gửi bởi MyLinh » Thứ 7 30/06/07 11:33
QUA CHUYỆN TÌNH DỤC THẤY CẢ MỘT CUỘC SỐNG VỚI MỌI LO ÂU VÀ NIỀM HY VỌNG CỦA CÁI TÌNH CAO CẢ
MyLinh thấy phân tích của bạn NgoDieuLan về sự khác biệt giữa TỰ của Y Ban và Ám thị của Pham Thị Hoài rất đúng, nhưng chưa đủ.
Đúng là cách tả tình dục ở Ám thị “lúc mờ lúc tỏ, lúc nắm lúc buông, lúc êm đềm lúc da diết”, còn ở Tự thì “mọi thứ lại khá rõ ràng, trực tính”.
Và việc lựa chọn cách viết đó ở hai nhà văn có thể có nhiều nguyên nhân nhưng chắc chắn là một trong những nguyên nhân quyết định là hoàn cảnh dẫn đến TÌNH và DỤC ở hai người đàn bà hoàn toàn khác nhau. “Ám Thị lưu ý đến những cảm xúc nhục dục của nhân vật trong sự khám phá mới về cơ thể mình. Nó đến tình cờ, từ từ, nhẹ nhàng, không trắc trở. Nhân vật được tự nhiên nhận biết ra nó và hưởng thụ. Nhân vật đứng ở vị trí thụ động chờ đợi, âm thầm khám phá và muốn người đọc cảm nhận được những rạo rực mới tinh đó. Sự tinh tế là rất phù hợp cho nhân vật được sống. Còn ở Tự là tình dục của một người đàn bà mạnh mẽ bị kìm nén, bị tước đoạt, vùng vẫy để tìm lối thoát. Mà sau lại cộng thêm sự thất bại, bẽ bàng...”, thì rõ ràng là cách thể hiện rõ ràng, trực diện sẽ hiệu quả hơn.
Nhưng đó chưa phải là tất cả.
Một tác phẩm nghệ thuật bất kỳ (văn chương, điện ảnh, hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc...) sẽ càng có giá trị, càng sống lâu với thời gian nếu nó càng có nhiều tầng nghĩa. Nó buộc người ta sau khi đọc xong phải ítêp tục suy nghĩ, rồi dần dần vỡ lẽ ra nhiều điều.
Về mặt này, tôi e rằng các tầng nghĩa của TỰ lại phong phú hơn ÁM THỊ.
Đọc ÁM THỊ, cái ta thấy trước hết là cái tinh tế của chuyện TÌNH và DỤC (tình trước, dục sau). Từ đó ta có thể đọc được một thông điệp mà tác giả mang đến là: trong tình cảm mọi chuyện đều có thể, rằng không thể chủ quan được, rằng không ai học được chữ ngờ. Một người vợ được chồng yêu thương chiều chuộng như thế, một người vợ yêu quý, trọng chồng như thế, nhưng... AI NGỜ ! Rộng hơn: trong ccuộc đời mọi chuyện đều có thể, rằng không thể chủ quan được, rằng không ai học được chữ ngờ. Một người mù như thế, một người mù làm nghề tầm quất khinh đời, ghét tầm quất cho đàn bà, coi trọng cái nghề nghiệp hơn mọi thứ ở đời... như thế, nhưng... AI NGỜ ! Nghĩa là tất cả mọi thông điệp mà ÁM THỊ mang đến đều bắt đầu từ tình cảm và kết thúc vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi TÌNH CẢM.
Còn đọc TỰ, cái ta thấy trước hết là sự mạnh mẽ ồ ạt của chuyện DỤC và TÌNH (dục trước, tình sau). Người đọc đơn giản có thể chỉ dừng ở đó. Nhưng nếu người đọc chịu khó suy nghĩ, trăn trở, sẽ thấy biết bao vấn đề VĂN HOÁ – XÃ HỘI ở đằng sau.
Chuyện cái nỗi khổ về vật chất và tinh thần của con người thời bao cấp, người ta đã nói đến nhiều. Nói rất sắc xảo, rất thuyết phục. Hãy xem những Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, v.v. thì đủ thấy. Nhưng lần đầu tiên cái nỗi khổ vật chất và tinh thần đó được soi sáng qua một khía cạnh bất ngờ là tình dục. Thông qua cái tưởng như tầm thường nhất, cái mà bất cứ một con vật cũng được hưởng một cách tự do, công khai, thì con người lại luôn bị giới hạn, bị vây bủa, bị bẽ bàng, bị nhục nhã... tới mức thành bệnh... liệt dương và lãnh cảm (người vợ đã có một thời kỳ như vậy). Tới mức một sĩ quan quân đội phải lén lút đi tìm phim 3X để giải toả. Tới mức vợ chồng yêu nhau, thuơng nhau đến thế mà vì tình yêu, phải bỏ nhà mà đi biệt tích. Tới mức một nữ tiến sĩ xã hội học...
Nhưng cái tầng nghĩa ngầm ẩn, cái tầng sâu giá trị của TỰ không dừng lại ở đó. Đổ tất cả lỗi cho thời bao cấp thì dễ quá. Ở TỰ, tác giả đã đi xa hơn.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã nhắc đến không khí cổ truyền với những lễ hội phồn thực (“Cái sướng làm sao cái sướng làm vậy”) và phong tục phồn thực (“khảo cây lấy quả”). Những phong tục cổ truyền có ý nghĩa tốt đẹp đậm chất nhân văn đó của văn hoá truyền thống nông nghiệp Đông Nam Á đã tạo nên sự tương phản gay gắt với lớp màn Nho giáo che phủ, tạo nên kiểu quan niệm đè nén hoàn toàn trái lẽ tự nhiên: “đàn bà thì mình chỉ cốt là cho nó có con chứ có phải sung sướng gì đâu”. Kiểu quan niệm do Nho giáo đem vào đó đã đàn áp và giết chết những niềm vui trần tục thông thường nhất của đời người, của biết bao con người chỉ cốt để kẻ “quân tử” dễ bề cai trị. Cái quan niệm của ông chủ nhiệm hợp tác xã thời bao cấp “các đồng chí có xấu hổ vì đã tham gia vào một cái hủ tục như vậy không? Đó còn chưa kể đến cái gọi là dâm ô truỵ lạc nữa” chẳng qua chỉ là sự nối dài một cách cực đoan và ngây thơ quan niệm Nho giáo kia, nấp dưới cái vỏ “khoa học tiên tiến” mà thôi.
Không chỉ dừng lại ở quá khứ xa và quá khứ gần. Cái quá khứ xa xôi của truyền thống văn hoá bản địa Đông Nam Á. Cái quá khứ cách đây một vài thế kỷ của ảnh hưởng Nho giáo. Cái quá khứ gần của thời bao cấp. TỰ của Y Ban đã xâu chuỗi tất cả với hiện tại. Cái hiện tại được thể hiện qua hình ảnh sang trọng lạnh lùng của một chính khách và hình ảnh ngăn nắp sạch sẽ của một nhà khoa học.
Người đàn ông số hai là một quan chức cao cấp gặp trong một bữa tiệc chiêu đãi trọng thể của nguyên thủ quốc gia. Chức cao quyền to nhưng không ai đến hầu chuyện vì thưởng trực trong đầu ông là những nghi ngờ xét nét: “Cần gì? Mưu đồ gì? Toan tính gì? Phe phái nào?”. Sự hấp dẫn của cái lạnh lùng, của chức cao quyền to chẳng mấy chốc đã nhường chỗ cho sự thất vọng tràn trề trước cái tầm thường của một quan hệ chẳng cần tình yêu trong cái “nhà nghỉ 40.000đ một giờ” và “hai bịch sữa” được cầm về từ bữa ăn chiêu đãi.
Người đàn ông số ba là một giáo sư văn hoá học (chắc hẳn tác giả không có ý định cố tình bêu riếu ngành văn hoá học chúng ta đâu mà chỉ lấy đây như một cái cớ để đẩy vấn đề đến cực đoan, để nói đến cái phi văn hoá trong một thời mà văn hoá được đề cao). Cái phi văn hoá đó là sự đối lập của “chiếc khăn sạch sẽ” trong căn phòng sang trọng gọn ghẽ, nhưng “đã cũ đến mức chỉ còn các sợi vải đan vào nhau” (sao mà giống chuyện hai bịch sữa?). Cái phi văn hoá đó là sự đối lập giữa sự nho nhã thanh cao của một giáo sư văn hoá với cử chỉ thô bạo “vỗ bộp vào mông” trong thang máy, với việc “dùng hết sức lực để lôi tôi vào phòng rồi chốt cửa lại”, “kéo tuột lên giường và... nằm chặn lên người tôi với cả sức nặng”, với việc “lấy chân hích tôi: Nằm lui vào” rồi “cúi xuống ngăn bàn cạnh giường lấy một chiếc khăn ném vào bụng tôi”, với việc “đi vào trong giường cầm ra chíêc khăn vừa lót dưới mông tôi” để lau bàn, v.v. và v.v.
Những mẫu người mà thời đại “toàn cầu hoá” và “hội nhập” sản sinh ra ấy liệu có hơn được người chồng – người đàn ông số một – tuy không còn khả năng tình dục nhưng lại có tình yêu, lại mang lại cho vợ mình hạnh phúc? Và nếu không hơn thì trong khi ta đã tiếp nhận biết bao sản phẩm của văn minh phương Tây, tại sao lại phải từ chối các đồ chơi tình dục do họ nghĩ ra? Nếu các đồ chơi đó giúp đem lại sự tự tin, giúp giữ được niềm kiêu hãnh trong khi chờ đợi và hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn?
Một câu chuyện bắt đầu bằng tình dục nhưng đem đến những suy tư với nội dung vượt xa chuyện tình dục. Đó là lởi kêu gọi hãy hiểu và trân trọng những truyền thống tốt đẹp dù có xa xưa của văn hoá dân tộc (chuyện lễ hội phồn thực). Đó là một tinh thần cầu thị, không bảo thủ cố chấp, chấp thuận tiếp nhận mọi giá trị của văn hoá bên ngoài miễn là nó hữu ích (chuyện cái chim giả). Đó là sự khẳng định tình yêu, lòng tự trọng, những giá trị nhân bản sẽ chiến thắng (với những người đàn ông số bốn, năm, sáu, bảy... của dân tộc) trong một cuộc sống mà người người đang hối hả chạy đua theo những giá trị vật chất.
Những điều đó, phải chăng những người phản đối truyện này không nhận thấy?
Nếu trong đầu chúng ta lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện sex thì khi đọc TỰ, ta sẽ chỉ nhìn thấy cái DỤC tầm thường.
Còn nếu trong đầu chúng ta chứa đựng một trí tuệ và trong trái tim chúng ta có một tâm hồn thì khi đọc TỰ (và những truyện tương tự), ta sẽ thấy qua chuyện tình dục - là cái biểu hiện bề ngoài - có cả một cuộc sống phong phú trong chiều dài thời gian và chiều rộng không gian, với tất cả những lo âu, những niềm hy vọng đầy nhân bản của cái TÌNH cao cả !
Hãy nói cho tôi hay anh đang THẤY gì, tôi sẽ cho biết cái mà trong đầu anh đang NGHĨ !
ML