giomat viết: "em cũng rất thích chuyện Tấm Cám nên từ nhỏ em cứ cho là cách thể hiện của truyện như thế mới đúng kiểu Việt Nam..."
Bạn có thể tìm hiểu thêm Thông diễn học của GS.TS Trần Văn Đoàn từ trang:
http://www.dunglac.net.
Ý nghĩa ở đây của mình muốn nhắn các bạn hãy cố gắng tìm đến ngọn nguồn của sự vật, hiện tượng. Sau khi đọc và hiểu TDH, bạn thử diễn giải một câu vè như bạn nói: "...đúng kiểu Việt Nam..." bằng triết lý âm dương, tam tài và ngũ hành. Bạn cũng có thể tìm hiểu thêm các bài viết đại loại như thế một số câu chuyện cổ tích, vè... trong tạp chí Văn hoá dân gian từ những năm 1982 đến nay.
Mình có thể dẫn một trong những bài viết qua câu chuyện Chú Cuội.
Trong chuyện Chú Cuội, vấn đề được đặt ra ở đây là giải thích:
"... +Bốn con hổ
+Cầm Rìu (đập chết cả bốn)
+Phía bờ suối ở bên trái
+Cây Đa
+Cây hồi sinh
+Đái bên Tây, đừng đái bên Đông
+Cuôi ngồi gốc Đa ở mãi cung trăng
Những câu và cụm từ nầy cần đặt câu hỏi đối ngược : tại sao là hổ mà không là chồn hay sói ? tại sao đập chết bốn con hổ bằng rìu ? có nghỉa gì khi chỉ định hổ đi về phía bờ suối bên trái ? tại sao là cây đa mà không là cây gì khác ? tại sao gọi là cây hồi sinh ? có ý gì mà phân biệt bên Tây, bên Đông ? tại sao lại đặt hình tượng Cuội ngồi gốc Cây Đa ở mãi Cung Trăng ?! Cả 7 điểm ẩn dụ nầy được diễn giải như sau :
Bốn hổ con : Theo cổ sử Tàu, vào khoảng năm 2697 trước công nguyên [TCN] bộ tộc Hữu Hùng, tộc trưởng là Hiên-Viên đánh chiếm miền trung lưu sông Hoàng Hà [vùng Sơn Tây, Hà Nam thuộc Trung Quốc ngày nay]. Diệt được Xuy-Vưu tộc Cửu-Lê, thắng được Viêm Đế, Du-Võng [họ Thần-Nông, Viêm tộc], Hiên-Viên tức hiệu Hoàng Đế [Hoa tộc] ... Cổ sử Tàu có kể, lúc bấy giờ bộ tộc Hiên-Viên dùng biểu tượng là Hổ, và có sự trợ giúp của 4 bộ tộc liên minh : Hổ, Báo, Hùm, Bi . Trong chuyện Cuội Cung Trăng hài ra hổ mẹ có đến bốn hổ con, là ý chỉ định bộ lạc Hữu Hùng và 4 bộ lạc nêu trên .
Cuội cầm rìu đập chết cả bốn hổ con : Chữ Nho cổ viết, từ Việt có tượng hình rìu lưỡi cong nằm phía dưới bộ Mễ. Về sau chữ hán việt viết lại thành bộ Tẫu [vượt] . Ý nghỉa của điểm 2 nầy, chiếc rìu là biểu tượng tộc Việt, tộc Việt đã đập chết bốn con hổ, nhờ có hổ mẹ mớm lá đa 4 hổ con sống lại. Ngụ ý là bộ tộc chiếm cư biết cách tiếp nhận văn hóa nông nghiệp của bộ tộc Bách Việt cho cuộc sống, nên các bộ lạc liên minh nầy mới được sống tốt. Nói cách khác, bộ tộc Bách Việt đã dùng văn hóa của mình mà đồng hóa ngược lại các bộ tộc chiếm cư.
Phía bờ suối bên trái : Suối có nước, tượng là "đất nước", ở bên trái của chủ thể nước là "tả nhậm" [bên trái] có nghỉa là "trọng Văn" và tôn "Thị tộc" [mẫu hệ]. Phong tục văn hóa Việt cổ trọng Văn và tôn Thị tộc, tục lệ nầy được lưu truyền, như dùng chữ Văn cho nam, dùng chữ Thị cho nữ để làm chữ lót cho tên họ dân Việt lưu truyền mãi đến nay đã thành định chế. Thành ngữ có câu "Tả Quân Sư, Hữu Thừa Tướng", tả phái là Văn, hữu phái là Võ cũng từ qui chế nầy mà ra.
Cây Đa : Đặc trưng Cây Đa văn chương đã viết như sau, Chim ăn trái, rơi hột ở cháng ba cây, hột nẩy mầm tăng trưởng, rễ thòng xuống đến hàng trăm [Bách rễ] . Phần rễ lộ thiên làm thân, phần rễ ăn vào lòng đất làm thành rễ con, rễ cái. Cây Đa sống tươi tốt ở vùng khí hậu ấm và nóng. Nên so với Trung Nguyên nước Tàu là vùng phía Đông và phía Nam . Hiện tượng trời sinh cây Đa, rễ gốc lẩn rễ nhánh từ lưng chừng chạm đất. Đất dưỡng khi rễ Đa tiếp xúc. Phần bách rễ lộ thiên thì dùng làm thân. Tổng hợp những ẩn tính tốt đẹp nầy, tổ tiên chúng ta dùng Cây Đa làm biểu tượng cho "Tộc Bách Việt" .
Cây hồi sinh : Nguyên văn, "Cuội chỉ nhai một ít lá Đa mớm cho là y như sống lại. " Đại ý nói : Con cháu Việt lạc gốc, lệnh nguồn, không chổ dựa cho tâm linh, sống thiếu định hướng, do đó mà "bệnh cùng tâm loạn" phải dùng lá đa mà chữa trị . Lá đa là kết tinh nguồn lực căn cội, mà căn cội của Cây Đa là tượng trưng cho Bách Việt, tất nhiên với tinh hoa nầy sẽ giải được mù mờ, sẽ khơi rõ gốc rễ cội nguồn mình, được vậy thì cuộc sống con người mình nhận cội thấy nguồn, đương nhiên được hưng khởi và phấn chấn lên mà tái sinh trở lại .
"Có đái thì đái bên Tây, đừng đái bên Đông, cây dông lên trời" : Trước thời Tần Hán [TCN] danh gọi lãnh địa nước tàu của thời nầy là Trung Bang hay Trung Nguyên, còn 4 phía giáp ranh, người Tàu gọi là Tứ Hung như sau : Tây là Tây Nhung, Bắc là Bắc Dịch, Đông là Đông Di, và Nam là Nam Man. Di và Man là Tộc Bách Việt dời cư sau ngày bị lấn chiếm. Tổ tiên tiền nhân ta mượn lời Cuội dặn vợ, "Có làm ô uế thì làm bên Tây, chớ làm ô uế bên Đông vì đó là Quê Cha Đất Tổ của mình" .
Cuội ngồi gốc Đa ở mãi cung trăng : Hình tượng thật thảm thương "Cuội ôm gốc Đa mà sống, vì rễ không sâu để bám được đất, Đa không lá thì lấy đâu mà làm thuốc hồi sinh" . Cứ mỗi ngày vọng (ngày rằm trăng tròn), ngày 15 âm lịch mỗi tháng, Cuội trông về Quê Mẹ tưởng nguồn nhớ cội, Cuội mơ có ngày về lại trần gian !!!..."
nguồn:
http://209.85.175.104/5nam.ttvnol.com/Phutho/Chúc bạn thành công!