tốt nhất. Một con ngựa đau, cả tầu không ăn cỏ: Con đau thì cha mẹ lo, không nổi thì anh chị em lo, không nổi nữa thì chú bác cô dì anh chị em họ lo... và điều đó dường như là điều đương nhiên.

Thế nhưng cái hạn chế của nếp sống trọng tình này, ấy là trong một xã hội có tổ chức nhưng các luật lệ và qui ước thì lại được giải thích một cách mù mờ. Một công dân có quyền gì từ Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội hay từ cơ quan bảo hiểm? Không ai mất thì giờ để nói tới quyền lợi, chỉ biết rằng nghĩa vụ của mình xong thì thôi. Đa số người Việt Nam hiện nay muốn đòi hỏi quyền lợi của mình ‘theo luật định’ thì vẫn mang tâm trạng của ‘con kiến đi kiện củ khoai’.

(còn tiếp)
___________________________
duynhien
NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY

(tiếp theo)

D. Kết luận

Khi nói về não trạng và tâm trạng giữa Đông và Tây, tôi vạch một lằn ranh rõ ràng và chia ra hai vế tách biệt. Một cách nào đó, tôi đã trình bày theo ‘các nguyên lý của lý trí’ với các hạn chế của chúng. Tuy nhiên trong thực tế sinh động, không thể nào có một lằn ranh dứt khoát như vậy, và nếu nhìn theo triết lý âm dương thì trong Tây vẫn có Đông, và trong Đông đã có Tây... Tuy nhiên mỗi người, mỗi cộng đồng dân tộc đi từ não trạng này đến cực điểm rồi lại sang não trạng kia trong một thời gian và ở một giai đoạn khác nhau.

Chí ít ta có thể xem xét ở hai bình diện. Một mặt, những yếu tố đông tây không nằm trong một ranh giới cụ thể của một quốc gia. Ví dụ, ở Trung Hoa, miền bắc là lạnh và du mục thì thiên về não trạng tây còn miền nam là nóng và nông nghiệp thì thiên về não trạng đông. Do đó ta thấy xuất hiện từ miền Bắc một Khổng Tử suy tư rất chặt chẽ và cho ra đời một hệ thống cai trị rất Tây Phương, với tam cương, ngũ thường, trọng nam khinh nữ; trong khi đó ở miền Nam lại có Lão Tử, với lối tư duy rất Đông Phương trong Đạo Đức Kinh, hướng con người bước ra khỏi vòng cương tỏa của mọi tổ chức xã hội bất bình đẳng.

Mặt khác, Phương Tây cũng từng có những con người trọng tĩnh, và phương đông cũng không thiếu gì người trọng động. Cứ nhìn lại các nhà thần bí Tây Phương như Thérèse d’Avila, Jean de Dieu, thì thấy họ còn ‘thiền’ hơn rất nhiều người theo các tôn giáo phương đông, và nhìn Mẹ Teresa Calcutta thì khó lòng mà nói một người phương tây không ‘có tình làng nghĩa xóm’.
Ngược lại, tại một quốc gia như Nhật Bản, thì không có một lãnh vực nào, từ đạo lý đến khoa học, mà đất nước ấy không có những người ngang bằng với các tên tuổi lỗi lạc ở Phương Tây.

Vì thế, những điều tôi trình bày trên đây, một cách rất nhị nguyên, cũng chỉ có mục đích soi rọi một số phạm trù mà người ta thường nghĩ đến, khi đối lập giữa đông và tây. Mục đích chỉ khiêm tốn như vậy thôi; bởi vì trong thực tế thì sự tách biệt không rõ mồn một như vậy. Vả lại trong chiều hướng toàn cầu hóa như hiện nay, những điều hay điều dở của hai phương dù muốn dù không cũng phải đối diện với nhau để vừa xung đột vừa bổ túc cho nhau. Tất cả những hiện tượng về chuyển nhập văn hóa (acculturation) đã và sẽ đưa đến những tổng hợp mới, do chính con người điều chỉnh theo nhu cầu của mình và của xã hội mình. Nhưng con người cũng có những cá tính đa diện và các mặt cá tính ấy thường xung khắc nhau. Trước sau gì con người (nói chung) cũng nhào nặn (façonner - réformer) lại cái xã hội của mình và chính bản thân mình sao cho phù hợp với cái gọi là Não Trạng và Tâm Trạng của mình để rồi tác động trở lại trên thiên nhiên và xã hội. Mà cái Não Trạng và Tâm Trạng ấy cơ bản lại xuất phát từ nếp sống với thiên nhiên và xã hội của mình. Cái vòng luẩn quẩn này rất tự nhiên, rất biện chứng và cũng rất là người vậy.

Điều mà hiện nay Việt Nam đang nhắm đến là làm sao tiếp thu những giá trị của phương tây mà không đánh mất đi cái bản sắc phương đông của mình. Đây là một vấn đề nhức nhối.. (còn tiếp)

_____________________________
Duynhien

NÃO TRẠNG VÀ TÂM TRẠNG: ĐÔNG VÀ TÂY

(tiếp theo)

Điều mà hiện nay Việt Nam đang nhắm đến là làm sao tiếp thu những giá trị của phương tây mà không đánh mất đi cái bản sắc phương đông của mình. Đây là một vấn đề nhức nhối. Tôi đã nêu ra bao điều hay của Phương Đông, và cũng là của Việt Nam, ví dụ như tinh thần trọng tĩnh, hiếu hòa, biết nhìn và suy nghĩ một cách tổng hợp, và chúng ta cũng đã từng đọc những cuốn sách nói về những điều tốt đẹp và đáng tự hào, chẳng hạn cuốn “Người Việt cao quý’ của Vũ Hạnh. Tuy nhiên, tôi cũng không quên thành thật nhìn lại mình một cách phản tỉnh; vì thế, để kết thúc, tôi trích dẫn vài câu trong tập ‘Người Trung Hoa xấu xí’ của tác giả Bá Dương, xuất bản tại Đài Loan, rồi tái bản tại Trung Quốc. Trong đoạn dưới đây, các bạn thử thay chữ Trung Quốc (Hoa) bằng Việt Nam (Việt) xem sao; riêng tôi, thì tôi thấy chột dạ như thế nào ấy. Đây là những câu đó:

Bất kỳ ở chân trời góc biển nào, hễ có người Trung Quốc là có cắn xé nhau. Mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi. Người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được. Mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Bất cứ xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Họ chưa biết tầm quan trọng của sự hợp tác; nhưng họ có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết, hay ho đến Thượng Đế cũng có thể khóc được. Những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi họ một hành vi đặc thù khác: chết cũng không chịu nhận lỗi. Họ thích nói: nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hay tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định.

... Người Trung Quốc sống tại Mỹ cũng vậy, nào cánh tả, cánh hữu, trung lập, độc lập, trung thiên tả, tả thiên trung, trung thiên hữu, hữu thiên trung, vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà mò. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cựu thù như nó giết bố mình. Thật không hiểu là thứ dân tộc gì? Đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính là người Trung Quốc với nhau. Bán rẻ, hăm dọa người Trung Quốc lại không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Người Tây Phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết. Sống trường kỳ trong cái hũ tương lâu ngày quá tự nhiên sinh ra tâm lý cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ; không có can đảm dám khen người khác, chỉ có dũng khí dùng để đả kích kẻ khác; chửi bới sau lưng; yêu thì sợ chúng cười, ghét thì sợ chúng thù. Họ vĩnh viễn không thể nào so sánh được với người Do Thái, chỉ cần so sánh với người Nhật, người Đại Hàn là cũng thấy bị thua tới cả trăm nghìn năm ánh sáng rồi.

... Người Trung Quốc sợ sệt đủ mọi thứ trên đời. Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan không bao giờ bị tiêu diệt, và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn hạ. Sức tưởng tượng, óc suy xét, tư duy của giới trí thức bị bóp chết, xơ cứng. Trong 4000 năm, từ Khổng Tử trở đi, không còn có một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái hũ tương văn hóa, cái hũ tương thối làm cho người Trung Quốc xấu xí, không thể dùng tư duy của mình giải quyết, phải bắt chước, phải dùng cái tư duy của kẻ khác; lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, sợ sệt, lo âu. Trung Quốc diện tích rộng thế, lâu đời thế mà người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi, không muốn ai hơn mình. Phải chăng Thượng Đế đã phú cho chúng ta có một nội tâm xấu xa?

HẾT

_______________________
Tran Huu Trung

Chào thầy Nhiên và các bạn,

Đọc đoạn văn trích dẫn sau cùng của bài phân tích của thầy Nhiên thì thiết nghĩ người đọc ít nhiều băn khoăn. Lẽ nào người Trung Hoa lại là một dân tộc như vậy. Đúng là phải nhìn vào cái dở, cái xấu của mình để tìm cách thay đổi và tiến bộ. Nhưng cách nhìn của tác giả đoạn văn này liệu có quá cực đoan không. Đúng là đất nước Trung Quốc đã chìm trong lạc hậu và chia rẽ một thời gian dài vào cuối đời nhà Thanh, vào thời gian chấp chính của Từ Hi Thái Hậu, vào thời kỳ của cuộc chiến tranh Nha Phiến, rồi sau này là sự trì trệ ấu trĩ đầy máu và nước mắt trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa những năm 1960 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, hiện tại nếu đất nước Việt Nam cần một tấm gương để học theo và vươn lên thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh thì thật ra không cần phải tìm đâu xa, một trong những đất nước mà Việt Nam cần học tập chính là bài học từ đất nước Trung Quốc láng giềng bên cạnh những quốc gia phương Tây tiên tiến khác.

Mọi người không thể không ngưỡng mộ và thán phục vị lãnh tụ Đặng Tiểu Bình tài ba của dân tộc Trung Hoa. Từ công cuộc bốn hiện đại hoá vào giữa cuối những năm 1970, Đặng Tiểu Bình đã dẫn dắt đất nước Trung Quốc với những thay đổi thần kỳ và nay vươn lên thành một cường quốc kinh tế mà ngay Mỹ cũng phải hết sức e ngại. Tiếp bước Đặng Tiểu Bình là những nhà lãnh đạo tài ba khác như Chu Dung Cơ, Giang Trạch Dân để nay Trung Quốc là một quốc gia tự mình đưa người lên vũ trụ như Mỹ, Nga. Những Thẩm Quyến, Phố Đông, Thượng Hải nay là những trung tâm tài chính, dịch vụ, kinh tế sầm uất, phát triển vượt bậc mà Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ không biết phải mơ bao nhiêu năm nữa mới theo nổi.

Chúng ta khâm phục Bill Gates, Warren Buffet, Putin ... những nhà khoa học, kinh doanh, chính trị tài ba của phương Tây, chúng ta khâm phục sự phát triển những quốc gia phương Tây hàng đầu thế giới như Mỹ, Đức, Anh, Thuỵ Sĩ ... nhưng chúng ta vẫn có thể học từ những bài học rất gần gũi Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.

Như thầy Nhiên đã đề cập : "Điều mà hiện nay Việt Nam đang nhắm đến là làm sao tiếp thu những giá trị của phương tây mà không đánh mất đi cái bản sắc phương đông của mình". Theo mục tiêu này thì rõ ràng Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc là những bài học thành công vô cùng quí giá để Việt Nam học hỏi khi các đất nước này đã trở thành những cường quốc kinh tế sánh ngang với các cường quốc phương Tây mà "không đánh mất đi bản sắc phương đông của mình".

___________________________
duynhien

Mọi người không thể không ngưỡng mộ và thán phục vị lãnh tụ Đặng Tiểu Bình tài ba của dân tộc Trung Hoa. Từ công cuộc bốn hiện đại hoá vào giữa cuối những năm 1970, Đặng Tiểu Bình đã dẫn dắt đất nước Trung Quốc với những thay đổi thần kỳ và nay vươn lên thành một cường quốc kinh tế mà ngay Mỹ cũng phải hết sức e ngại.

Đúng như vậy Trung ạ. Nhưng khởi sự đầu tiên là các nhà lãnh đạo ấy biết lắng nghe những tiếng nói nghịch nhĩ như của Bá Dương. Cũng nhắc rằng ông Bá Dương bắt đầu phát biểu những điều trên từ năm 1977, nghĩa là trong những năm tháng mà ông Đặng Tiểu Bình chuẩn bị đưa ra những biện pháp 'lột xác' cho một Trung Quốc trì trệ. Nếu thích, em có thể tham khảo thêm về ông Bá Dương trong website sau.

Click tại đây:
http://www.chungta.com/Desktop.aspx/Chu ... oc_Xau_Xi/[/justify]

Bá Dương. "Người Trung Quốc xấu xí" trên website vanhoahoc:
http://www.vanhoahoc.com/site/index.php?option=com_content&task=view&id=346&Itemid=103
RANDOM_AVATAR
xanhnguyen
 
Bài viết: 16
Ngày tham gia: Thứ 4 04/03/09 20:41
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi Khoa VHH » Chủ nhật 26/04/09 9:38

[center]Hỏi về văn hoá và cách học văn hoá học[/center]

Từ: Mai Thanh Trần <mai.lacquer@gmail.com>
Ngày: 25 tháng 4 năm 2009

Kính gửi thầy Thêm,

Em là học viên của lớp CHVH - Viện VHDG - K15 mà thầy đang giảng dạy.

….khi học ngành Văn hoá học, em thấy 1 điều, là khi nghiên cứu vấn đề gì đó, thì ta cho là ta đúng. Và vì thế lúc đầu, em thật sự ngạc nhiên khi các thầy, ở các bộ môn khác nhau, hay trong cùng 1 bộ môn, đều bảo vệ đến cùng quan niệm của mình. Đôi khi còn hướng học viên theo cách hiểu của mình, theo e, đó không fải là cách học mở rộng.

Như thầy nói, Khoa học là phải luôn nghi ngờ. Vậy, thầy cho e hỏi, khi chúng ta đưa ra các vấn đề, và chúng ta coi đó là 1 bộ phận của Văn hoá, hay tất cả đều là Văn hoá?... Học môn của thầy, thì nhìn bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, cũng thấy có yếu tố của Văn hoá. Đó có thể là cách tiếp cận vấn đề ở góc độ mới, ở góc của người nghiên cứu, nhưng có khi nào, có người lại cho rằng chúng ta cũng đang lạm dụng từ Văn hoá không ạ? Theo e, mỗi người có 1 quan điểm riêng. Chúng e học phương pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề. Nhưng nếu sau khi học xong, cái gì cũng trở thành Văn hoá, thì có giống như "bệnh nghề nghiệp" không thầy?

Cảm ơn thầy đã dành thời gian đọc mail của em. Em chúc thầy luôn mạnh khoẻ!
Hình đại diện của thành viên
Khoa VHH
Quản trị viên
 
Bài viết: 161
Ngày tham gia: Thứ 3 24/04/07 0:15
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi ngocthem » Chủ nhật 26/04/09 9:42

[center]Trả lời Mai Thanh về văn hoá và cách học văn hoá học[/center]

Bạn Mai Thanh thân mến,

[center]I[/center]

[justify]Câu hỏi thứ nhất của bạn là một câu hỏi chung cho cấp đào tạo sau đại học của mọi ngành, chứ không chỉ riêng cho ngành văn hoá học:

Mai Thanh Trần đã viết:khi học ngành Văn hoá học, em thấy 1 điều, là khi nghiên cứu vấn đề gì đó, thì ta cho là ta đúng. Và vì thế lúc đầu, em thật sự ngạc nhiên khi các thầy, ở các bộ môn khác nhau, hay trong cùng 1 bộ môn, đều bảo vệ đến cùng quan niệm của mình. Đôi khi còn hướng học viên theo cách hiểu của mình, theo e, đó không fải là cách học mở rộng



Trên lớp, tôi đã nói rằng cần phân biệt khoa học (là sản phẩm trí tuệ phương Tây) và đạo học (là sản phẩm trí tuệ phương Đông) – đó là hai phương thức tư duy khác nhau, với những ưu điểm và nhược điểm riêng của mình. Trong đó nhược điểm của đạo học là sức thuyết phục thấp, còn nhược điểm của khoa học là luôn luôn chứa sai lầm.

Nay bạn nhận thấy các thầy cô từ nhiều bộ môn khoa học khác nhau, thầy cô nào cũng “đều bảo vệ đến cùng quan niệm của mình” – trong số đó có cả tôi, người đang giảng và do vậy hiểu rất rõ rằng trong số những điều tôi giảng cho các bạn chắc chắn có thể có chứa sai lầm.

Vậy câu hỏi của bạn đại khái có thể đặt lại thành: “Thưa thầy Thêm, giữa lời nói và việc làm của thầy là có mâu thuẫn. Biết là có thể sai, mà còn cố bảo vệ đến cùng quan niệm của mình. Đôi khi còn hướng học viên theo cách hiểu của mình. Đó không phải là cách học mở rộng. Tại sao thầy không dạy những giá trị do người khác sáng tạo?”

Tôi xin trả lời:

Tất cả các thầy cô lên lớp cho hệ sau đại học đều là những nhà nghiên cứu, họ đều có những đề tài, những công trình, những sản phẩm của riêng mình.

Một trong những đức tính quan trọng nhất của người làm khoa học – mà các bạn đang “tập sự” – là trung thực. Trung thực với chân lý, trung thực với mọi người, và trung thực với chính bản thân mình.

Do vậy, với kết quả nghiên cứu của mình, thì hơn ai hết, chính bản thân mình phải tin tưởng sâu sắc rằng nó đúng. Nếu nhận ra có chỗ nào sai, thì họ đã sửa ngay rồi. Nếu nhận ra toàn bộ là sai, thì họ đã từ bỏ nó rồi. Nếu chính mình còn không tin vào điều mình nghĩ, thì làm sao mà đi dạy người khác được? Họ sẽ tin tưởng và “kiên quyết bảo vệ” nó cho đến chừng nào nhận ra chỗ sai của nó. Vì vậy, những nhà nghiên cứu có học trò, là những nhà khoa học hạnh phúc: vì trong quá trình “cọ xát” tư tưởng giữa thầy và trò, chân lý sẽ bật ra, và trước khi nhắm mắt, thầy còn kịp sửa những chỗ sai do học trò phát hiện hoặc giúp phát hiện.

Tại sao không “mở rộng” ra, dạy những kết quả của người khác? Dạy kết quả của người khác là chuyện của cấp học phổ thông. Ở cấp sau đại học, không phải là không dạy kiến thức của người khác, mà là không tập trung cho việc này. Có nhiều lý do, nhưng có hai lý do chính: Một, vì thời gian ít quá, người thầy chỉ có thể “nêu lên” tóm tắt kết quả của người khác để chỉ ra chỗ đúng của người khác mà mình đã tiếp thu, và chỗ sai của người khác, mà mình đã bổ sung và thay thế. Hai, nếu cả mình và người khác đều có (thể có) chỗ sai, thì giữa cái sai của mình mà mình chưa nhìn ra, và cái sai của người khác, mà mình đã nhìn ra (hoặc tưởng là đã nhìn ra) rồi, thì nên chọn giới thiệu kỹ cái nào, chắc là chúng ta đều thấy quá rõ!

Vì thời gian ít, và để có hiệu quả cao, thì dạy không cần phải mở rộng, mà chính là ngược lại: Dạy phải chuyên sâu, còn học phải mở rộng.

Không ai khác hơn là chính các bạn phải tự đọc thêm những sản phẩm của các nhà nghiên cứu khác mà các thầy cô đã giới thiệu (và cả chưa giới thiệu) trong danh mục tài liệu tham khảo, rồi nghiên cứu kỹ chúng, đối chiếu với những gì thầy cô đã giảng để mỗi học viên tự làm Bao Công phân xử xem ai đúng ai sai, và tranh biện lại với thầy cô. Đó mới thực là học, nhất lại là học Sau Đại Học. Một buổi lên lớp nghe giảng phải kèm theo từ 2 đến 10 buổi tự làm việc ở nhà. Trong các bạn, được bao nhiêu người đã làm việc như thế?

Bạn sẽ hỏi tiếp: Thầy cô biết là có sai, sao còn đem dạy làm gì? Và trò biết là có sai, sao còn phải học?

Thưa, vấn đề là ở chỗ, về nguyên tắc biết là có (thể) sai, nhưng chưa biết rõ là nếu có thì sai ở chỗ nào. Và vì biết là có (thể) sai, nên nguyên lý quan trọng nhất của đào tạo đại học và sau đại học là: Ở cấp học này không tập trung dạy nội dung kiến thức, mà tập trung dạy phương pháp - phương pháp tư duy, phương pháp phát hiện sai lầm, phương pháp sáng tạo. Dạy đại học và sau đại học chủ yếu là dạy phương pháp, và học đại học và sau đại học chủ yếu cũng là học phương pháp.

Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, điều hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời đi học là được học với những người thầy có bản lĩnh khoa học vững, năng lực sáng tạo cao, được học nhiều về phương pháp. Còn điều hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời đi dạy là gặp được những học trò thông minh, dám “đại nghi” (như Mai Thanh) để nhờ đó mà cả thầy và trò đều “đại ngộ”.[/justify]

[center]II[/center]

[justify]Câu hỏi thứ hai của bạn thuộc về lĩnh vực văn hoá học:
Mai Thanh Trần đã viết:khi chúng ta đưa ra các vấn đề, và chúng ta coi đó là 1 bộ phận của Văn hoá, hay tất cả đều là Văn hoá?... Học môn của thầy, thì nhìn bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, cũng thấy có yếu tố của Văn hoá. Đó có thể là cách tiếp cận vấn đề ở góc độ mới, ở góc của người nghiên cứu, nhưng có khi nào, có người lại cho rằng chúng ta cũng đang lạm dụng từ Văn hoá không ạ? Theo e, mỗi người có 1 quan điểm riêng. Chúng e học phương pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề. Nhưng nếu sau khi học xong, cái gì cũng trở thành Văn hoá, thì có giống như "bệnh nghề nghiệp" không thầy?


Như tôi đã nói, khái niệm “văn hoá” có hai cách hiểu: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn hoá học nghiên cứu văn hoá theo nghĩa rộng – tất cả mọi giá trị do con người tạo ra (có tính lịch sử, tính hệ thống) đều thuộc về văn hoá.

Song trong cuộc sống bình thường thì người ta lại hay dùng các cách hiểu “văn hoá” theo nghĩa hẹp. Phổ biến nhất là cách hiểu “văn hoá = văn hoá tinh hoa” (văn hoá nghệ thuật).

Và vì vậy, có nhiều người rất sợ hãi khi nghe những cụm từ lạ tai có chứa từ “văn hoá”. Họ nghĩ rằng xã hội đang lên cơn sốt về văn hoá, đang hóa rồ, đang lạm dụng từ “văn hoá”…

Đúng là trong xã hội hiện đang có hiện tượng lên cơn sốt về văn hoá thật (chắc là trong số các bạn không phải không có người đi học cao học VHH dưới ảnh hưởng của cơn sốt ấy!). Trong xã hội hiện nay cũng đang có nhiều người lạm dụng từ “văn hoá” thật. Ví dụ có người tập hợp những bài viết cách đây mấy chục năm với nội dung chẳng liên quan gì đến văn hóa để in ra, nhưng vì muốn sách của mình hấp dẫn, bèn đặt cho sách một cái tên có chứa từ "văn hóa". Có ông giám đốc công ty chẳng hiểu gì về văn hóa nhưng nói rất nhiều về văn hóa của công ty mình, v.v.

Nhưng bên cạnh đó, phải nhận rằng cụm từ “văn hoá công ty” từng được xem là xa lạ nay đã quen tai. Cụm từ “văn hoá đảng”, “văn hoá công đoàn” từng bị không ít người phản đối nay cũng quen dùng dần. Nhưng phản đối vì sao chứ? “Văn hoá dân tộc” chấp nhận được thì tại sao “văn hoá công ty”, “văn hoá đảng”, “văn hoá công đoàn”, “văn hoá nam giới” (= “văn hoá đàn ông”), “văn hoá phụ nữ” (văn hoá đàn bà”), v.v. lại không chấp nhận được? Đó đều là những hệ thống giá trị do chủ thể là những nhóm người khác nhau sáng tạo ra.

Từ lâu ta đã chấp nhận các khái niệm “văn hoá ẩm thực”, “văn hoá trang phục”, “văn hoá giao thông”, vậy tại sao “văn hoá tình dục”, “văn hoá bài tiết”, “văn hoá ngủ”, v.v. lại không chấp nhận được? Đó đều là những hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong những hoạt động đời sống cụ thể. Ăn và ỉa đều có thể có văn hoá và phi văn hoá. Ăn và ỉa như con vật là phi văn hoá. Người bị bệnh, không tự điều khiển được mình, ta nói là họ sống “cuộc sống thực vật” (= phi văn hoá). Vậy thì việc ỉa sao cho bớt hôi thối, bớt ảnh hưởng đến người khác là văn hoá chứ? Chặng đường của văn hoá bài tiết trong đô thị, từ ỉa vào thùng, sáng sáng có xe đến đổi, cho đến ỉa vào hố xí hiện đại nằm ngay cạnh phòng ăn, phòng khách, là cả một chặng đường văn hoá đầy sáng tạo đấy chứ? Nếu nâng lên một bước nũa, ỉa sao cho không những không bẩn, không hôi thối, mà còn có lợi cho đời nữa thì càng văn hoá chứ? Cả làng Cổ Nhuế (Hà Nội) vốn sinh tồn bằng nghề hót phân đem bón ruộng, làm ra những bông lúa tốt cho mọi người ăn, là văn hoá chứ? Nhiều người có học có thói quen tận dụng thời gian, vào nhà xí/toa-let vừa ngồi ỉa vừa đọc sách báo, làm thơ... chẳng lẽ không phải là văn hoá? Hơn nữa, không phải cứ bình sinh đời thường hôi hám thì không có quyền "văn hoá" bằng cái sạch sẽ văn minh. Kinh nghiệm sống hiện nay đã dạy cho chúng ta khôn ra để biết rằng một cây rau cải lá to và xanh rì một cách đáng ngờ do được chăm bón bằng hóa chất (= sản phẩm của văn minh) làm sao đáng tin bằng, làm sao lành bằng, làm sao "sạch" bằng (= làm sao "văn hoá" bằng) một cây rau cải được bón bằng phân hữu cơ và tưới bằng nước tiểu tự nhiên, lá có chỗ xanh chỗ vàng, có chỗ lành chỗ rách do sâu cắn? Và tương tự, chắc gì một sản phẩm của văn hóa tinh hoa (thơ, truyện, tranh, tượng, nhạc.. của các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp) đã hơn được một câu ca dao, một truyện Trạng Quỳnh, một bức tranh Đông Hồ, một pho tượng nhà mồ, một bài ca Quan họ...?

Văn hoá đòi hỏi sự khoan dung.

K. Marx nói: “Không có cái gì thuộc về con người mà xa lạ với tôi cả”.

Ta thường nói: “Không có người phụ nữ xấu mà chỉ có những người phụ nữ không biết làm đẹp”.

Tôi xin nói: “Không có người/vật phi văn hoá mà chỉ có những người không đủ khoan dung để nhìn ra chất văn hoá trong cái sự vật/ hiện tượng tưởng chừng phi văn hoá”.

Chỉ ra cái văn hóa đúng như nó có, mà lâu nay mọi người không nhìn ra (vd, "văn hóa bài tiết") - đó không hề là sự lạm dụng từ "văn hóa" một chút nào, hơn thế nữa, đó chính là nhiệm vụ của nhà văn hóa học. Các sinh viên văn hóa học, HVCH-NCS văn hóa học hơn ai hết phải hiểu rõ điều này.

Tôi không giấu diếm mục tiêu dạy cho các bạn cách "giải thiêng" để nhìn thấy được giá trị văn hoá trong bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Thiếu kỹ năng đó, thì không thể trở thành người nghiên cứu văn hóa được. Cũng như nếu không dám nhìn thẳng vào cái xác trần truồng của nguời khác giới thì không thể trở thành bác sĩ chuyên ngành giải phẫu hay sản khoa được; nếu không đủ dũng cảm nhìn vào người mẫu khỏa thân trước mặt họ và trước mặt đồng nghiệp thì không thể trở thành họa sĩ chuyên vẽ người được; nếu sợ dơ bẩn không dám thò tay vào rửa đít trẻ con thì không thể trở thành người mẹ được...

Nhưng nếu cho rằng khả năng nhìn thấy được giá trị văn hoá trong bất kỳ sự vật, hiện tượng nào sẽ dẫn đến chỗ sau khi học xong, thấy cái gì cũng trở thành Văn hoá thì lại là một ngộ nhận sai lầm.

Một người "có chỗ xấu" không nhất thiết phải là một người xấu. Một sự vật, hiện tượng có chứa giá trị văn hóa, tự thân không nhất thiết phải là một giá trị văn hóa. Muốn là một giá trị văn hóa, thì đa phần các bộ phận khác trong nó cũng phải là giá trị văn hóa, và tất cả phải có đủ các đặc trưng văn hóa còn lại (tính hệ thống, tính nhân sinh, tính lịch sử), và phải được đặt trong hệ tọa độ gốc điển hình, v.v. Có phân biệt được những cái tinh tế đó thì mới có cơ sở để "mỗi người có một quan điểm riêng", nếu không thì cái "quan điểm riêng" đó chỉ là những lời tuyên bố đại ngôn với nhiều cảm tính và ít cơ sở khoa học.

Và khi đã biết nhìn thế giới bằng cặp mắt văn hóa học rồi thì "bệnh nghề nghiệp" là không thể tránh được. Người mạnh khỏe nào mà chẳng có lúc có bệnh. Bạn tưởng rằng trước khi đi học văn hóa học, bạn không có bệnh nghề nghiệp chăng (nếu bạn đã có một nghề)? Làm gì có người nào có nghề mà tránh được bệnh nghề? Có tránh được chăng chỉ là những người chưa đủ say mê, chưa hết lòng với nó. Và như vậy thì "bệnh nghề nghiệp" cũng không phải là một cái gì đáng xấu. Nghề nghiệp là sản phẩm của quá trình "phân tích tính"; "bệnh nghề nghiệp" là một phẩm chất nghề nghiệp cần thiết giúp ta đi sâu, tìm ra bản chất thực của sự vật. Bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng, vì đúng là trên thực tế ở đâu cũng có vi trùng thật. Chỉ có điều cơ thể có khả năng tự đối phó (hoặc thích nghi) với vi trùng nên người thường chỉ "nhìn thấy" vi trùng khi cơ thể anh ta không tự đối phó (hoặc thích nghi) được. Nhà văn hóa học nhìn đâu cũng thấy chất văn hóa, vì đúng là trên thực tế ở đâu có con người là ở đó có giá trị văn hóa do con người tạo ra. Việc chỉ cho con người thấy được bản chất việc mình làm để rồi từ đó mà chủ động tận dụng / đối phó / sùng bái / lưu luyến nó là việc làm có ích. Việc một con người sống chết với nghề - người nông dân chết trên cánh đồng, người ngư dân chết trên biển cả, người trí thức chết trên trang giấy... - không những không có gì xấu mà còn là việc đáng tự hào.

Tôi chúc cho văn hoá học sẽ trở thành một đối tượng nghề nghiệp mà bạn đam mê, để bạn có thể sống chết vì nó, để mắc bệnh nó và đôi khi có thể “đổ bệnh” vì nó.[/justify]

[center]=======[/center]
Hình đại diện của thành viên
ngocthem
Quản trị viên
 
Bài viết: 243
Ngày tham gia: Thứ 7 20/10/07 6:55
Cảm ơn: 1 lần
Được cám ơn: 9 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi Le Truc Anh » Chủ nhật 03/05/09 22:24

[justify]Trước hết, cần khẳng định rằng những băn khoăn, thắc mắc mà chị Mai Thanh đã mạnh dạn, thẳng thắn nêu lên với GS. Trần Ngọc Thêm là một cảm nhận hoàn toàn có thật. (Tôi đồ rằng, không phải không có người nghĩ giống như vậy, chỉ có điều, họ nghĩ nhưng vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, chưa đủ dũng cảm để nói lên, để viết ra… như chị mà thôi).

Thực tâm tôi rất muốn nói lời Cảm ơn chị và câu hỏi của chị. Nhờ nó, chúng tôi có thêm cơ hội được “học Thầy, học Bạn”. Những câu hỏi của chị trực tiếp gửi tới GS. Trần Ngọc Thêm, điều này cho thấy chị đã Trung Thực với chính cảm nhận của mình và rất cầu thị trong quá trình trao đổi, góp bàn để tiếp thu kiến thức một cách chủ động. Đây là điều mà cá nhân tôi rất trân trọng và mong muốn được học hỏi.

Về phía bài viết của GS. Trần Ngọc Thêm trả lời chị Mai Thanh, tôi cũng tiếp thu, học tập và “Ngộ” sâu sắc hơn một số vấn đề:

Thứ nhất: Lòng Trung thực, Bản lĩnh và Đức tin.

GS. Trần Ngọc Thêm viết: "Một trong những đức tính quan trọng nhất của người làm khoa học – mà các bạn đang “tập sự” – là trung thực. Trung thực với chân lý, trung thực với mọi người, và trung thực với chính bản thân mình. Do vậy, với kết quả nghiên cứu của mình, thì hơn ai hết, chính bản thân mình phải tin tưởng sâu sắc rằng nó đúng. Nếu nhận ra có chỗ nào sai, thì họ đã sửa ngay rồi. Nếu nhận ra toàn bộ là sai, thì họ đã từ bỏ nó rồi. Nếu chính mình còn không tin vào điều mình nghĩ, thì làm sao mà đi dạy người khác được?"

Quả là, trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy, nếu không có Yêu Tin, không có sự Tín niệm vào chính những việc mình đã và đang làm “thì làm sao mà đi dạy người khác được?”. Bản thân tôi hiện nay, vừa là một học viên, vừa là một giảng viên. Khi là học viên, tôi luôn mong muốn được học những Thầy Cô giáo thực sự dồi dào năng lượng trí tuệ và giầu có lòng đam mê nghề nghiệp. Qua những giờ lên lớp, Thầy Cô không chỉ trao truyền cho học viên tri thức, phương pháp nghiên cứu khoa học mà còn giúp chúng tôi cảm nhận được giá trị của Tình Yêu nghề nghiệp, yêu khoa học, yêu con người… May mắn thay, tôi đã được học những Thầy Cô như vậy, gần đây nhất là Thầy Thêm, Cô Hiền (PGS.TS Phan Thu Hiền). “May Mắn” là bởi, mỗi giờ Thầy Cô lên lớp là mỗi giờ tôi và chúng ta được “đứng trên vai những người khổng lồ”!

Công trình khoa học cả đời của quý Thầy Cô kết tinh thành sách vở nghiên cứu dày dặn như thế, mỗi khi lên lớp lại tiếp tục chắt chiu, tinh cất chỉ trong vài giờ… Kiến thức sách vở, qua Thầy Cô giảng dạy đã được “giải mã” trực tiếp, trong khi học lại có phát vấn, đối thoại… rõ ràng là tương tác hai chiều chứ không đơn tuyến như khi ta chỉ đọc và học với sách… Xét đến cùng, học với Thầy Cô tiết kiệm được nhiều thời gian hơn khi cứ loay hoay một mình, phần lợi luôn luôn nghiêng về phía người học, thế chẳng phải một May Mắn lớn sao? (Không biết chị Mai Thanh có học môn Đọc sách kinh điển của cô Hiền không nhỉ? Nhiều bạn học viên Cao học mà tôi quen biết đều chung ý kiến: Nếu nghỉ một buổi học môn ĐSKĐ của cô Hiền thì xem như mất một cuốn sách! Sự “được - mất” này hoàn toàn là nhờ Cô. Bởi trước đó, dù đã được cô “định hướng” bằng các câu hỏi song hầu hết học viên khi phải tự mình “đánh vật” với sách đều cảm thấy nó “kinh khủng” hơn là cảm nhận đó là tài sản tinh thần “kinh điển” quý hiếm của nhân loại!).

Nhiều lúc, ngắm nhìn quý Thầy Cô say sưa giảng bài, đôi khi quên cả giờ nghỉ giải lao, quên cả nhấp một ngụm nước thấm giọng, tôi thấy vừa khâm phục vừa thương cảm. Tôi dùng từ “thương cảm”, là do, trong một không gian, một môi trường khác, tôi cũng là một giảng viên. Đã từng nhiều năm găn bó với bục giảng (dĩ nhiên, so với quý Thầy Cô của tôi - những cây đại thụ trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giảng dạy, tôi chỉ là một cây non, rất non), cũng đủ cho tôi thấu hiểu điều này: Muốn chia sẻ thật nhiều kiến thức cho người học, muốn khơi gợi và tạo lập nơi họ niềm tin yêu vào chân lý khoa học, vào cuộc sống thì bản thân mình phải “dấn thân”, phải tìm kiếm, học hỏi và tích lũy thật nhiều tri thức.

Có khi, với kiến thức tạm có, miệt mài chuẩn bị nội dung cho một buổi lên lớp là cả trăm vấn đề (xin hiểu một cách tượng trưng) nhưng trong giới hạn thời gian và số tiết dạy theo quy định, người giáo viên thực chất chỉ có thể trình bày chưa tới một phần 10, thậm chí ít hơn như vậy. Người xưa có câu: “Dục tốc bất đạt”, cái gì nhanh quá, dồn nén, ào ạt quá, khó lòng đạt tới sự thấm thía, vững vàng chỉ trong thời gian ngắn. Đối với mọi vấn đề của cuộc sống đều thế, điều này càng đúng với những gì liên quan đến nhận thức, tư duy của con người - vốn là một quá trình vận động biện chứng, luôn đòi hỏi phải đi từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện...

Phải chăng bởi vậy, sau mỗi buổi học, nhất là sau những giờ học đầy ắp thông tin, tràn ngập kiến thức mới mẻ, trong đó có cả những kiến thức gây “shock” (do chưa kịp “giải thiêng” hoặc “giải thiêng” chưa đến nơi đến chốn, một phần cũng do thời gian thẩm thấu còn hạn chế)… khiến người học ít nhiều cảm thấy căng thẳng, chơi vơi, ức chế vì mình chưa làm chủ được kiến thức. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, và chắc chắn không phải chỉ một, hai lần, trong các giờ học trên lớp, GS. Trần Ngọc Thêm đều nhấn mạnh phương pháp: “Vì thời gian ít, và để có hiệu quả cao, thì dạy không cần phải mở rộng, mà chính là ngược lại: Dạy phải chuyên sâu, còn học phải mở rộng. Không ai khác hơn là chính các bạn phải tự đọc thêm”

Về phía người Thầy, trong bối cảnh “thời gian ít” mà cần đạt “hiệu quả cao”, đảm bảo chất lượng cho cả hai chiều Dạy và Học, cũng luôn luôn phải nỗ lực để điều chỉnh mâu thuẫn giữa Cầu và Cung, giữa Chuyên Sâu và Mở Rộng… để làm sao phục vụ tốt nhất nhu cầu, lợi ích của người học. Tôi tin tưởng rằng, những Người Thầy chân chính, hết thảy, khi đã đứng trên bục giảng, từ Mầm non đến cấp ĐH hay trên ĐH đều tận tâm tận lực như “con tằm rút ruột nhả tơ”… Sau những lúc “cháy hết mình” như thế, không phải là không mệt mỏi (thân xác rã rời), không phải không có những khoảnh khắc trĩu nặng tinh thần, thậm chí, thoáng chút trống vắng và cô đơn bởi: “…mỗi lần cầm khăn xóa bảng/ Lại thầm thương trách bàn tay/ Lẽ nào những điều mới giảng/ Đã thành hạt bụi phấn bay”…

Nhưng chính những tương tác với học trò, những chia sẻ, thắc mắc từ phía người học, là một “liệu pháp tinh thần”, một động lực lớn để người giáo viên gắn bó và vươn lên trong nghề nghiệp. Khi đứng trên bục giảng, người Thầy không chỉ cần lòng nhiệt tình, Đức Tin vào những điều mình nghiên cứu và truyền giảng, mà còn cần cả Bản lĩnh Đối thoại và Đối mặt với những ý kiến trái chiều… Trong tranh luận, tinh thần khoa học đòi hỏi sự Trung thực, Kiên định và Kiên cường - đương nhiên phải dựa trên cơ sở của lý luận.

Chính vì vậy, về phía người học, cảm nhận “các thầy, ở các bộ môn khác nhau, hay trong cùng 1 bộ môn, đều bảo vệ đến cùng quan niệm của mình. Đôi khi còn hướng học viên theo cách hiểu của mình…” như chị Mai Thanh phản ánh là điều rất tự nhiên và hoàn toàn dễ hiểu. Một trong những chức năng của Người Thầy, dù theo quan niệm giáo dục thụ động hay tích cực, cũng có cùng điểm chung: Đó là chức năng Định Hướng Chân, Thiện, Mỹ cho người học.

Trên thực tế, một người giáo viên giỏi chuyên môn, say mê nghề nghiệp và có năng khiếu giảng dạy mới làm được điều này. Không phải ai cũng đủ năng lực để dẫn dắt, ảnh hưởng, “áp đặt”, thậm chí “áp đảo”… đối tượng giao tiếp bằng trí tuệ sắc sảo và lập luận chặt chẽ, khúc triết của mình đâu. Muốn thế, người giáo viên ấy, với tư cách một nhà nghiên cứu khoa học, phải có Bản lĩnh để luôn sẵn sàng chịu trách nhiệm trước những kết quả nghiên cứu được công bố và “bảo vệ đến cùng” thành quả trí tuệ mà mình đã dày công theo đuổi và vun trồng. Nếu ai đó hành động ngược lại thì mới là điều đáng thắc mắc, ngạc nhiên.

Người xưa đã dạy: “ăn cây nào, rào cây ấy!”. Trong nhiều trường hợp, đây không chỉ là lời khuyên về văn hóa ứng xử mà còn là vấn đề Đạo lý Làm Người. Không ai tự tay Trồng cây mà lại không quý, không xót thành quả lao động do chính mình đổ mồ hôi sôi nước mắt vun trồng. Cũng không ai “ăn quả” mà quên ơn “kẻ trồng cây”, càng không thể chỉ biết hưởng “lộc cây” mà không biết chăm dưỡng, vun xới cho cây ấy ngày càng tươi tốt, vững bền. Đó là Đạo lý!

Thứ hai, chị Trần Mai Thanh hỏi: “khi chúng ta đưa ra các vấn đề, và chúng ta coi đó là 1 bộ phận của Văn hoá, hay tất cả đều là Văn hoá?.....cái gì cũng trở thành Văn hoá, thì có giống như "bệnh nghề nghiệp" không thầy?”. Và, GS. Trần Ngọc Thêm trả lời: “Như tôi đã nói, khái niệm “văn hoá” có hai cách hiểu: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn hoá học nghiên cứu văn hoá theo nghĩa rộng – tất cả mọi giá trị do con người tạo ra (có tính lịch sử, tính hệ thống) đều thuộc về văn hóa. Song trong cuộc sống bình thường thì người ta lại hay dùng các cách hiểu “văn hóa” theo nghĩa hẹp. Phổ biến nhất là cách hiểu “văn hóa = văn hóa tinh hoa” (văn hoá nghệ thuật). Và vì vậy, có nhiều người rất sợ hãi khi nghe những cụm từ lạ tai có chứa từ “văn hoá”. Họ nghĩ rằng xã hội đang lên cơn sốt về văn hoá, đang hóa rồ, đang lạm dụng từ “văn hoá”…

Liên quan đến vấn đề nhận thức về văn hóa, tôi xin được góp bàn thêm.

Ai cũng biết, ở Việt Nam ta, ngành Văn hóa học ra đời khá muộn màng. Một thời kỳ rất dài, tạm tính từ trước thời kỳ Đổi mới năm 1986, từ cấp lãnh đạo cao nhất cho đến quần chúng nhân dân, trong đó không loại trừ ngay cả một số học giả, trí thức thuộc chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn… vẫn hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp: đồng nhất văn hóa với văn nghệ, với các sản phẩm tinh thần, thậm chí hẹp hơn nữa là đồng nhất văn hóa với học vấn. Quan niệm này để lại rất nhiều “tàn dư” trong cách nghĩ, cách làm và cách ứng xử đối với “văn hóa” ở đất nước ta.

Một ví dụ điển hình: trong bản “Sơ yếu lý lịch”, được in sẵn như một mẫu văn bản hành chính phục vụ cho công tác quản lý nhân sự ở bất kỳ cơ quan, tổ chức nào… cũng có một dòng thông tin yêu cầu đối tượng tuyển dụng trả lời: Trình độ văn hóa? Với câu hỏi này, không ai bảo ai, chả cần hướng dẫn, hết thảy đều căn cứ vào tiêu chí: trình độ PTTH đã đạt của bản thân mà điền vào: 10/10 hay 12/12- Đây là “trình độ học vấn” chứ không phải “trình độ văn hóa” (hiểu theo nghĩa rộng). Vì có sự nhầm lẫn như vậy, nên đã không ít người nghĩ rằng có nhiều “bằng” (bằng cấp), nghĩa là “văn hóa” của mình hơn hẳn những người khác!

Trên thực tế, học vấn là yếu tố quan trọng để tạo ra lối sống văn hóa, để góp phần hoàn thiện nhân cách văn hóa chứ không phải là yếu tố duy nhất. Do vậy, có những người học vấn cao, bằng cấp nhiều, nhưng chưa hẳn đã “có văn hóa” và ngược lại, không nên xem nhẹ những người trình độ học vấn “thường thường bậc trung”, biết đâu, có thể họ “không cao” về bằng cấp nhưng người khác vẫn phải “ngước nhìn” về nhân cách và đạo lý làm người! Trong cuộc sống có vô vàn những so sánh như thế, cứ chiêm nghiệm, hẳn sẽ thấy tìm nghịch lý này không khó.

Cách hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp dẫn tới hậu quả, một thời kỳ rất dài, chủ thể lãnh đạo và quản lý, khi đánh giá vai trò, chức năng của văn hóa, đã không tránh khỏi cái nhìn cực đoan, siêu hình: thay vì cần đặt văn hóa trong cái nhìn hệ thống, xem văn hóa là “hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần”, vừa là yếu tố thẩm thấu, vừa là kết quả hoạt động sáng tạo của con người trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội… thì ngược lại, văn hóa (= văn nghệ) bị xem là sự “thăng hoa” của kinh tế (kiểu “phú quý sinh lễ nghĩa”), tệ hơn, là “sự phản ánh thụ động”, “cái đuôi” của kinh tế. Tư duy thế nào thì cách thức tổ chức, thái độ ứng xử… kèm theo đó là chủ trương, chính sách, chế độ… như thế ấy!

Khi đã xem văn hóa là yếu tố “phi lợi nhuận” thì tất yếu dẫn đến việc đầu tư cho văn hóa (trong đó có những thành tố cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia như y tế, giáo dục…) theo kiểu “phần còn dư”.Thích thì đầu tư ngân sách Nhà nước, không thích thì cắt giảm, không cần lý do! Đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa, thời kỳ trước và sau Đổi mới gần chục năm (nên nhớ: Nghị Quyết TW5, Khóa VIII với định hướng Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tận năm 1998 mới được đề ra thành văn bản như một Cương lĩnh văn hóa chính thức của Đảng), trong nhận thức của đại bộ phận vẫn là một trách nhiệm chủ yếu thuộc về Bộ Văn hóa – Thông tin, ngành Văn hóa – Thông tin. Chức năng được nhấn mạnh ở ngành này, trong tư duy cũ, luôn gắn với cổ vũ, tuyên truyền, với hình ảnh “cờ, đèn, kèn, loa, đóng đinh, leo thang…” nhằm minh họa cho các phong trào giáo dục chính trị tập thể, có tính chất “bề nổi”. Thế mới nên chuyện, hễ có phong trào trồng dưa, trồng cà, đào ao thả cá, thể dục thể thao… là có thơ, có nhạc, ca dao, hò vè… đi kèm để động viên, khích lệ tinh thần quần chúng, để “phục vụ” cho sản xuất nông nghiệp...

Ví như:

“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân bắc, phân xanh đầy chuồng”…


Hay:

“Bà con toàn thể xã ta
Đồng tâm phấn khởi giồng cà dái dê
Dái dê to mượt dài ghê
Năm sau, ta cứ dái dê ta giồng !


Chính nhận thức hạn hẹp và ấu trĩ như vậy, đã khiến chúng ta có nhiều sai lầm trong cách thức giữ gìn, bảo vệ và phát triển văn hóa. Một giai đoạn khá dài, chúng ta hô hào XÂY văn hóa, nhưng lại vô tình “đẩy mạnh” việc PHÁ các di sản văn hóa vật thể của dân tộc. Ở nông thôn miền Bắc, thập niên 60 – 70, đình, chùa, miếu mạo, tượng Phật, hương ước... của làng xã bị hủy bỏ, sân đình bị biến thành sân phơi thóc của hợp tác xã, các lễ hội truyền thống hầu như bị lãng quên.

Thời điểm ấy, một số vị lãnh đạo địa phương quan niệm đó là sản phẩm của thực dân, phong kiến, là dấu tích của mê tín dị đoan... nên muốn xây dựng đời sống văn hóa mới phải phá hết, đập hết cái cũ, không cần biết “cái cũ” ấy đã và đang tạo nền tảng vững chắc cho một dân tộc, đất nước tự hào về lịch sử “ngàn năm văn hiến” của mình. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng lên tiếng nghiêm khắc nhắc nhở một số vị lãnh đạo địa phương vì những sai lầm nghiêm trọng ấy.

Nhưng, tiếc thay, Phá bao giờ cũng nhanh hơn Xây, nhận thức thường lạc hậu hơn so với quá trình vận động và phát triển kinh tế - xã hội, do đó, ngay sau thời kỳ Đổi mới, hiện tượng “chảy máu” cồng chiêng ở Tây Nguyên, Hòn Vọng Phu ở phía Bắc bị đem đi nung vôi... vẫn ngang nhiên diễn ra. Chỉ từ lúc Nhà nước xây dựng và ban hành Luật Di sản văn hóa 2001, trong đó quy định rõ Quyền và Nghĩa vụ công dân đối với việc giữ gìn và bảo vệ các di sản vật thể và phi vật thể của dân tộc, hiện tượng “phản văn hóa” trên mới có chiều hướng suy giảm.

Ngay trong Kết luận TW 10 Khóa IX (2004), khi đánh giá tình hình triển khai và thực hiện NQTW5 sau 5 ra đời - tức sau Đổi mới hơn 18 năm, những yếu kém, khuyết điểm về công tác văn hóa vẫn chưa thực sự được đẩy lùi: So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng phong phú trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hoá còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống... Sự phát triển của văn hoá chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế ;... Việc xây dựng thể chế văn hoá, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách trên lĩnh vực văn hoá, đặc biệt là chính sách về quan hệ giữa kinh tế và văn hoá còn chậm, chưa đổi mới, thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hoá đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước. Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá - tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng... [Kết luận Hội nghị TW 10, Khóa IX]

Nhớ lại, ngày 10/12/1991, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 10, người anh hùng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong báo cáo trình Quốc hội, đã nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa như sau: “Chuyển sang kinh tế thị trường trong điều kiện khoa học công nghệ và trí tuệ nói chung trở thành nhân tố quyết định của sự phát triển, chúng ta khẳng định dứt khoát yêu cầu bảo vệ và phát triển văn hóa với nhận thức đầy đủ rằng: Kinh tế và văn hóa gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ, kinh tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, và văn hóa không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa kinh tế và văn hóa là sự phát triển năng động, hiệu quả và vững chắc nhất...”.Nhưng từ năm 1991 đến năm 2004, một chặng đường 13 năm ấy, sự phát triển của văn hóa vẫn “chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế”… Vì sao vậy?

Nguyên nhân đáng lo ngại nhất, đã được nêu ra ngay trong Kết luận Hội nghị TW 10, Khóa IX: Những khuyến điểm, yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan là: Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy các cấp về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hoá chưa thật đầy đủ… Nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được triển khai tích cực, có nơi còn bị xem nhẹ… [Kết luận Hội nghị TW 10, Khóa IX].

Như vậy, trở lại nguyên lý: Nhận thức là một quá trình biện chứng của tư duy… Chị Mai Thanh có thấy, cả một chặng đường chúng ta từ Biết ít (hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp, tách rời văn hóa ra khỏi các lĩnh vực của đời sống xã hội) đến Biết nhiều hơn, như GS. Trần Ngọc Thêm nhận xét khách quan: “phải nhận rằng cụm từ “văn hoá công ty” từng được xem là xa lạ nay đã quen tai. Cụm từ “văn hoá đảng”, “văn hoá công đoàn” từng bị không ít người phản đối nay cũng quen dùng dần”… cũng mất cả hàng chục năm, tính ra đã hơn nửa thế kỷ rồi! Xã hội, nếu có “lên cơn sốt” về văn hóa thật, thì thiết nghĩ, những người đang học, nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa như Thầy Cô giáo của chúng ta, như tôi, như chị Mai Thanh và nhiều anh chị em văn nghệ sĩ, diễn viên… những ai đang hoạt động, công tác trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật phải sung sướng, tự hào hơn ai hết!

Trên thực tế, dù xã hội đã có nhiều đổi thay song Định kiến: văn hóa là một dạng hoạt động tinh thần gắn với một vài lĩnh vực cụ thể như nghệ thuật, văn chương… mang tính giải trí, bị quy định một cách thụ động vào kinh tế không phải một sớm một chiều mà mất dấu… Những cụm từ vô cùng quen thuộc ở các quốc gia phương Tây phát triển như “văn hóa chính trị”, “văn hóa lãnh đạo và quản lý”, “văn hóa từ chức”… thì ở Việt Nam ta tốn không biết bao nhiêu giấy mực, tiền của cho những cuộc hội thảo khoa học từ cấp Trung ương đến địa phương mà vẫn có người quyết liệt phản đối: Không nên gọi là “văn hóa Đảng”, “văn hóa lãnh đạo” bởi nếu nói như thế thì hóa ra từ xưa đến nay Đảng ta, các nhà lãnh đạo và quản lý của chúng ta “chưa có” hoặc “không có văn hóa” sao?!!!

Chính sự bảo thủ và ngu dốt trong nhận thức về văn hóa, chính những Định kiến như vòng kim cô siết trong tư duy đã khiến người ta khó có thể trải rộng tầm nhìn để vượt thoát ra khỏi những suy diễn, suy luận ngớ ngẩn như vậy! Và cũng bởi, nhận thức, tư duy mới về văn hóa và vai trò của văn hóa chưa thật sự thẩm thấu và lan tỏa khắp xã hội, nhất là từ các cấp lãnh đạo - quản lý, nên rất nhiều những bức xúc, bộn bề trong đời sống của chúng ta hiện nay như nạn kẹt xe, môi trường đô thị luộm thuộm với những khẩu hiệu chướng tai, gai mắt giăng đầy khắp phố phường: Cấm xả rác, cấm đái bậy, cấm phóng uế bừa bãi…, hiện tượng bẻ cành, ngắt hoa tàn phá lễ hội… đều không được giải quyết triệt để, đến nơi đến chốn.

Mọi biện pháp khắc phục, phòng ngừa sẽ chỉ là giải pháp “tình thế”, sẽ trở nên kém hiệu quả nếu chỉ dừng lại ở phần “ngọn” của vấn đề. Nguyên nhân sâu xa, bản chất nhất của mọi vấn đề xã hội đều có căn rễ từ văn hóa. Nếu không hiểu thế nào là “văn hóa bài tiết”, trong không gian, thời gian, trong quan hệ tương tác nào thì đó là một hoạt động bản năng như mọi loài động vật, còn khi nào thì nó đã và cần phải được “văn hóa hóa”… hẳn hai chữ “CAM DAI” (từng khiến không ít bạn trẻ Việt Nam mắc cỡ và “khó nói” với bè bạn nước ngoài khi họ yêu cầu dịch và giải nghĩa từ đó) sẽ còn tồn tại dai dẳng trong nhiều thế hệ người Việt Nam.

Vậy, để nhận thức về văn hóa, từ Biết ít đến Biết nhiều, từ Biết nhiều đến Hiểu sâu, từ Hiểu sâu đến Hiểu toàn diện và ngày càng hoàn thiện hơn, nên chăng, chúng ta hãy cầu mong cho bản thân mình được “mắc bệnh nghề nghiệp” nhằm tỏ rõ trách nhiệm của những người được học hành đào tạo cơ bản, nhờ thế, có đôi chút hiểu biết khoa học về văn hóa hơn những ai chưa có cơ hội may mắn như vậy, đối với các vấn đề xã hội hiện nay. Và lớn hơn, cầu mong cho toàn thể cộng đồng, đặc biệt chủ thể lãnh đạo và quản lý các cấp, giống như chúng ta - “mắc bệnh nghề nghiệp”, nhìn đâu cũng ra văn hóa, cũng thấy văn hóa hiển hiện, thì lúc ấy hết thảy mọi người Việt Nam, đều có thể sung sướng cất vang câu hát với bè bạn thế giới: “vĩnh phúc cho ai biết rằng, ở đó mùa xuân vĩnh hằng”! [/justify]
RANDOM_AVATAR
Le Truc Anh
 
Bài viết: 184
Ngày tham gia: Thứ 4 19/11/08 21:27
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 1 lần

Re: GIAO LƯU VỚI GS.VS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM

Gửi bàigửi bởi MaiLacquer » Thứ 6 08/05/09 2:55

Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn Thầy đã tận tình chỉ giảng cho em những vướng mắc mà em đã gặp trong quá trình học. Ngay trong buổi lên lớp sau đó, em đã có dịp tiếp tục trao đổi trực tiếp với Thầy. Kế nữa, cảm ơn những luận bàn đóng góp của chị Lê Trúc Anh.

Về phần trao đổi với Thầy Thêm, xin được nhắc lại mấy điều mà tôi tâm đắc:
1. Về ví dụ ăn và ỉa. Văn hoá là cái gốc, là bản sắc. Để được như ngày nay, “ỉa sao cho không những không bẩn, không hôi thối, mà còn có lợi cho đời nữa”, là văn minh, là bước tiến cao nhất.
2. Khoa học đòi hỏi sự cực đoan.
3. Mắc “bệnh nghề nghiệp” là điều tốt.
4. Không phải ng mẹ nào cũng phải biết rửa đít cho con (có những người mẹ không sinh thành đứa con của mình), không phải cứ quen nhìn mẫu nude mới là hoạ sỹ. Một sự vật, hiện tượng phải xét trên hệ trục của nó.
5. “Văn hoá tận dụng, đối phó, sùng bái, lưu luyến” là tên gọi mà bạn có thể sử dụng hoặc không, và có thể dùng tên gọi khác theo cách của mình.
6. Khi nghiên cứu, người nghệ sỹ phải gạt đi “chất nghệ sỹ” trong sáng tạo nghệ thuật, để tỉnh táo làm công tác khoa học.


Em xin tiếp thu những lời chỉ giảng của Thầy, em chỉ có một vài dòng đúc kết lại của mình
như sau…. Để văn hoá trở thành bộ môn Văn hoá học như ngày nay, thì thời gian và trình độ nhận thức là điều kiện cần thiết. Bất kỳ sự vật, hiện tượng bao giờ cũng có nhiều mặt, nhiều chiều, thậm chí những thái cực trái ngược nhau. Trong một vấn đề, ngoài mặt tuyệt đối và tương đối, còn có cả sự dung hoà giữa 2 yếu tố ấy. Nên sự xấu - đẹp, văn hoá – phi văn hoá cần phải được xem xét đánh giá trên hệ trục của mình.

Em rất cảm ơn câu chúc của thầy :” Tôi chúc cho văn hoá học sẽ trở thành một đối tượng nghề nghiệp mà bạn đam mê, để bạn có thể sống chết vì nó, để mắc bệnh nó và đôi khi có thể “đổ bệnh” vì nó.
”. Em “đổ bệnh” rồi đấy ạ, giai đoạn “cấp tính”... :)

“Thầy nói:
Ta thường nói: “Không có người phụ nữ xấu mà chỉ có những người phụ nữ không biết làm đẹp”.

Tôi xin nói: “Không có người/vật phi văn hoá mà chỉ có những người không đủ khoan dung để nhìn ra chất văn hoá trong cái sự vật/ hiện tượng tưởng chừng phi văn hoá”.


Em xin nói: “Không có người thiếu văn hoá, chỉ có người không làm cho mình trở nên có văn hoá mà thôi”

*****************

Về phần trao đổi của chị Trúc Anh… Bởi lẽ, tôi là học viên cao học của Viện Nghiên cứu VHDG (trực thuộc Viện Khoa học – Xã hội), tại Hà nội, nên không có dịp học môn “Đọc sách kinh điển” của PGS.TS Phan Thu Hiền, nếu một ngày nào đó có dịp, mong chỉ chỉ thêm.

Như chị đã nói, ngành Văn hoá học ở VN ra đời khá muộn màng. Và cũng như chị đã biết, nền giáo dục của ta hiện nay còn nhiều bất cấp, với rất nhiều những chỉnh lý, sửa chữa, bổ sung, nên không thể tránh khỏi tình trạng nhiều người nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, thậm chí không có điều kiện để nghiên cứu sâu. Vì thế, chúng ta mới chỉ dừng ở mức phổ cấp giáo dục, chứ chưa phổ cập văn hoá.

Chúng ta là những người nghiên cứu, hay đang “tập sự” nghiên cứu, đứng trên lập trường ấy, tôi chỉ nghĩ đơn giản thế này…. Chúng ta không nên đào sâu, chỉ trích những tàn dư, tiêu cực cũ, những sai lầm. Không có những thất bại ấy, liệu chúng ta có lùi hai bước để nhìn nhận lại cho chính xác, bao quát và đầy đủ? Và phải mất một khoảng thời gian đủ dài để tất cả chúng ta cùng chiêm nghiệm lại. Vì thế, nên “Thất bại là mẹ thành công”. Nhờ những mâu thuẫn, vô lý ấy mà có rất nhiều điều được “ngộ” ra từ đó. Có ai đảm bảo rằng cái tốt nhất ở thời điểm này vẫn sẽ là cái tốt nhất ở quá trình sau?
Tất nhiên là có không ít những giá trị bị huỷ hoại, nhưng theo tôi, điều quan trọng nhất là nhận thức được giá trị của chúng. Cái tồn tại trong tâm thức mới là vĩnh cửu. Chính thế nên “Văn hoá đòi hỏi sự khoan dung”.

Không ai có thể phụ nhận những đóng góp, những giá trị mà người Thầy đem truyền lại cho các thế hệ học trò. Thời đại nào cũng thế, người Thầy luôn được kính trọng, nghề giáo mãi là nghề cao quý nhất.

***************

Lời cuối, phương pháp học dựa trên sự trao đổi thẳng thắn, cởi mở của Thầy đã “tiếp lửa” cho chúng em để tiếp tục dấn thân vào chặng đường còn nhiều chông gai phía trước. Xin chúc cho những nhà nghiên cứu, những nhà giáo, trong tương lai sẽ rèn luyện không ngừng, nghiên cứu không mệt mỏi, và “may mắn” có dịp “đại ngộ” cùng thế hệ sau.
MaiLacquer
Artist - Lecture (HUBT University)
Hình đại diện của thành viên
MaiLacquer
 
Bài viết: 4
Ngày tham gia: Thứ 2 27/04/09 11:14
Đến từ: Hà Nội
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Trang trướcTrang kế tiếp

Quay về NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến2 khách

cron