Trong khi Hàn Quốc dược xem như một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển của thế giới thì Việt Nam , với dân số nhiều hơn , điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn , lại chỉ được xem là một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển . Nguyên nhân Việt Nam chậm phát triển đã được các anh chị phân tích rất chi tiết và rõ ràng . Ở đây tôi chỉ xin đóng góp thêm vài ý kiến của riêng cá nhân mình .
Ngoài yếu tố tích cách dân tộc , nguyên nhân chậm phát triển của Việt Nam còn có thể kể đến yếu tố lịch sử và cách thức quản trị .
1.Yếu tố lịch sử :
Cuộc chiến tranh Triều Tiên kéo dài từ năm 1950 đến năm 1953 đã kết thúc vào ngày 27/7/1953 khi Liên Hiệp quốc, Quân Đội Nhân dân Triều Tiên và Quân tình Nguyện Nhân Dân Trung Hoa ký kết thoả thuận đình chiến . Sau ngày này Hàn Quốc bắt đầu quá trình phục hồi lại nền kinh tế đã rơi vào tình cảnh tồi tệ sau chiến tranh của mình bằng các kế hoạch năm năm : 1962-1966 , 1967-1971 , 1972-1976 ..... , dến năm 1980 Hàn Quốc đã được xem là một trong những nước công nghiệp mới của thế giới . Ngược lại , ở Việt Nam chiến tranh kết thúc vào ngày 30/4/1975 và cả nước bước vào nền kinh tế bao cấp cho đến năm 1986 . Tại Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu ( 12/1986 ) , Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng đã chấp thuận chính sách đổi mới , chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường . Như vậy , nền kinh tế thị trường Việt Nam đã khởi đầu chậm hơn nền kinh tế thị trường Hàn Quốc hơn 20 năm ( 62-86 ) , một thời gian đủ dài để tạo nên một sự khác biệt lớn giữa hai nến kinh tế .
2. Cách thức quản trị :
Trong một nền kinh tế , cách thức quản trị ( hay nói cách khác là đường lối chính sách của giai cấp lãnh đạo ) đóng một vai trò hết sức quan trọng , điều này có thể thấy rõ qua trường hợp của Hàn Quốc và Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên . Kinh tế Triều Tiên trước năm 1945 quá lệ thuộc vào Nhật Bản , tập trung vào công nghiệp chiến tranh . Sau khi Triều Tiên bị chia đôi , kinh tế Nam Hàn rơi vào tình cảnh kiệt quệ vì hầu hết tài nguyên thiên nhiên đều nằm ở miền Bắc. Vào những năm 60 , Hàn Quốc phải nhận viện trợ của Mỹ hơn 6 tỷ USD , GDP là 80 USD thì đến những năm 2000 Hàn Quốc đã trở thành một " Con rồng Châu Á " với GDP lên đến hơn 10.000 USD ( năm 1998 là 10.548 USD ) . Trong khi đó Bắc Hàn trở thành một cường quốc về quân sự có cả vũ khí hạt nhân nhưng hàng năm phải nhận viện trợ về lương thực của Liên Hiệp Quốc và các nước láng giềng . Nhín lại Việt Nam chúng ta thấy : vào những năm từ 1975-1986 chính sách kinh tế gần như là " trọng nông ức thương " , các hình thức kinh doanh đều do nhà nước quản lý , người dân không được phép mua bán tự do , tất cả đều là tem phiếu . Các thương nhân được khuyến khích đến những vùng đất mới để khai hoang , trồng trọt ,hình thành một phong trào gọi là kinh tế mới . Sau những sai lầm của cuộc tổng cải cách giá - tiền - lương cuối năm 1985 , kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn và mất ổn định , Đại Hội Đảng lần thứ 6 đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường và đã đạt nhiều thành công : trước năm 1986 Việt Nam phải nhập khẩu lương thực , hiện nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới . Chúng ta đã gia nhập vào các tổ chức kinh tế trên thế giới như : WTO , APEC , AFTA , ...nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa trở thành một nền kinh tế vững mạnh trong khu vực vì cách thức quản trị của các nhà quản lý còn một số hạn chế sau :
- Kế hoạch không chu đáo , không nghiên cứu kỹ trước khi thực thi gây sự phiến hà cho nhân dân và hao tổn cho ngân sách ( để giải quyết nạn kẹt xe , người ta đưa ra phương án sử dụng xe bus nhưng do không phù hợp với hệ thống giao thông Việt Nam nên đôi khi tác nhân gây ra kẹt xe lại chính là xe bus , trong khi nhà nước vẫn phải bù lỗ hàng tỷ đồng ).
- Luật pháp không rõ ràng gây ra những thủ tục gây phiền hà cho dân ( việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất đã tiến hành nhiều năm nay , tiêu tốn nhiều tỷ đồng nhưng không đạt được kết quả ) , tạo sự khó khăn cho những ai muốn đầu tư vào Việt Nam .
- Đãi ngộ không xứng đáng ( đội ngũ giáo viên và giảng viên các cấp là nhũng người đào tạo ra thế hệ tương lai nhưng với mức lương như hiện nay mấy ai có thể đủ sống chứ đừng nói đến việc đầu tư nghiên cứu để nâng cao chất lượng giảng dạy ).
- Thưởng phạt không công minh ( các qua chức tham nhũng có thể lấy vài triệu USD tiền viện trợ để đi đánh bạc , sau khi bị bắt , chỉ lãnh án vài năm tù nhưng không thấy nói đến nói đến việc trả lại số tiền đã tham ô cho ngân sách nhà nước )
Nhũng hạn chế trên đây đã góp phần kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam , hy vọng trong tương lai các nhà quản lý sẽ đưa ra những chính sách hợp lý và hiệu quả hơn giúp Việt Nam vươn lên thành một trong nhũng con rồng của châu Á .