HARVARD XA MÀ GẦN
Đã gửi: Thứ 2 29/10/07 9:19
Massachusetts 28/10/2007
Vậy là tôi đã đặt chân đến trường đại học Harvard hơn hai tháng rồi. Khoảng thời gian ấy chưa đủ dài để bất cứ ai có thể cảm thụ hết về ngôi trường danh tiếng nhưng mới mẻ này. Thôi thì những điều nghe thấy được trong khoảng hai tháng qua cũng có thể đã là một phần của kỷ niệm đẹp, tại sao mình không chia sẻ với mọi người nhỉ?
Harvard xa…
Đường đến Harvard quả thật đầy chông gai. Cầm thông báo đạt học bổng trong tay sau kỳ phỏng vấn gay gắt mà bụng vừa mừng vừa lo. Mừng vì rồi đây mình sẽ đặt chân đến Mỹ, sẽ được cắp sách đến giảng đường Harvard - một giấc mơ trong suốt thời sinh viên và cả sau đó nữa của mình. Lo là vì mình nghe thấy rằng việc học tập tại Harvard chắc hẳn sẽ đòi hỏi nhiều yêu cầu cao lắm; và không biết mình có “bằng anh bằng em” hay không; và còn visa nữa chứ!
Rồi thì thời hẹn phỏng vấn visa cũng đến. Trời ạ! Mình phải chờ cả ngày dưới cái nắng Sài Gòn đổ lửa để xếp hàng nộp hồ sơ. Đã thế lại phải mất thêm nửa ngày nữa để phỏng vấn. Những giây phút cẳng thẳng lúc phỏng vấn cũng qua đi khi cô nhân viên lãnh sự gật đầu “Congratulation and hope you have great time in Harvard!” (Chúc mừng và chúc anh sẽ có thời gian thật tuyệt vời tại Harvard).
Harvard vẫn xa…
Chưa bao giờ đến Mỹ nên trong tôi hình ảnh nước Mỹ cứ là một thứ bất định. Rồi nhà ở thì sao? Nghe nói phải đến 600 đô chí ít. Còn ăn uống thì sao? Nghe nói Boston là thành phố đắt đỏ lắm. Còn đi lại nữa? Vân vân và vân vân, hàng loạt câu hỏi cứ hiện ra trong đầu.
Song, tôi vẫn tin một điều, dù biết rằng ít có người tin như thế “điều gì chưa biết thì đừng cho là khó!”. Và cứ thế, tôi nhận ra rằng, niềm tin ấy của tôi không sai, chí ít cũng là lần này.
Harvard gần…
Lần đầu tiên đặt chân vào cổng trường Harvard quả thật tôi thấy hơi sốc. Sao Harvard bé thế? Sao Harvard bình thường thế? Sao Harvard lặng lẽ thế? Biết trả lời sao khi tôi đã từng đặt chân đến các trường đại học lớn ở châu Á như Đại học Quốc gia Singapore, Đại học Malayu, Đại học Trung Sơn, Đại học Bắc Kinh, Đại học Chulalongkorn… tất cả đều hoành tráng, tất cả đều hào nhoáng. Harvard thì không thế. Harvard tĩnh lặng như nó đã từng tĩnh lặng suốt mấy trăm năm qua. Harvard bé ư? Không, Harvard không tập trung vào một nơi mà tản mát ra nhiều cụm xa gần. Tĩnh lặng ở bề ngoài nhưng không giấu được cái sôi nổi học thuật bên trong. Cái bình thường bên ngoài không đủ để người ta đánh lờ cái đặc biệt bên trong. Ngay trong những dãy phòng học xây bằng gạch-và-chỉ-gạch-mà-thôi màu nâu sậm này, đã có rất nhiều, rất nhiều nhân tài khắp thế giới từng mài nhẵn đũng quần ở đó. Harvard tĩnh lặng cũng phải, bởi lẽ con số 100 thư viện lớn nhỏ tại trường đã ngày đêm chia sẻ sự có mặt của sinh viên, nghiên cứu sinh từ khắp năm châu. Harvard là vậy đó, cái bình thường bên ngoài như thể to son thêm cho cái phi thường bên trong mà không phải trường đại học nào cung có được.
Tôi đến Harvard với vai trò nghiên cứu sinh thực tập tại Viện Yenching thuộc Đại học Harvard. Cùng với tôi còn có hai người nữa từ Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội, một phó giáo sư và một nghiên cứu sinh thực tập như tôi. Văn phòng Viện Yenching nằm trong khuôn viên trường, chỉ vài trăm bước để đến hầu hết các thư viện chuyên ngành. Tại đây, tôi có bàn làm việc riêng, có đầy đủ tiện nghi để tiến hành công việc nghiên cứu. Tôi nhận ra rằng, tại Harvard, thời gian dường như bị ai đó rút ngắn đi trong sự tiếc nuối. Một ngày làm việc của tôi – và hình như của hầu hết nghiên cứu sinh thực tập như tôi – bắt đầu từ 8 giờ rưỡi sáng. Đó là thời điểm tất cả các chuyến xe buýt, xe điện ngầm quanh Harvard đều bận rộn với công việc của mình. Mọi người đến lớp. Tiếng giảng bài vang lên, chen vào đó là tiếng sinh viên thảo luận hay đặt câu hỏi. Tại Harvard này, tuần đầu tiên mỗi học kì được đặt một cái tên rất ngộ nghĩnh - “tuần shopping”, sinh viên đi dạo các phòng học để chọn thầy và chọn môn học. Tôi cũng “shop” như mọi người, và cuối cùng chọn được 4 thầy. Nói đúng hơn là tôi chọn 4 môn học vì là kẻ mới đến nên không thể có kinh nghiệm “chọn thầy”. Vả lại có nhiều thầy mình muốn chọn nhưng các thầy không có lớp trong học kì này.
Lớp học tại Harvard không quá đông, trừ những trường hợp giáo viên được sinh viên chọn nhiều sau tuần shopping. Lớp nào cũng có trợ giảng, có lớp đến 2-3 trợ giảng như thế. Trợ giảng đến lớp trước để điểm danh (nếu có), gắn máy móc – thiết bị giảng dạy và ổn định lớp. Năm phút sau, giảng viên vào. Quái lạ, nhìn đi nhìn lại thì chỉ có mỗi mình mình đứng dậy chào. Sinh viên Harvard không làm như thế, họ cứ ngồi yên như không có chuyện gì. Thi thoảng lại có một vài sinh viên đi trễ bước vào mà chẳng cần chào thầy giáo lấy một tiếng. Thú thật, trong các buổi lên lớp của mình, nếu có sinh viên như thế tôi đã phải ngừng dạy trong vài phút để vị sinh viên ấy nhận ra “điều chưa hay” ấy. Nhưng tại Harvard, tôi tự an ủi: người Mỹ mà! Lại nữa, mùi gì thế? Hình như là mùi sandwich trộn lẫn với mùi thịt hộp! Trời ạ, cả một rừng mồm đang nhấm nháp bữa ăn sáng (cứ cho là ăn sáng) cứ mặc cho thầy giáo thu hết năng lượng của mình để giảng bài. Tuy vậy, bạn đừng nghĩ rằng cánh sinh viên đang “luyện mồm kia” không nắm được bài. Hình như họ vận dụng hầu hết các giác quan tự có của mình trong lớp học! Người Mỹ mà!
Giảng viên giảng bài khá sinh động nhờ vào kiến thức rộng, kỹ thuật hỗ trợ tiên tiến và đặc biệt là kỹ năng giảng dạy tốt. Trong lúc giảng viên giảng bài, sinh viên có bất kỳ câu hỏi nào có liên quan thì giơ tay lên hỏi. Thầy giáo giải đáp nhiệt tình các câu hỏi, miệng không ngớt khen ngợi sinh viên đặt câu hỏi hay (dù chỉ là câu hỏi vặt) để khuyến khích sinh viên hỏi tiếp. Có thầy giáo quá say sưa giảng, cắm cúi vào máy tính hay trên bảng đen nên hàng loạt cánh tay sinh viên giơ lên có cao đến mấy nhưng cũng chẳng lọt vào mắt thầy! Nội dung giảng dạy chỉ mang tính tổng hợp, vì tài liệu của môn học đã được chuyển vào hộp e-mail của mỗi sinh viên từ vài tuần trước rồi. Nói như thế để bạn hình dung vì sao sinh viên đến lớp với những mẩu sandwich hay thịt hộp trong cặp!
Harvard càng gần..
Thư viện tại Harvard tập trung khá nhiều đầu sách khắp thế giới, trong đó có hơn 15.000 đầu sách tiếng Việt. To nhất có lẽ là thư viện Widener tại trung tâm. Thư viện này có quá nhiều phòng chứa sách, phòng đọc sách mà tôi đã không ít lần đi lạc. Các thư viện thường có sẵn máy photocopy, máy tra mạng và máy scan phục vụ sinh viên. Riêng tôi, tôi khoái nhất là máy scan. Cũng phải thôi, khi mà giá sách quá đắt đỏ, lại nữa có mua sách nhiều cũng khó mà mang về được, nên scan vẫn là giải pháp tối ưu. Thế là bọn nghiên cứu sinh chúng tôi phân công nhau đeo bám các thư viện, chính xác là đeo bám các máy scan để scan tài liệu. Tôi thì hầu như ngày nào cũng đến “chào xã giao” các bác thủ thư tại thư viện Yenching để mong các bác không phàn nàn về việc “sao lại có người cắm mũi vào chiếc máy scan hàng giờ liền như thế!”. Sách tìm được ở bất cứ thư viện nào cứ phải vào Yenching scan cái đã. Sáng thì đến lớp, trưa ở văn phòng viết lách, tối lại tranh thủ đến thư viện… Một ngày tại Harvard là thế. Được cái là các bác thủ thư tại thư viện mãi rồi cũng quen, chào hỏi rôm rả, có vị còn đáp lại tình cảm của tôi bằng câu hỏi tiếng Việt chưa kịp sành sỏi “Chào anh? Anh khỏe “hôn”? hay “Com on” (cám ơn) đại loại…
Harvard học, học và học…
Bạn đừng bao giờ quá cứng nhắc với kế hoạch làm việc trong ngày của mình tại Harvard vì như thế sẽ đánh mất nhiều cơ hội học tập quý báu. Hầu như không ngày nào Harvard không tổ chức hội thảo hay các buổi nói chuyện chuyên đề, mà đâu phải lúc nào mình cũng nắm bắt được hết thông tin. Bọn nghiên cứu sinh chúng tôi rỉ tai nhau, thế là cả bọn cùng kéo đến nghe. Có lúc hội thảo, buổi nói chuyện tổ chức trong một căn phòng bé xíu, người cuối cùng trong bọn tôi vào phòng coi như kín. Ban đầu thì còn lựa chọn chủ đề báo cáo phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu thì mới đi, lâu dần hầu như ngày nào cũng đi. Cũng phải, diễn giả đều là các học giả nổi tiếng khắp thế giới cả, có khi nội dung báo cáo của họ là thành quả nghiên cứu đầy tâm huyết, có khi là cả đời họ, không đi nghe thì quả là điều đáng tiếc.
Thế nhưng, nếu tại Harvard mà chỉ có thế thì rõ là phí. Bằng cách này hay cách khác, tôi tìm cho ra cơ hội để được hẹn gặp với các giáo sư cần thiết. Rồi thì những cuộc gặp gỡ rôm rả thường xuyên hơn, nội dung trao đổi càng nhiều hơn, danh sách câu hỏi tôi vạch ra để hỏi càng dài hơn.
Ấy chết! Đã gần 9 giờ đêm rồi còn gì, tôi phải về nhà thôi. Hôm nay dự báo thời tiết nói nhiệt độ bên ngoài là 40 độ F (khoảng 5độ C), lại có mưa phùn. Không khéo có khi đêm nay phải ở lại ngủ trong phòng làm việc mất thôi!
NGUYỄN NGỌC THƠ
NCS Khóa 1 Ngành Văn hóa học
Vậy là tôi đã đặt chân đến trường đại học Harvard hơn hai tháng rồi. Khoảng thời gian ấy chưa đủ dài để bất cứ ai có thể cảm thụ hết về ngôi trường danh tiếng nhưng mới mẻ này. Thôi thì những điều nghe thấy được trong khoảng hai tháng qua cũng có thể đã là một phần của kỷ niệm đẹp, tại sao mình không chia sẻ với mọi người nhỉ?
Harvard xa…
Đường đến Harvard quả thật đầy chông gai. Cầm thông báo đạt học bổng trong tay sau kỳ phỏng vấn gay gắt mà bụng vừa mừng vừa lo. Mừng vì rồi đây mình sẽ đặt chân đến Mỹ, sẽ được cắp sách đến giảng đường Harvard - một giấc mơ trong suốt thời sinh viên và cả sau đó nữa của mình. Lo là vì mình nghe thấy rằng việc học tập tại Harvard chắc hẳn sẽ đòi hỏi nhiều yêu cầu cao lắm; và không biết mình có “bằng anh bằng em” hay không; và còn visa nữa chứ!
Rồi thì thời hẹn phỏng vấn visa cũng đến. Trời ạ! Mình phải chờ cả ngày dưới cái nắng Sài Gòn đổ lửa để xếp hàng nộp hồ sơ. Đã thế lại phải mất thêm nửa ngày nữa để phỏng vấn. Những giây phút cẳng thẳng lúc phỏng vấn cũng qua đi khi cô nhân viên lãnh sự gật đầu “Congratulation and hope you have great time in Harvard!” (Chúc mừng và chúc anh sẽ có thời gian thật tuyệt vời tại Harvard).
Harvard vẫn xa…
Chưa bao giờ đến Mỹ nên trong tôi hình ảnh nước Mỹ cứ là một thứ bất định. Rồi nhà ở thì sao? Nghe nói phải đến 600 đô chí ít. Còn ăn uống thì sao? Nghe nói Boston là thành phố đắt đỏ lắm. Còn đi lại nữa? Vân vân và vân vân, hàng loạt câu hỏi cứ hiện ra trong đầu.
Song, tôi vẫn tin một điều, dù biết rằng ít có người tin như thế “điều gì chưa biết thì đừng cho là khó!”. Và cứ thế, tôi nhận ra rằng, niềm tin ấy của tôi không sai, chí ít cũng là lần này.
Harvard gần…
Lần đầu tiên đặt chân vào cổng trường Harvard quả thật tôi thấy hơi sốc. Sao Harvard bé thế? Sao Harvard bình thường thế? Sao Harvard lặng lẽ thế? Biết trả lời sao khi tôi đã từng đặt chân đến các trường đại học lớn ở châu Á như Đại học Quốc gia Singapore, Đại học Malayu, Đại học Trung Sơn, Đại học Bắc Kinh, Đại học Chulalongkorn… tất cả đều hoành tráng, tất cả đều hào nhoáng. Harvard thì không thế. Harvard tĩnh lặng như nó đã từng tĩnh lặng suốt mấy trăm năm qua. Harvard bé ư? Không, Harvard không tập trung vào một nơi mà tản mát ra nhiều cụm xa gần. Tĩnh lặng ở bề ngoài nhưng không giấu được cái sôi nổi học thuật bên trong. Cái bình thường bên ngoài không đủ để người ta đánh lờ cái đặc biệt bên trong. Ngay trong những dãy phòng học xây bằng gạch-và-chỉ-gạch-mà-thôi màu nâu sậm này, đã có rất nhiều, rất nhiều nhân tài khắp thế giới từng mài nhẵn đũng quần ở đó. Harvard tĩnh lặng cũng phải, bởi lẽ con số 100 thư viện lớn nhỏ tại trường đã ngày đêm chia sẻ sự có mặt của sinh viên, nghiên cứu sinh từ khắp năm châu. Harvard là vậy đó, cái bình thường bên ngoài như thể to son thêm cho cái phi thường bên trong mà không phải trường đại học nào cung có được.
Tôi đến Harvard với vai trò nghiên cứu sinh thực tập tại Viện Yenching thuộc Đại học Harvard. Cùng với tôi còn có hai người nữa từ Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội, một phó giáo sư và một nghiên cứu sinh thực tập như tôi. Văn phòng Viện Yenching nằm trong khuôn viên trường, chỉ vài trăm bước để đến hầu hết các thư viện chuyên ngành. Tại đây, tôi có bàn làm việc riêng, có đầy đủ tiện nghi để tiến hành công việc nghiên cứu. Tôi nhận ra rằng, tại Harvard, thời gian dường như bị ai đó rút ngắn đi trong sự tiếc nuối. Một ngày làm việc của tôi – và hình như của hầu hết nghiên cứu sinh thực tập như tôi – bắt đầu từ 8 giờ rưỡi sáng. Đó là thời điểm tất cả các chuyến xe buýt, xe điện ngầm quanh Harvard đều bận rộn với công việc của mình. Mọi người đến lớp. Tiếng giảng bài vang lên, chen vào đó là tiếng sinh viên thảo luận hay đặt câu hỏi. Tại Harvard này, tuần đầu tiên mỗi học kì được đặt một cái tên rất ngộ nghĩnh - “tuần shopping”, sinh viên đi dạo các phòng học để chọn thầy và chọn môn học. Tôi cũng “shop” như mọi người, và cuối cùng chọn được 4 thầy. Nói đúng hơn là tôi chọn 4 môn học vì là kẻ mới đến nên không thể có kinh nghiệm “chọn thầy”. Vả lại có nhiều thầy mình muốn chọn nhưng các thầy không có lớp trong học kì này.
Lớp học tại Harvard không quá đông, trừ những trường hợp giáo viên được sinh viên chọn nhiều sau tuần shopping. Lớp nào cũng có trợ giảng, có lớp đến 2-3 trợ giảng như thế. Trợ giảng đến lớp trước để điểm danh (nếu có), gắn máy móc – thiết bị giảng dạy và ổn định lớp. Năm phút sau, giảng viên vào. Quái lạ, nhìn đi nhìn lại thì chỉ có mỗi mình mình đứng dậy chào. Sinh viên Harvard không làm như thế, họ cứ ngồi yên như không có chuyện gì. Thi thoảng lại có một vài sinh viên đi trễ bước vào mà chẳng cần chào thầy giáo lấy một tiếng. Thú thật, trong các buổi lên lớp của mình, nếu có sinh viên như thế tôi đã phải ngừng dạy trong vài phút để vị sinh viên ấy nhận ra “điều chưa hay” ấy. Nhưng tại Harvard, tôi tự an ủi: người Mỹ mà! Lại nữa, mùi gì thế? Hình như là mùi sandwich trộn lẫn với mùi thịt hộp! Trời ạ, cả một rừng mồm đang nhấm nháp bữa ăn sáng (cứ cho là ăn sáng) cứ mặc cho thầy giáo thu hết năng lượng của mình để giảng bài. Tuy vậy, bạn đừng nghĩ rằng cánh sinh viên đang “luyện mồm kia” không nắm được bài. Hình như họ vận dụng hầu hết các giác quan tự có của mình trong lớp học! Người Mỹ mà!
Giảng viên giảng bài khá sinh động nhờ vào kiến thức rộng, kỹ thuật hỗ trợ tiên tiến và đặc biệt là kỹ năng giảng dạy tốt. Trong lúc giảng viên giảng bài, sinh viên có bất kỳ câu hỏi nào có liên quan thì giơ tay lên hỏi. Thầy giáo giải đáp nhiệt tình các câu hỏi, miệng không ngớt khen ngợi sinh viên đặt câu hỏi hay (dù chỉ là câu hỏi vặt) để khuyến khích sinh viên hỏi tiếp. Có thầy giáo quá say sưa giảng, cắm cúi vào máy tính hay trên bảng đen nên hàng loạt cánh tay sinh viên giơ lên có cao đến mấy nhưng cũng chẳng lọt vào mắt thầy! Nội dung giảng dạy chỉ mang tính tổng hợp, vì tài liệu của môn học đã được chuyển vào hộp e-mail của mỗi sinh viên từ vài tuần trước rồi. Nói như thế để bạn hình dung vì sao sinh viên đến lớp với những mẩu sandwich hay thịt hộp trong cặp!
Harvard càng gần..
Thư viện tại Harvard tập trung khá nhiều đầu sách khắp thế giới, trong đó có hơn 15.000 đầu sách tiếng Việt. To nhất có lẽ là thư viện Widener tại trung tâm. Thư viện này có quá nhiều phòng chứa sách, phòng đọc sách mà tôi đã không ít lần đi lạc. Các thư viện thường có sẵn máy photocopy, máy tra mạng và máy scan phục vụ sinh viên. Riêng tôi, tôi khoái nhất là máy scan. Cũng phải thôi, khi mà giá sách quá đắt đỏ, lại nữa có mua sách nhiều cũng khó mà mang về được, nên scan vẫn là giải pháp tối ưu. Thế là bọn nghiên cứu sinh chúng tôi phân công nhau đeo bám các thư viện, chính xác là đeo bám các máy scan để scan tài liệu. Tôi thì hầu như ngày nào cũng đến “chào xã giao” các bác thủ thư tại thư viện Yenching để mong các bác không phàn nàn về việc “sao lại có người cắm mũi vào chiếc máy scan hàng giờ liền như thế!”. Sách tìm được ở bất cứ thư viện nào cứ phải vào Yenching scan cái đã. Sáng thì đến lớp, trưa ở văn phòng viết lách, tối lại tranh thủ đến thư viện… Một ngày tại Harvard là thế. Được cái là các bác thủ thư tại thư viện mãi rồi cũng quen, chào hỏi rôm rả, có vị còn đáp lại tình cảm của tôi bằng câu hỏi tiếng Việt chưa kịp sành sỏi “Chào anh? Anh khỏe “hôn”? hay “Com on” (cám ơn) đại loại…
Harvard học, học và học…
Bạn đừng bao giờ quá cứng nhắc với kế hoạch làm việc trong ngày của mình tại Harvard vì như thế sẽ đánh mất nhiều cơ hội học tập quý báu. Hầu như không ngày nào Harvard không tổ chức hội thảo hay các buổi nói chuyện chuyên đề, mà đâu phải lúc nào mình cũng nắm bắt được hết thông tin. Bọn nghiên cứu sinh chúng tôi rỉ tai nhau, thế là cả bọn cùng kéo đến nghe. Có lúc hội thảo, buổi nói chuyện tổ chức trong một căn phòng bé xíu, người cuối cùng trong bọn tôi vào phòng coi như kín. Ban đầu thì còn lựa chọn chủ đề báo cáo phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu thì mới đi, lâu dần hầu như ngày nào cũng đi. Cũng phải, diễn giả đều là các học giả nổi tiếng khắp thế giới cả, có khi nội dung báo cáo của họ là thành quả nghiên cứu đầy tâm huyết, có khi là cả đời họ, không đi nghe thì quả là điều đáng tiếc.
Thế nhưng, nếu tại Harvard mà chỉ có thế thì rõ là phí. Bằng cách này hay cách khác, tôi tìm cho ra cơ hội để được hẹn gặp với các giáo sư cần thiết. Rồi thì những cuộc gặp gỡ rôm rả thường xuyên hơn, nội dung trao đổi càng nhiều hơn, danh sách câu hỏi tôi vạch ra để hỏi càng dài hơn.
Ấy chết! Đã gần 9 giờ đêm rồi còn gì, tôi phải về nhà thôi. Hôm nay dự báo thời tiết nói nhiệt độ bên ngoài là 40 độ F (khoảng 5độ C), lại có mưa phùn. Không khéo có khi đêm nay phải ở lại ngủ trong phòng làm việc mất thôi!
NGUYỄN NGỌC THƠ
NCS Khóa 1 Ngành Văn hóa học