GIAO LƯU VỚI GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM
Đã gửi: Thứ 5 11/10/07 11:56
GIAO LƯU VỚI GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM
Giở lại hồ sơ, thấy vào tháng 8 năm 2000, mục "Nhân vật trong tuần” của mạng FPT có mở trang giao lưu với GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm (lúc đó còn là PGS). Nhận thấy những câu hỏi từ góc độ này hay góc độ khác đều thiết thực, hữu ích; còn những câu trả lời thì có giá trị lâu dài, nên chúng tôi quyết định đăng lại toàn văn trang giao lưu đó ở đây như một món quà gửi tới các sinh viên khoá đầu tiên của ngành văn hoá học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Tp. HCM.
Đây cũng sẽ là diễn đàn chính thức dành cho việc nối tiếp cuộc giao lưu ấy. Mong các bạn sinh viên, các anh chị học viên cao học, nghiên cứu sinh, và bạn đọc gần xa gửi tới những câu hỏi, những mối quan tâm của mình. GS. Trần Ngọc Thêm sẵn sàng giải đáp mọi câu hỏi và thắc mắc của các bạn.
Mạng FPT (tháng 8- 2000)
Nhân vật trong tuần:
Phó Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn
Trần Ngọc Thêm
Trần Ngọc Thêm
"ở Việt Nam, với câu hỏi "Đàn Nam Giao là gì?", một phiên dịch viên lâu năm trả lời: "Đó là một loại đàn cổ"! Đưa khách tham quan viện bảo tàng, một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp không trả lời nổi câu hỏi của một khách nước ngoài : "Tại sao các ông vua Việt Nam ngày xưa mặc áo màu vàng?"! Không chỉ trong giao lưu trực tiếp mà cả trong các ấn phẩm đủ loại, ta có thể gặp không ít những "lỗi văn hóa" rất đáng trách... ở các nước công nghiệp tiên tiến, hiện tượng có một số thanh niên không biết tí gì về những nhân vật lịch sử cũng không khá hơn bao nhiêu. Tình hình này dẫn đến những hậu quả rất tai hại, nhất là vào thời điểm khi mà sự liên minh, liên kết quốc tế đang ngày càng mở rộng không ngừng... Theo UNESCO, một trong những nguyên nhân quan trọng của tình hình trên là trong các chương trình phát triển quốc gia cũng như quốc tế của mấy thập kỷ vừa qua, người ta chỉ chú trọng đến các mục tiêu phát triển kinh tế tách rời khỏi môi trường văn hóa, trong khi chính văn hóa mới là yếu tố chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển. Các kế hoạch phát triển không chú ý đến yếu tố văn hóa sớm muộn đều dẫn đến thất bại".
(Trích Lời mở đầu - Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam).
Có lẽ không một sinh viên của bất kỳ trường đại học nào ở Việt Nam lại không biết đến Phó giáo sư Tiến sĩ ngôn ngữ học Trần Ngọc Thêm, bởi ông chính là tác giả của cuốn sách "Cơ sở văn hóa Việt Nam" (Trường ĐHTH TP.HCM in lần đầu năm 1995; NXB GD in nhiều lần những năm sau đó) và "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" (NXB TP.HCM, 1996, 1997) mà trường nào cũng đưa vào giảng dạy cho sinh viên của mình. Bên cạnh đó, giáo sư còn là tác giả của một số tác phẩm như "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt" (NXB KHXHHà Nội, 1985), "Những vấn đề tổ chức ngữ pháp - ngữ nghĩa của văn bản" (Luận án Tiến sĩ, Leningard, 1988)... và nhiều bài nghiên cứu về các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa đăng trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước.
Ông sinh năm 1952 tại Hiền Đa, Sông Thao, Vĩnh Phú.
1974: tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ Toán, Truờng Đại học Tổng hợp Quốc gia Leningard.
1987: Bảo vệ Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn
1988: Bảo vệ thành công Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Leningrad
1991: Được phong Phó Giáo sư
Làm việc tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (1975 - 1992) và từ 1992 đến nay [2000] công tác tại Khoa Đông phương học trường Đại học KHXH&NV TP.HCM.
Say mê văn hóa, luôn tìm tòi nghiên cứu để phát hiện ra những đặc điểm, nguồn gốc của các hiện tượng văn hóa và từ đó duy trì, bảo quản và phát huy truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc ta là ước mong lớn nhất của người thầy - người giảng viên này. Những điều ông nói, ông viết luôn có sức cuốn hút. Càng nghe, càng đọc chúng ta càng thấy được những điều kỳ thú, càng khám phá được những nét đẹp đang toát ra từ vốn cổ của cha ông, cũng như về giá trị của những hiện vật, những di tích và truyền thống được đề cập đến...
Hi vọng rằng chuyên mục của chúng tôi sẽ giúp các bạn phần nào hiểu thêm về nền văn hoá của đất nước mình, về dân tộc mình với truyền thống và bản sắc Việt Nam từ ngàn xưa.
Giao lưu với Phó giáo sư Tiến sĩ
Trần Ngọc Thêm [2000]:
Trần Ngọc Thêm [2000]:
1/ Thầy cho em hỏi: Tại sao gọi là trống đồng Đông Sơn? "Đông Sơn" ở đây nghĩa là gì? Không phải là Đông Sơn ở Thanh Hóa phải không thầy?
(Nguyễn Minh Thanh- Hà Nội, thanh@hotmail.com)
TNT: Đông Sơn trong các cách gọi "Trống Đồng Đông Sơn", "đồ đồng Đông Sơn", "văn hóa Đông Sơn" vốn là tên một huyện ở phía đông-nam tỉnh Thanh Hoá đúng như em đã nghĩ. Tại đây, năm 1924 có một người câu cá đã phát hiện được một số đồ đồng cổ trong lòng đất bên bờ sông Mã - nơi đã bị mưa bão làm sạt lở. Sự kiện đó đã thu hút những người nghiên cứu Pháp đào bới và công bố những kết quả tìm được. Những tài liệu này đã có tiếng vang mạnh mẽ khiến cho thế giới biết đến một thời đại đồng thau ở Bắc và Trung kỳ.
Từ năm 1934, sau công trình nghiên cứu của một người Áo tên là R.Heine Geldern, giới khoa học thế giới bắt đầu sử dụng thuật ngữ "văn hóa Đông Sơn" để chỉ nền văn hóa thời đại kim khí trong cả khu vực từ Vân Nam (Trung Quốc) đến Indonesia mà vùng sông Hồng - sông Mã của Việt Nam là trung tâm. Tại đây, trong khoảng thời gian từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất đến những thế kỷ sau công nguyên, nghề luyện kim, đúc đồng của người xưa đã rất phát triển và đạt trình độ cao. Người ta đã khai quật và tìm thấy hàng trăm di chỉ khảo cổ với vô số hiện vật chủ yếu bằng đồng thau và sắt mà tiêu biểu nhất là các trống đồng, thạp đồng...
Tuy đến đầu thế kỷ XX, thế giới mới biết đến đồ đồng Đông Sơn và văn hóa đồng thau ở Việt Nam, nhưng ông cha ta thì đã biết đến và thu thập các cổ vật bằng đồng từ lâu. Thần tích làng Thượng Lâm (Hà Tây) ghi rằng trong khi Đinh Tiên Hoàng (thế kỷ thứ X) đánh dẹp các sứ quân, đã chú ý thu thập các trống đồng cổ rồi phong tặng cho nhân dân các làng xã để thờ cúng. Nhiều thư tịch cổ các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã ghi chép, miêu tả các đồ đồng cổ như trống đồng, chuông đồng, tượng đồng. Luật Hồng Đức (thế kỷ XV) đã có điều khoản trừng phạt việc lấy cắp hoặc làm hỏng các chuông đồng, tượng đồng cổ.
ở VIệt Nam, không chỉ có địa danh Đông Sơn trở thành thuật ngữ chỉ một nền văn hóa cổ độc đáo được thế giới biết đến, mà địa danh "Hòa Bình" (tỉnh Hòa Bình) cũng được giới khoa học thế giới dùng để chỉ một nền văn hóa khảo cổ thời đại đồ đá tồn tại ở Việt Nam và Đông Nam Á hàng nghìn năm trước công nguyên. Ngoài ra ở Việt Nam còn các nền văn hóa khảo cổ khác như: văn hóa Sơn Vi, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa óc Eo, văn hóa Sa Huỳnh... đều lấy tên các địa danh, nơi lần đầu tiên tìm thấy những di tích đặc thù của giai đoạn văn hóa đó để đặt tên.
2/ Xin Tiến sĩ cho biết hiện trạng nghiên cứu ngữ dụng Văn bản hiện nay của Thế giới? Có thể trao đổi với Tiến sĩ về những vấn đề liên quan đến Văn bản ngoài khuôn khổ phần giao lưu này được không?
(BUI QUANG MINH- minh_vietbit@hotmail.com)
TNT: Trên thế giới, việc nghiên cứu văn bản như một đơn vị ngôn ngữ bắt đầu từ khoảng những năm 40 của thế kỷ XX và được triển khai rầm rộ từ những năm 70-80. Từ đây người ta biết rằng văn bản không chỉ là một tập hợp đơn thuần của những câu "đúng ngữ pháp" mà nó có cấu trúc riêng, với những quy luật cấu tạo và sử dụng riêng. Điều này giải thích tại sao những em học sinh phổ thông viết những câu rất đúng ngữ pháp nhưng cả bài vẫn dở, vẫn sai. Ngược lại trong tác phẩm của những nhà văn, nhà chính luận có chứa nhiều câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ (= câu "què, cụt, sai ngữ pháp" theo cách đánh giá thông thường) mà toàn bài vẫn hay, vẫn đúng. Nó cũng giải thích tại sao nhiều chương trình dịch tự động có thể dịch được các từ, các câu mà khi ghép lại thành văn bản thì lại ngô nghê không hiểu nổi. Đến đây, ta đã động chạm đến những vấn đề chuyên môn hẹp. Bạn có thể liên hệ với tôi qua địa chỉ trannthem@cinet.vnnews.com hoặc trannthem@hotmail.com [đây là những địa chỉ cũ không còn hoạt động - hiện nay xin liên hệ theo địa chỉ: ngocthem@gmail.com] để trao đổi kỹ hơn.
3/ Thưa Thầy, em có một thắc mắc muốn hỏi. Lịch sử phát triển của đất nước là công tiền nhân khai phá và sáng lập từ Mũi Tam Quan và đi dần xuống mũi Cà Mau hiện nay. Em không hiểu tại sao trong nền văn hóa vốn không có nhiều dị biệt như văn hóa Việt Nam lại có cách gọi tên các con sông khác nhau. Tại miền Bắc, Sông Hồng thì gọi là Hồng Hà. Người ta lại gọi là Cửu Long Giang, Tiền Giang,...
(NAM NGUYEN - America, huonggiang@hotmail.com)
TNT: Trước khi nói về tên gọi các con sông Hồng Hà, Cửu Long Giang... tôi muốn cùng em điều chỉnh lại về cách hiểu ở hai điểm.
Thứ nhất là cách nói về vóc dáng của đất nước. Các sách vở trước đây (kể cả sách giáo khoa) thường giới thiệu nước VIệt Nam ta có chiều dài "từ Mục Nam Quan (chứ không phải Mũi Tam Quan) đến mũi Cà Mau". Mục Nam Quan là tên gọi cửa khẩu ở Lạng Sơn. Chữ "quan" có nghĩa là "đóng" (trái với "khai" là "mở"), từ đó "quan" có nghĩa thứ hai là "cửa ải" (dùng trong các cụm từ như “Hải quan”, “bế quan toả cảng”...). Sau khi Việt Nam lập quan hệ ngoại giao với nước Trung Hoa mới (ra đời năm 1949), tên gọi "Mục Nam Quan" đã được đổi thành "Hữu Nghị Quan". Tuy nhiên "Mục Nam Quan" (hay "Hữu Nghị Quan") không phải là điểm cực bắc của Việt Nam. Điểm cực bắc của Việt Nam là xã Lũng Cú thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Cho nên muốn chính xác thì phải nói rằng đất nước Việt Nam trải dài từ Lũng Cú đến mũi Cà Mau.
Thứ hai, em nói rằng nền văn hóa Việt Nam "vốn không có nhiều dị biệt". Điều này đúng nhưng chưa đủ. Đúng bởi vì văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất của người Việt (Kinh) và các dân tộc anh em xuất phát từ một nguồn gốc xa xưa là người Đông Nam Á cổ đại (Indonésien). Nhưng chưa đủ bởi vì thứ nhất, chủng Đông Nam Á cổ đại (Indonésien) trải qua nhiều thời gian đã chia tách ra thành rất nhiều tộc người khác nhau, do vậy giữa tộc người này với tộc người khác tất có nhiều dị biệt; và thứ hai Việt Nam là ngã tư đường, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn hóa trên thế giới (Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây...). Do vậy giữa vùng này với vùng khác, thời này với thời khác, chịu ảnh hưởng của nền hoá này nền văn hóa khác... tất có nhiều dị biệt. Việt Nam không phải là một nền văn hóa "không có nhiều dị biệt" mà là một nền văn hóa có tính thống nhất cao trong sự đa dạng vô cùng tận.
Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung là khu vực có địa hình sông nước cho nên có số lượng sông ngòi nhiều vô kể. Từ cùng một từ có nghĩa là "sông" trong tiếng Đông Nam Á cổ đại đã hình thành nên các từ chỉ sông khác nhau trong các dân tộc khác nhau. Người Việt gọi là "sông". Các dân tộc vùng Tây - Bắc gọi là "sung" (Sung Lung là một phụ lưu của sông Đà, Sung Vang là một phụ lưu của sông Cả), "khung" (Khung Giang, Khung Bích)... Vùng Việt Bắc có tên gọi là "thông" (Lạng Sơn có Thông Lênh, sông Gâm có một phụ lưu là Bảo Li Thông), Tây Nguyên gọi là "k'rông" (k'rông Ana, k'rông Knô...), Người Lào gọi là "kông" (Mê Kông). Vùng Quảng Ninh còn lưu giữ tên gọi "côn" (Côn Tat, côn Nô)... Sung, kung, sông, k'rông, côn... đều là những biến âm khác nhau của từ cùng gốc mà ra cả. Sự đa dạng đó là kết quả của sự chia tách các dân tộc.
Mặt khác, do giao lưu văn hóa mà các dân tộc tuy không cùng gốc nhưng ở gần nhau có thể vay mượn tên gọi của nhau. Người Hán gọi sông là "hà", và người Việt phía Bắc đã mượn thêm từ này để gọi sông Hồng - Hồng Hà. Một con sông có thể có nhiều tên gọi, ứng với những thời kỳ lịch sử khác nhau, những vùng khác nhau mà nó chảy qua. Sông Hồng là một trong những con sông có nhiều tên gọi nhất trên thế giới - khoảng 50 tên gọi. Đoạn chảy qua Trung Quốc có 7 tên gọi, đoạn từ Lào Cai đến Việt Trì có 10 tên gọi, đoạn còn lại có khoảng 30 tên gọi. "Hồng Hà" chỉ là một trong số đó. Trong khi người Việt mượn từ "Hà” của người Hán thì ngược lại người Hán lại mượn từ "kông, kung" của người Đông Nam Á và tạo ra chữ “giang” để thể hiện nó. Đây là một chữ được tạo âm bằng cách ghép bộ chấm thuỷ bên trái để chỉ nghĩa "sông nước' và chữ "công"(phát âm hiện đại là kung) bên phải để chỉ cách phát âm từ này trong ngôn ngữ gốc Đông Nam Á. "Giang" có lẽ là cách phát âm từ thời Hán. Và rồi người Việt cũng lại mượn nốt từ "giang" này mà không biết rằng đó là từ được Hán hóa của từ "kông, sông" mà thôi. Việc giao lưu văn hóa đã đưa từ "giang" lên rất xa về phía Bắc (như Hắc Long Giang, Áp Lục Giang) và ngược lại, chữ "hà" cũng thâm nhập rất sâu xuống phía Nam (Hồng Hà, Nhị Hà). Tuy nhiên, xét về phương diện thống kê, có thể nói rằng ở vùng Hoa Bắc thì chữ "hà" chiếm ưu thế, ở vùng Hoa Nam thì chữ "giang" chiếm ưu thế, còn ở Việt Nam và Đông Nam Á thì "sông", "kông", "k'rông"... mới là cách gọi chiếm ưu thế.
4/ Thưa thầy, trước đây em có vinh dự được học thầy (môn cơ sở văn hóa Việt Nam). Em rất lấy làm ngưỡng mộ và kính phục sự uyên bác của thầy, vì bài giảng của thầy quá thu hút. Vì sao trước đây thầy học ngôn ngữ Toán sau đó lại chuyển sang ngữ văn hả thầy? Thầy nghĩ sao khi bây giờ người ta vẫn cứ đổ xô đi học nào là Công nghệ thông tin, nào là Tiếng Anh, tiếng Nhật, nào là quản trị kinh doanh... Còn những ngành học như của thầy thì vẫn còn rất ít SV theo học. Kể cả em cũng thế, em cũng rất thích quan tâm đến Bản sắc văn hóa Việt Nam, song em cũng theo học về Toán-Tin mà không theo học ngành của thầy chỉ vì sợ không xin được việc làm. Thực ra những người quá giỏi như thầy thì đã nổi tiếng lại càng nổi tiếng chứ một số sinh viên học mà không được giỏi lắm thì biết làm gì sau này? Làm sao để thoát khỏi nỗi ám ảnh về "cơm, áo, gạo, tiền" để mà có thể theo đuổi những gì mình thích hả thầy?
(Nguyen Thi Van Anh - TP.HCM, ntvanh@mathdep.hcmuns.edu.vn)
TNT: Cảm ơn Vân Anh nhiều về sự quan tâm và tin tưởng của em đối với tôi. Song cũng cần nói với em rằng tôi còn rất nhiều điều chưa biết, tôi cũng có những nhược điểm bình thường (thậm chí là tầm thường nữa) của một con người. Giống như mọi người, tôi cũng phải lo toan cuộc sống gia đình với những "cơm, áo, gạo, tiền" bên cạnh việc nghiên cứu, giảng dạy. Có những thời gian, tôi và gia đình đã từng gặp rất nhiều khó khăn, một phần những khó khăn đó tôi đã kể lại trong bài phỏng vấn của tuần báo Sài Gòn Giải Phóng thứ bảy số 460 ra ngày 4-12-1999.
Có lẽ cái chủ yếu giúp tôi thành công là sự kiên trì và lòng say mê với cái mà mình đã chọn. Ngôn ngữ Toán là một bộ môn liên ngành giữa toán học và ngôn ngữ học với mục đích đào tạo ra những chuyên gia làm về dịch máy và đảm bảo ngôn ngữ học cho các hệ thống tự động hóa; ở nước ngoài có trường coi nó là một bộ phận của toán-tin và đặt ở khoa toán-tin, có nơi coi nó là một bộ phận của ngành ngữ văn và đặt nó ở khoa ngữ văn. Sau khi tốt nghiệp đại học Ngôn ngữ Toán ở Liên Xô năm 1974, do trong nước chưa có điều kiện phát triển ngành này nên tôi đã đi sâu hẳn vào ngôn ngữ, và ở tuổi 33, với việc xuất bản cuốn “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” (năm 1985), đã trở thành người đi đầu trong việc mở ra ngành ngữ pháp văn bản và ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam. Mãi tới sau khi bảo vệ xong phó tiến sĩ, rồi tiến sĩ ngữ văn tại Liên Xô vào năm 1987-1988, tôi mới chuyển sang nghiên cứu về văn hoá học và văn hóa Việt Nam.
So với thế hệ tôi thì thanh niên ngày nay quá sướng ở chỗ là cánh cửa vào đời quá rộng mở, tha hồ lựa chọn, tha hồ học. Thời của tôi đâu được tự do học như thế! Ước mơ sau khi tốt nghiệp lớp 10 của tôi là thi vào Đại học Mỹ thuật, nhưng đi học Liên Xô lúc đầu được phân công học ngành Kinh tế lâm nghiệp, một năm sau được phân công lại học ngành "Ngôn ngữ toán" (nghe nói ngành này khó lắm nên lúc đầu cứ nằng nặc làm đơn xin đổi mà không được!). Rồi nhiều năm sau này ngành văn hóa học cũng là do hoàn cảnh đưa đẩy (do Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cho làm Chủ tịch Hội đồng ngữ học và Việt Nam học cho khối ngoại ngữ, điều này tôi đã trình bày trong Lời nói đầu cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam).
Nhưng chính vì độ tự do quá lớn nên lớp trẻ dường như đã bị "bội thực". Thành ra chỉ còn biết học tập theo phong trào, chạy theo một số ngành thời thượng. Làm như thế là tự gây thêm khó khăn cho mình và cho xã hội. Với xã hội thì góp phần gây nên mất cân đối trong đào tạo và nhu cầu việc làm. Với bản thân mình thì không những không chọn được đúng ngành nghề theo sở trường, năng khiếu của mình, mà còn làm giảm cơ hội thành công (em thử tính xem, khả năng thành công và "nổi tiếng" ở một lĩnh vực có rất đông người thấp hơn bao nhiêu lần so với ở lĩnh vực ít người?).
Kinh nghiệm của tôi là không sợ thiếu việc làm, chỉ sợ làm không giỏi. Muốn giỏi thì phải say mê; mà muốn say mê thì phải chuyên tâm. Cứ như nhiều bạn hiện nay đứng núi này trông núi nọ, học hết ngành nọ đến ngành kia, hết trường nọ đến trường kia thì làm sao mà chuyên tâm, làm sao mà say mê, và do vậy làm sao mà giỏi được, cho dù bạn đó rất có năng lực cũng thế.
5/ Thưa phó giáo sư, ông có suy nghĩ gì khi trong các cuộc thi "Đường lên đỉnh Olympia" các thí sinh hầu như biết rất ít về lịch sử, văn hoá Việt Nam trong khi họ hiểu tương đối rõ về các danh nhân, ca sĩ... quốc tế. Phải chăng giới trẻ bây giờ không quan tâm đến nền văn hoá của đất nước?
(VUONG VAN HUONG- Hải Dương, hdscob1053@hn.vnn.vn)
TNT: Không phải chỉ trong cuộc thi "Đường lên đỉnh Olympia", mà trong nhiều cuộc thi và sinh hoạt văn hoá khác, trình độ hiểu biết của nhiều học sinh, sinh viên về lịch sử, văn hoá dân tộc còn rất thấp. Những nhầm lẫn "cười ra nước mắt" kiểu như "Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai người khác nhau", "Trương Định là một trong 108 anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc" có thể kể hoài mà không hết. Tình hình này không chỉ có ở Việt Nam, ở các nước phát triển cũng vậy. Trong Lời nói đầu cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam tôi có kể rằng ở Pháp, 30% thanh niên không biết Victor Hugo là ai. Với câu hỏi "Hitler là ai?", có thanh niên Pháp đã trả lời: "Một nhà văn tên tuổi!". Mà không phải chỉ một vài người, mà có tới trên 50% trả lời trật, 30-40% thì trả lời không biết hoặc không quan tâm. ở Mỹ, có những thanh niên cho rằng cư dân châu Mỹ La-tinh nói tiếng La-tinh, còn Toronto (một thành phố Nam Canada - láng giềng nước Mỹ) thì nằm ở Ý!
Hiện tượng "dốt về lịch sử, văn hóa dân tộc" và "vọng ngoại" trong thanh niên không chỉ là căn bệnh toàn cầu mà có lẽ cũng là căn bệnh của mọi thời đại. Còn nhớ, bản thân tôi, khi mới 20-30 tuổi, rất giỏi ngôn ngữ toán, biết khá nhiều danh họa, diễn viên phương Tây, nhưng về lịch sử và văn hóa dân tộc thì có lẽ là còn kém hơn các em tham gia thi "Đường lên đỉnh Olympia" bây giờ. Và tôi trộm nghĩ cha ông ta và cha ông người ta (= các dân tộc khác) ngày xưa cũng thế.
Đơn giản là vì bản tính của người trẻ là dương tính và hướng ngoại (còn người lớn tuổi là âm tính và hướng nội). Ai cũng có thời trẻ và lúc già. Đã thành quy luật, thời trẻ, con người quan tâm nhiều tới cái mới lạ (như khoa học kỹ thuật), có tâm lý hướng ngoại, đóng góp được nhiều cho việc kiến tạo cái mới (sự phát triển); còn khi lớn tuổi và lúc về già, con người sẽ quan tâm nhiều hơn tới lịch sử, văn hóa, có tâm lý hướng về cội nguồn và đóng góp nhiều cho sự bảo tồn bản sắc dân tộc.
Nhưng nói vậy không có nghĩa là nên khoanh tay chờ lớn tuổi. Không ít em tuổi còn trẻ mà đã có hiểu biết rất sâu sắc về lịch sử, văn hóa dân tộc. Muốn vậy, một phần các em cần chú ý tìm hiểu, học hỏi, ghi nhớ những kiến thức này, nhưng phần khác còn là trách nhiệm của người lớn phải biết khêu gợi được trí tò mò, sự hứng thú ở các em trong việc tìm hiểu. Việc đào tạo các môn khoa học xã hội ở trường học hiện nay nhìn chung còn kém hấp dẫn. Sách giáo khoa, sách tham khảo còn đơn điệu, chưa sinh động. Các hoạt động tuyên truyền chưa được đầu tư đúng mức, đúng chỗ. Gần đây, một số báo, đài, một số chương trình TV đã mở được các chuyên mục về văn hoá khá hấp dẫn, nhưng cũng cần mở rộng hơn nữa và kết quả chắc cũng phải từ từ, không phải một sớm một chiều mà thấy ngay được.
6/ Kính thưa Tiến sĩ, là một người chuyên ngành về kinh tế nên tôi mong muốn được hiểu biết thêm những vấn đề liên quan đến lịch sử - văn hoá với sự phát triển của một đất nước. Vậy xin hỏi Tiến sĩ, giữa phát triển và văn hoá có mối quan hệ như thế nào, cái nào quyết định cái nào, có gì ngoại lệ đối với những nước Á Đông như Việt Nam ta không. Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ.
(DANG HUU HOANG- Ha Noi, danghhoang@yahoo.com)
TNT: Mối quan hệ giữa phát triển và văn hóa phụ thuộc vào cách hiểu thế nào là "văn hóa" và thế nào là "phát triển".
Các nước phương Tây và phương Bắc trước đây thường chỉ đánh giá chỉ số phát triển theo GDP bình quân đầu người, do vậy coi kinh tế, khoa học và công nghệ là những yếu tố quyết định toàn bộ sự phát triển; các giá trị văn hóa, tinh thần, xã hội bị bỏ qua, hậu quả là dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng ở nhiều nơi về lối sống, đạo đức, nhân phẩm, tình người, tạo ra những người giàu không lý tưởng và những người nghèo không gốc rễ; những yếu tố này tác động trở lại, khiến kinh tế lâm vào khủng hoảng, làm cho phát triển bị trì trệ.
Quan niệm phổ biến hiện nay coi văn hóa là một khái niệm rộng, bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần, hoạt động và sản phẩm của hoạt động, v.v. và phát triển là sự đi lên cân đối, hài hòa và bền vững, đem lại hạnh phúc đích thực cho cộng đồng. Văn hóa luôn mang tính nhân bản, luôn quan tâm đến con người và hạnh phúc của con người; mà muốn hạnh phúc thì cần phát triển, cho nên văn hóa là cái quyết định phát triển, là động lực của sự phát triển. Mặt khác, mục đích của phát triển là tạo ra một xã hội có văn hóa cao - đó là khát vọng và lý tưởng mà nhân loại xưa nay hướng tới. Việc văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển không chỉ là một quy luật mang tính phổ quát, không có ngoại lệ đối với các nước Á Đông mà, hơn thế, các nước phương Nam và phương Đông xưa nay vốn đã luôn quan niệm như vậy rồi; ở đây yếu tố con người luôn được coi trọng, cái dở chính là ở chỗ nó dẫn đến sự thiên lệch, một thời gian dài coi nhẹ vật chất, kỹ thuật.
7/ Thưa thầy, lĩnh vực quan tâm nhất của thầy là gì? Thầy có dự định gì trong thời gian sắp tới như tái bản hoặc xuất bản những sách nghiên cứu về văn hóa Việt Nam...
(Hoangtruc@fptnet.com)
TNT: Các lĩnh vực quan tâm của tôi là ngôn ngữ và văn hoá. Về ngôn ngữ, đóng góp chủ yếu của tôi là đã mở đầu cho việc xây dựng một ngành ngữ pháp văn bản ở Việt Nam, với những công trình công bố rải rác từ năm 1980 và tập trung nhất là cuốn "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt" xuất bản lần đầu năm 1985 ở NXB Khoa học xã hội (tái bản năm 1998 ở NXB Giáo dục), sau đó là luận văn tiến sĩ "Những vấn đề tổ chức ngữ nghĩa - ngữ pháp của văn bản" bảo vệ ở Nga năm 1988 (mà đáng tiếc - và đáng trách - là tôi chưa có thời gian dịch nó ra tiếng Việt).
Về văn hoá, năm 1995 tôi cơ bản hoàn thành cuốn sách "Cơ sở văn hoá Việt Nam". Song cuốn sách này mang tính nước đôi, nửa nghiên cứu, nửa giáo trình. Để tránh những hiểu lầm không đáng có, sau đó tôi đã đi theo hai hướng. Một là rút gọn những kết quả nghiên cứu cá nhân, những phần còn tranh luận, đơn giản hoá thành giáo trình "Cơ sở văn hoá Việt Nam" in tại nhà xuất bản Giáo dục. Hai là bổ sung, mở rộng, chi tiết hoá thành cuốn sách "Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam", cuốn này đã in tại nhà xuất bản TP. HCM năm 1996, 1997, hiện nay đang được sửa chữa, bổ sung khá nhiều và sẽ tái bản trong thời gian gần nhất. Trong thời gian tới, tôi có kế hoạch hoàn thành một số công trình chuyên sâu về văn hoá học đại cương, văn hóa Việt Nam và ngôn ngữ mà tôi đã có sẵn hoặc đã chuẩn bị tư liệu từ lâu nay. Nhưng, khác với một số người, tôi có tật xấu là viết cái gì thì thường viết rất lâu, và có thói quen giữ bí mật tên gọi cụ thể và tầm cỡ lớn nhỏ của các công trình này cho tới khi chúng hoàn thành. Cho nên phiền bạn chịu khó chờ đợi thêm một thời gian nữa.
8/ Thưa thầy, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì văn hóa đóng vai trò như thế nào? Có những đặc điểm văn hóa nào mà chúng ta có thể vận dụng vào công cuộc phát triển đất nước?
(ngochancc@hcm.fpt.vn)
TNT: Về vấn đề bạn ngochancc@hcm.fpt.vn quan tâm, tôi đã dành riêng một tiểu mục nhan đề "Văn hoá cổ truyền đứng trước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá" ( 27.2) trong cuốn sách "Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam"; nội dung này cũng đã đăng trong Tạp chí Cộng sản số 16 (484) với nhan đề: "Văn hoá Việt Nam đối mặt với kinh tế thị trường". Trong đó, tôi phân tích khá cụ thể những yếu tố "được", "mất", thuận lợi, khó khăn của văn hoá Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Nhìn chung, người Việt Nam có lối sống linh hoạt, mềm dẻo, lối tư duy tổng hợp. Đây là nét đặc tính rất thuận lợi, nên phát huy. Còn những khó khăn thì khá nhiều, đó là tính tùy tiện, cách làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ, gia đình chủ nghĩa, xuề xoà đại khái, đố kỵ cào bằng, tác phong đủng đỉnh, lối sống kiểu "phép vua thua lệ làng".
9/ Khi xem phim của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc người ta thường thấy gần gũi với cuộc sống của người Việt Nam, một số điều gần như giống hệt. Vậy có sự tương đồng về văn hóa giữa các dân tộc này với dân tộc Việt không? Và văn hóa Việt Nam có phải là một bộ phận của nền văn hóa Trung Hoa không?
(Dan@sg.fpt.vn)
TNT: Nếu nói rằng xem phim thấy người Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc có phong cách giống hệt người Việt Nam thì có lẽ là năng lực quan sát của bạn (và những bạn có nhận xét như vậy) chưa được tinh lắm. Hiển nhiên là người Việt Nam xem phim các nước này thì sẽ cảm thấy gần gũi hơn rất nhiều so với phim phương Tây, nhưng chỉ là "gần gũi" chứ không thể nào là "giống hệt". Phần đông mọi người xem phim Hàn Quốc, tiếp xúc với người Hàn Quốc đều nhận thấy những nét khác biệt nổi bật của người Hàn Quốc như tính mạnh mẽ, quyết đoán, ưa dùng vũ lực, hay uống rượu, coi thường phụ nữ, ở người Nhật thì nét khác biệt nổi bật là lòng trung thành và ý thức về nghĩa vụ (với chủ, với công ty) kiểu võ sĩ đạo. Còn người Hoa thì chỉ cần so sánh ngay với khối người Hoa đã định cư ở Việt Nam lâu năm – như người Hoa ở Chợ Lớn - đã thấy ngay là có sự khác biệt đáng kể rồi.
Hiển nhiên là trong lịch sử, do điều kiện giao lưu văn hóa đặc biệt, Việt Nam đã tiếp thu rất nhiều từ văn hóa Trung Hoa, nhưng nhờ có cái nền văn hóa Văn Lang - Âu Lạc rất vững vàng, nên Trung Hoa đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Bản thân sự trường tồn của dân tộc Việt Nam và văn hóa Việt Nam đã là một bằng chứng hiển nhiên nhất cho thấy rằng văn hóa Việt Nam không phải là một bộ phận của văn hóa Trung Hoa. Nếu không phải là một bộ phận của văn hóa Trung Hoa thì văn hóa Việt Nam khác văn hóa Trung Hoa ở những điểm nào? Các sách của tôi về văn hóa (như “Cơ sở văn hóa Việt Nam” và “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”) chính là lời giải đáp cụ thể cho câu hỏi này (x. ví dụ mục 27.1.4 trong sách “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”).
Còn về mức độ ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa thì không hẳn là phía Bắc chịu ảnh hưởng nhiều hơn phía Nam, lại càng không đúng khi nói rằng văn hóa phương Nam mới đích thực là văn hóa Việt Nam thuần tuý. Về nguyên tắc mà nói thì đúng là phía Bắc gần Trung Hoa hơn nên sẽ phải chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nhiều hơn, nhưng như chúng ta đều biết, người Việt (Kinh) ở phía Nam lại chính là người Việt (Kinh) ở miền Trung và miền Bắc di cư vào cách đây mới chừng ba thế kỷ, khi vào khai phá miền Nam, hiển nhiên là cha ông ta đã mang theo cả truyền thống văn hóa từ ngàn xưa lẫn những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mà các cụ đã tiếp thu. Những nét khác biệt văn hóa mà ta thấy có giữa người Việt (Kinh) phía Bắc với người Việt (Kinh) phía Nam hiện nay thì không phải là do chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nhiều hay ít mà là do sự khác biệt về môi trường sống cộng với mức độ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây (phía Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây nhiều hơn). Sự khác biệt rõ rệt về mức độ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa bộc lộ không phải giữa các vùng mà là giữa các dân tộc. Trong số các dân tộc Việt Nam, người Việt (Kinh) do sống ở đồng bằng và đô thị nên tiếp xúc với người Trung Hoa nhiều hơn, và do vậy, cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nhiều hơn các dân tộc ít người. Và vì các dân tộc ít người không có sự di chuyển từ Bắc vào Nam cho nên, trong số các dân tộc ít người thì các dân tộc ít người ở các vùng núi phía Bắc ít nhiều có bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa chứ còn các dân tộc ít người ở phía Nam thì hầu như hoàn toàn không bị văn hóa Trung Hoa tác động.
Xin chân thành cảm ơn Phó Giáo sư Tiến sĩ khoa học Ngữ văn Trần Ngọc Thêm.