gửi bởi VOVANTHANH » Thứ 2 12/11/07 14:57
[center]Nguyên nhân chậm phát triển của Việt Nam và những bài học đối với Việt Nam từ kinh nghiệm Đông Á.[/center]
Việt Nam là một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á với khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, là khu vực rất thuận lợi cho sự phát triển của thực vật và có thể nói nó là thiên đường của thực vật.
Cư dân Đông Nam Á từ lâu đã biết làm nông nghiệp, nền nông nghiệp ở khu vực này có thể nói là một trong những cái nôi xưa nhất của nền nông nghiệp. Theo các nhà khảo cổ phát hiện ở khu vực này thì nền nông nghiệp xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á cách đây hơn 10.000 năm. Và đây là nền nông nghiệp lúa nước điển hình (typical wet rice). Có thể nói điều kiện địa lý tự nhiên đã ảnh hưởng đến văn hóa và tâm thức con người khu vực này, đặc biệt là người Việt Nam.
Do làm nông nghiệp cho nên cơ cấu làng xã của người Việt Nam là rất vững chắc, và cũng vì vậy mà nó thiên về tính bảo tồn hơn là phát triển. Và khi chuyển sang nền kinh tế thị trường như hiện nay thì không tránh khỏi sự chệch choạc trên con đường phát triển. Nó chỉ muốn sự bềnh vực, không muốn phá bỏ lề thói sinh hoạt cũ của người làm nông nghiệp, do đó là sức ì rất lớn trong các nước có truyền thống nông nghiệp, mà đặc biệt là nông nghiệp lúc nước điển hình như người Việt Nam.
Theo sự phân tích của GS. TSKH Trần Ngọc Thêm thì: Truyền thống quản trị Việt Nam thiên về:
Nông thôn hơn đô thị; làng nước hơn cá nhân và quốc tế.
Tức là => Trọng âm, trọng tình, trọng cộng đồng.
Chính vì tính chất âm tính cao như thế cho nên, so với các quốc gia xung quanh, Việt Nam là một nước chậm phát triển.
Trong khi Việt Nam nông nghiệp thiên về bảo tồn (âm tính) thì ở nền văn hóa Trung Hoa gốc du mục, nhu cầu thường trực lại là phát triển (dương tính). Tầng lớp thương nhân phát triển mạnh từ đời Thương, sau này, họ giỏi buôn bán tới mức cả thế giới đều biết tiếng.
=> Nói tóm lại, cơ cấu làng nông nghiệp có một sức ì lơn là một trong những nguyên nhân dẫn đến chậm phát triển của Việt Nam.
Việt Nam hứng chịu nhiều chiến tranh, đó cũng là một nguyên nhân làm cho Việt Nam chậm phát triển vì phải khắc phục hậu quả của nó. Nhưng chúng ta cũng không được đổ thừa mãi cho chiến tranh, vì chiến tranh mà Việt Nam lạc hậu, chậm phát triển.
Vấn đề đô thị ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, đô thị kém phát triển. Nó lệ thuộc vào nhà nước, do nhà nước sinh ra, thực hiện chức năng quản lý do nhà nước giao phó, hầu như không có vai trò gì đáng kể về kinh tế. Mãi đến tận ngày nay, nhiều đô thị mới của Việt Nam được thành lập nhưng không nhằm chức năng kinh tế mà chỉ chủ yếu là thực hiện chức năng hành chính, tức là nhà nước bơm tiền vào thành lập đô thị, phố thị để thực hiện chức năng quản lý hành chính mà không kể là khu vực đó có khả năng phát triển kinh tế hay không (ở đây chúng tôi không chỉ ra cụ thể tên đô thị, thị xã do nhà nước bơm tiền vào để thành lập vì ở Việt Nam rất nhiều).
Ở Việt Nam, đô thị còn có trường hợp là nông thôn hóa đô thị. Điều này diễn ra trong những năm 1970,1980 của thế kỷ 20. Nó do truyền thống nông nghiệp tự cấp tự túc mà ra.
=> Hệ thống đô thị yếu kém cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự chậm phát triển của Việt Nam.
Tâm thức của người Việt Nam làm cho người Việt Nam nghèo.
Theo Gs. Phan Ngọc trong Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam 2002: “Nguyên nhân của sự nghèo khổ không ở đâu cả mà chính trong tâm thức chúng ta, tức là ngay trong tôi, trong anh, dù cho anh phê phán người này, người nọ hay Đảng rất quyết liệt, những khuyết điểm sai lầm anh lên án đều có mầm mống trong anh, và đó mới chính là nguyên nhân của tình trạng lạc hậu, nghèo khổ của đất nước” (chúng tôi gạch dưới) [535].
Học là để làm quan chứ không nhằm mục đích làm kinh tế. Đó là nếp suy nghĩ của người Việt khi ông tổng kết số sách vở viết ra của các nhà trí thức Việt Nam trước kia. Và ông phê phán thái độ học tập đó của trí thức Việt Nam, có thể nói là vẫn còn ảnh hưởng đến bây giờ.
“Trong số sáu ngàn quyển sách thì quá nửa là sách học để đi thi, các bài mẫu, các sách giảng về các kinh truyện, các bài thơ phú viết theo lối văn chương trường ốc. Không cách nào chối cãi đây là một học vấn để làm quan.
Chừng nào cái bệnh văn chương còn ám ảnh tri thức Việt Nam, chừng nào con đường làm quan còn là mục tiêu phấn đấu duy nhất của người trí thức thì chừng ấy chúng ta còn khổ.” [Phan Ngọc 2002: 525,526,527].
=> Chúng tôi nghĩ ông có lý và cũng đồng tình với ông cho rằng lối học để ra làm quan chứ không nhằm làm kinh tế là một nguyên nhân nữa dẫn đến chậm phát triển của Việt Nam.
Chính nền kinh tế nông nghiệp đã làm cho mọi người đoàn kết lại để cùng chung tay làm việc, chống lũ, chống hạn. Chính chiến tranh đã làm cho người Việt Nam đoàn kết lại, triệu người như một để đánh thắng kẻ thù, cho là kẻ thù có hung mạnh đến đâu. Điều đó đã diễn ra ở Việt Nam và được công chứng. Thế nhưng, không phải vì vậy mà ý thức lao động tập thể của người Việt Nam luôn cao. Giáo sư Phan Ngọc trong quyển Bản sắc văn hóa Việt Nam nêu lên mặt trái của ý thức lao động tập thể của người Việt Nam. Ông cho rằng ý thức lao động tập thể của người Việt Nam kém: “Một thiếu sót nữa của tâm thức người Việt Nam là người Việt Nam lao động tập thể rất kém. Chỉ trong chiến tranh anh ta chịu làm thế và làm rất tốt, còn trong hòa bình anh ta lại quay lại với tâm thức xã hội nông nghiệp.” [531].
Đây là điều suy nghĩ của ông, chúng tôi xin nêu ra đây để bàn thêm. Theo thiển ý của tôi thì ông có phần đúng. Người Việt Nam có câu: “Lắm thầy thối ma”. “Cha chung không ai khóc” v.v…. cho thấy trách nhiệm tập thể, trách nhiệm đối với của công, lao động tập thể có phần kém. Hơn nữa, tính cục bộ, địa phương làm cho những người đến từ những vùng khác nhau không chấp nhận nhau trong công việc, không thể ngồi chung với nhau để bàn công việc. Mà có ngồi chung với nhau để bàn bạc thì công việc chung cũng không đi đến đâu. Tính huề cả làng là tính thiếu trách nhiệm điển hình trong công việc của người Việt Nam. Theo ý chúng tôi là như vậy. Không biết mọi người có ý kiến gì không.
Việt Nam hiện nay thiếu nhà hoạch định kinh tế chiến lược (có tầm nhìn bao quát, có thể dự đoán được tương lai kinh tế trong khoảng 10-20 năm). Đây là điều đau đầu của các nhà quản lý. Mãi cho đến tận ngày nay, Việt Nam mới có ngày của các doanh nhân.
Thái độ miệt thị ngành nghề kinh doanh trong tâm thức của người Việt Nam cũng là một nguyên nhân người Việt không chú trọng đến nghề kinh doanh như các nước Âu-Mỹ hoặc Trung Hoa, Nhật Bản.
Trong tâm thức người Việt, người làm nghề kinh doanh bị coi khi. Chúng ta cứ xem bậc thang ngành nghề phổ biến trong xã hội của chúng ta thì biết: SĨ, NÔNG, CÔNG, THƯƠNG.
Người Việt Nam làm nông nghiệp, không có nhu cầu trao đổi hàng hóa như phương Tây do đó nghề buôn không thể đường hoàng mà sinh sống được. Do đó, muốn sống được, những người làm nghề buôn bán phải gian lận. Do đó, gian lận là một đặc trưng của nghề buôn. Người làm nghề buôn bị coi khi như: “Đồ con buôn”; Mua quịt bán lường; Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu; Đi buôn nói ngay không bằng đi cày nói dối; Thật thà cũng thể lái trâu, yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng; Lái trâu, lái lợn, lái bò, trong ba lái ấy chớ nghe anh nào v.v…
Kết quả của chính sách ức thương Việt Nam (67-68): văn hóa Việt Nam xưa không phải là văn hóa thành thị, không có hiện tượng thành thị chỉ huy nông thôn, chuyển bộ mặt kinh tế tự túc nông thôn sang kinh tế hàng hóa của thành thị để đổi mới kinh tế đất nước. Ngược lại, chính thành thị bị nông thôn hóa. Đô thị lớn nhất như Thăng Long chỉ là cửa hàng bán các sản phẩm nông thôn. Từng phường chỉ là cái đôi từng làng nghề với Thành hoàng làng, và gắn chặt chẽ với làng.
Không có tầng lớp thương nhân như một tầng lớp độc lập, mà chỉ có những thương nhân gắn chặt với làng quê hương. Một tầng lớp thương nhân như vậy không thể có văn hóa riêng.
Thành kiến với thương nghiệp là rất nặng. Có thể nói nặng hơn cả Trung Quốc và các nước ĐNA. Không có một hoạt động thương nghiệp mạnh mẽ phục vụ quyền lợi chính đáng của thương nghiệp, tất nhiên là kinh tế phải ngưng trệ cùng với nó; chính trị, văn hóa, xã hội cũng ngưng trệ.
Ưu thế của việt Nam đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay.
Việt Nam từ lâu có kinh nghiệp giao tiếp với Trung Hoa, một đất nước rộng lớn, với nền văn hóa vô cùng đa dạng, một nền văn minh lớn của nhân loại, do đó có thể nói Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa nhiều hơn các nước Đông Nam Á khác. Điều này thể hiện trong cách suy nghĩ, cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội.
Hơn nữa, Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa chủ nghĩa tư bản thông qua Pháp. Pháp đã đô hộ Việt Nam gần 100 có nhiều giao lưu, tiếp biến và ít nhiều khúc xạ (từ của Gs. Phan Ngọc) qua văn hóa của người Việt Nam.
Giai đoạn sau khi Pháp rời Việt Nam, ở miền Nam Việt Nam, chịu ảnh hưởng của văn hóa tư bản kiểu mới (Mỹ), còn ở miền Bắc Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác-xít cho đến tận ngày nay.
Vài ý kiến về sự chậm phát triển của Việt Nam. Xin quý vị góp ý kiến.
Tài liệu tham khảo:
1/ Tập bài giảng của GS. TSKH Trần Ngọc Thêm về văn hoá quản trị kinh doanh
2/ Phan Ngọc 2002, 550tr.
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."