gửi bởi VOVANTHANH » Thứ 2 29/10/07 9:49
[center]CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN GIỮA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM[/center]
[justify]Minh Chi
(Học Viện Phật Giáo Việt Nam)
Đó là vào buổi lễ đáng ghi nhớ, kỷ niệm ngày sinh của vua Trần Nhân Tông, do Hội thanh niên Phật tử Việt Nam tổ chức tại chùa Quán Sứ, vào những ngày tháng đầu tiên của cuộc Cách Mạng Tháng tám.
Tôi không nhớ ngày cụ thể, vì vậy mà tôi viết những ngày tháng đầu của Cách Mạng Tháng tám, mà một trong những đặc điểm nổi bật là mọi người ở Hà Nội, nam nữ, già trẻ đều nô nức, tò mò muốn được biết Hồ Chí Minh là ai, con người Hồ Chí Minh như thế nào, Hồ Chí Minh có phải là Nguyễn Ái Quốc hay không? (Bởi vì, một thời gian trước đó, mặt trận Việt Minh có công bố bức thư ngỏ của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi toàn thể đồng bào).
Chính trong bầu không khí náo nức ấy mà Hội thanh niên Phật tử Việt Nam, mà Hội trưởng lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn Hữu Thuyết, tổ chức tại chùa Quán Sứ ngày lễ kỷ niệm vua Trần Nhân Tông. Cái đinh của buổi lễ là một buổi tiệc chay, với sự có mặt của Hồ Chủ tịch và cố vấn Vĩnh Thụy (tức Bảo Đại sau khi thoái vị).
Và trong công tác chuẩn bị cho buổi lễ, có hai công việc quan trọng phải làm là mời cho được Hồ Chủ tịch và cố vấn Vĩnh Thụy. Hai Hòa Thượng Tố Liên và Trí Hải được phân công đến Bắc Bộ phủ mời Hồ Chủ tịch, còn cụ Văn Quang Thùy và tôi (hai cư sĩ) được phân công mời Cố vấn Vĩnh Thụy.
Cụ Văn Quang Thùy là một nhà Phật học thâm thúy, từng dịch một số kinh Phật từ chữ Hán sang chữ Việt. Tôi nghe nói, sau khi quân Pháp chiếm Hà Nội, cụ di tản vào Nam, vẫn tiếp tục nghiên cứu Phật học và giảng Phật học.
Cụ và tôi đến biệt thự, nơi tạm trú của Cố vấn Vĩnh Thụy, sau khi ông từ Huế ra Hà Nội, theo lời mời của Hồ Chủ tịch. Biệt thự này (sau Hiệp định Giơ-ne-vơ), từng được dùng làm đại sứ quán Nam Tư, sau đó chuyển làm trụ sở của Trung ương Đoàn Thanh niên Việt Nam. Vì tôi có quen với anh Hoàng Xuân Bình, lúc bấy giờ làm vệ sĩ cho Cố vấn Vĩnh Thụy, cho nên việc chúng tôi trực tiếp gặp và mời Cố vấn Vĩnh Thụy đến dự lễ và dùng cơm chay tại chùa Quán Sứ không gặp khó khăn gì. Tôi và anh Bình quen nhau vì cùng ở Đông Dương học xá, và đều là sinh viên, anh Bình học trường thuốc, còn tôi học trường Luật. Có thể nhờ lời giới thiệu của anh Bình cho nên Cố vấn Vĩnh Thụy đã tiếp chúng tôi rất niềm nở. Tôi quên giới thiệu anh Bình, sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, đã tham gia học trường Thanh niên Tiền Tuyến của ông Phan Anh, nguyên bộ trưởng bộ quốc phòng của chính phủ Trần Trọng Kim. Vì học ở trường Thanh niên Tiền Tuyến ra (một trường đào tạo sĩ quan trẻ cho nước Việt Nam vừa độc lập), cho nên tác phong của anh Bình rất quân sự, lối ăn mặc cũng rất gọn gàng.
Trong buổi gặp gỡ, Cố vấn Vĩnh Thụy lúc ban đầu nói là đã có Hồ Chủ tịch đến rồi, thì Cố vấn không đến cũng được. Nhưng vì cả tôi và cụ Văn Quang Thùy khẩn khoản mời, lại thêm có anh Bình nói vào nữa cho nên cuối cùng Cố vấn Vĩnh Thụy nhận lời.
Đó cũng là điều may, vì sau khi cụ Văn Quang Thùy và tôi về chùa Quán Sứ, gặp hai cụ Hòa Thượng Tố Liên và Trí Hải mới biết Hồ Chủ tịch đã khước từ lời mời của hai cụ vì Hồ Chủ tịch lúc bấy giờ rất bận việc, vì đồng thời phải đối phó với bao nhiêu khó khăn phức tạp chồng chất, đối nội cũng như đối ngoại. Hơn nữa, Hồ Chủ tịch cũng nói là đã có Cố vấn Vĩnh Thụy đến rồi thì Chủ tịch không đến nữa.
Buổi lễ bắt đầu vào khoảng 4 hay 5 giờ chiều, sau khi Cố vấn Vĩnh Thụy và quan khách đến đông đủ. Tôi có soạn một bài giảng về thân thế và sự nghiệp của Trần Nhân Tông, nhằm đối tượng là thanh niên và sinh viên, bài giảng được thu băng và phát lại trong bữa tiệc, chứ tôi không trực tiếp giảng. Bài giảng cũng được in vào phần cuối cuốn Đạo Phật I, mà tôi là tác giả. Cuốn sách do nhà xuất bản Thụy Ký in và phát hành. Cuốn sách này, trong thời kỳ nước ta tạm thời chia làm hai miền, được các Phật tử trong Nam tái bản nhiều lần, với bút hiệu của tôi lúc bấy giờ là Huyền Chân. Cuốn Đạo Phật I lần đầu tiên do Thụy Ký xuất bản, có bìa màu vàng khá đẹp, nhưng giấy in thì không được tốt lắm.
Bữa tiệc đang tiến hành thì bỗng ngoài cửa chùa có tiếng ồn ào, đông đảo người hình như xô đẩy nhau. Có những tiếng kêu to: Bác đến! Bác đến!
Thì ra Bác đến thật. Trong bộ kaki trắng gọn ghẽ, sắc mặt hồng hào, dáng điệu thoải mái, Bác với đông đảo quần chúng vây quanh, tiến thẳng không phải vào chính điện mà vào giảng đường. Còn các bàn tiệc với đông đảo quan khách dự tiệc thì lại bố trí ở gần nhà Tổ. Bác vào tới giảng đường, thì hình như không tiến lên được nữa, vì ai cũng muốn thấy mặt Bác, ai cũng muốn lại gần Bác. Tôi thấy các đồng chí bảo vệ cũng bó tay. Thế là Bác có một sáng kiến có một không hai, đối với một vị Chủ tịch nước! Bác đứng lên cho đồng bào xem mặt Bác đây... Đám đông vỗ tay hoan nghênh. Mãi sau Bác mới vào được trong nhà Tổ, vẫy tay chào các quan khách, bắt tay Cố vấn Vĩnh Thụy...
Bác Nguyễn Văn Tiến, một thành viên sáng lập Hội Thanh niên Phật tử, đưa tôi cuốn Đạo Phật I, yêu cầu xin Bác chữ ký. Bác vui vẻ ký vào trang đầu cuốn sách. Anh Tiến đưng hơi xa, vội cố gắng rẽ đám đông để lấy cuốn sách, thế nhưng cuốn sách đã chuyển từ tay này sang tay khác, để cuối cùng mất hút, không trở về với chủ của nó là anh Tiến đáng thương hai! Anh Tiến cũng không trách tôi được, vì sự việc diễn ra quá nhanh, còn tôi cũng tự trách mình vì sao không đem đến đây vài ba cuốn sách để xin Bác chữ ký...
Tất cả mọi ấn tượng buổi hôm ấy như bị xóa nhòa hết trước ấn tượng của vị Chủ tịch nước, giản dị, thân thương nhưng lại có vẻ siêu tuyệt hay siêu phàm. Còn lẽ vì thế mà cố Thủ tướng Ấn Độ, khi tiếp đón Bác ở New Delhi, đã gọi Bác là vị anh hùng huyền thoại (the legendary hero). Phải chăng lực hấp dẫn đặc biệt của Bác Hồ là ở chỗ Bác thật sự là một nhân vật siêu phàm...; siêu phàm không phải chỉ ở quá trình hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ của Bác, mà siêu phàm ngay cả trong nhân cách, mà người nào có may mắn tiếp xúc với Bác dù chỉ là một lần cũng cảm nhận thấy. Sau đây tôi xin bày tỏ một vài cảm nhận của tôi, một cán bộ rất bình thường, nhưng có nhân duyên rất may mắn được gặp Bác nhiều lần, trong thời gian khoảng 10 năm công tác ở Phủ thủ tướng (1950-1960). Những cảm nhận này giúp tôi lý giải phần nào lực hấp dẫn của con người Bác đối với quần chúng, trong đó có anh em trí thức.
Bác không nói vô ngã, nhưng thực hành đạo lý vô ngã trong mọi hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của Bác.
Bác không nói vô ngã, nhưng bác nói chí công vô tư. Vô tư không có nghĩa gì khác là vô ngã. Sống gần Bác sẽ thấy Bác tỏ ra rất dị ứng đối với mọi cử chỉ, hay lời nói đề cao cá nhân Bác. Ngày còn ở chiến khu, Bác hình như không thích mọi người đến chúc tụng mình vào ngày sinh nhật 19/5, cho nên thường lệ cứ vào chiều ngày 18/5, Bác lại khăn gói lên đường cùng với hai hay ba đồng chí bảo vệ, đi thăm một đơn vị bộ đội, nhà trẻ hay một viện quân y... Tất cả quà cáp sinh nhật của Bác, đều được phân phối cho các cơ quan hay cá nhân theo một danh sách Bác cho chuẩn bị sẵn.
Bác ăn uống hết sức giản dị: cơm nắm, cà, tương ớt, cá kho... Đó là những món ăn Bác thích nhất trong những dịp Bác đi công tác ở địa phương. Những món ăn đó, Bác thường cho gói đem đi, vì Bác thích ăn lúc nghỉ ở dọc đường hơn là ăn ở Giao Tế tỉnh, vì Bác không muốn gây phiền hà cho chính quyền và Đảng bộ địa phương.
Vì vậy, mà có câu thơ của Việt Phương trong tập thơ “Cửa Mở”:
“Bác không đụng đĩa thịt gà,
Mà ăn trọn đĩa cà xứ Nghệ...”
Thiếu tướng Phan Văn Xoàn, trước khi nghỉ hưu (hiện là giám đốc công ty dịch vụ Bảo vệ Long Hải ở Tp. Hồ Chí Minh), là Cục trưởng cục An ninh TƯ và là người thường xuyên bảo vệ và hầu cận Bác, kể cho tôi nghe rằng, khi đi công tác địa phương, Bác thường hay nghỉ dọc đường, thay vì vào Giao Tế tỉnh. Biết Bác thích như vậy, tôi cho đem theo xe một cái giường xếp, để phòng khi Bác muốn nghỉ trưa sau bữa ăn. Một lần, sau bữa ăn trưa dọc đường, tại một sân đình làng, tôi thấy Bác cho trải ni lông để Bác nằm nghỉ, tôi bèn cho lấy giường xếp ra cho Bác dùng, thì thấy Bác khoát tay, nói như đùa “Ai mang đi thì người ấy phải dùng, Bác không bảo mang theo giường xếp, sao Bác lại phải dùng?”
Thế rồi, Bác nằm xuống trên tấm ni lông trải trên cỏ, phút chốc đã thấy Bác ngủ thiếp đi. Mặt Bác hồng hào, trông như một ông Tiên. Viết đến đây tôi bất giác nhìn lên tường có treo tờ lịch với dòng chữ viết theo kiểu khá “nghệ thuật”:
“Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một chốc,
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay.”
Thiếu tướng Xoàn ca ngợi Bác nằm ngủ đẹp như một ông Tiên, hay Bác là một ông Tiên thật như vây?
Một chữ ký của Bác hơn cả một buổi nói chuyện dài.
Hạnh vô ngã là hạnh của Bồ-tát. Vì tôi theo đạo Phật cho nên không nói như đồng chí Phan Văn Xoàn là Bác giống như một ông Tiên; tôi nói và nghĩ rằng Bác là một Bồ-tát hóa thân. Vì tôi biết, tùy theo nhu cầu của chúng sinh mà các vị Bồ-tát có thể thị hiện làm quốc vương, đại thần, Bà-la-môn v.v...Chúng sinh Việt Nam đang cần có một lãnh tụ như Bác, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thể hiện thân đến với chúng sinh Việt Nam chứ sao lại không chứ! Triết gia Pháp Blaise Pascal ở thế kỷ XVIII nói câu thời danh “Cái ta là cái đáng ghét” (Le moi est haissable), thì người sống vô ngã phải là một bậc Thánh rất đáng trân trọng và đáng kính yêu. Bác Hồ là con người như vậy, bậc Thánh như vậy. Không những con người Bác mà tất cả những gì thuộc về Bác, có dính dáng đến Bác cũng xứng đáng được trân trọng và yêu kính như vậy. Tôi cảm nhận rõ điều này qua sự việc sau đây:
Khoảng giữa năm 1946-1950, tôi công tác ở Phòng Chính trị Quân khu IV, với cương vị Phó ban Tuyên huấn và là Chủ nhiệm tờ báo quân đội “Vệ Quốc đoàn”. Thiếu tướng Nguyễn Sơn, Quân khu trưởng, bằng Thiếu tướng được Nhà nước phong tặng. Lúc bấy giờ, có một tiểu đoàn Việt kiều Thái Lan vừa về nước, được Quân khu IV tiếp nhận. Một buổi sáng, tôi được lệnh của Thiếu tướng quân khu trưởng hướng dẫn Thiếu tướng Trần Tử Bình đến thăm Tiểu đoàn, có biệt danh là “Tiểu đoàn Mê-kông”. Toàn tiểu đoàn xếp hàng chỉnh tề tại một bãi tập để đón chào Thiếu tướng Phó Tổng Thanh tra Quân đội. Sau thủ tục nghi lễ chào đón, Thiếu tướng Bình bắt đầu nói chuyện. Thiếu tướng Bình có lẽ không có tài hùng biện như Thiếu tướng Nguyễn Sơn cho nên bài nói chuyện vừa dài vừa thiếu hấp dẫn. Tôi cảm thấy nhiều đội viên trong tiểu đoàn sốt ruột. Thiếu tướng Bình chắc là cũng cảm thấy như vậy, cho nên, ông đột nhiên, lấy ở xà cột ra, một tờ giấy và nói to “Anh em có muốn xem chữ ký của Bác Hồ không?”
Thế là không khí của buổi nói chuyện thay đổi hẳn. Tất cả mọi người đều nhao nhao đứng dậy, xin được xem tận mắt chữ ký của Bác Hồ. Mọi người trao nhau bức thư, ngắm nghía chữ ký của Bác và phấn khởi vô cùng.
Khi ra về, Thiếu tướng Bình tâm sự với tôi “May quá, tôi có đem theo bức thư của Bác. Buổi găp mặt tiểu đoàn Mê Kông, thành công ngoài dự kiến của tôi, là nhờ có chữ ký của Bác.”
Một chữ ký của Bác mà biến một cuộc nói chuyện, từ nhạt nhẽo biến thành một thành công lớn. Điều này rất có ý nghĩa, vì tiểu đoàn Mekong gồm toàn đồng bào Việt kiều Thái Lan về nước lần đầu tiên để tam gia kháng chiến. Bài nói chuyện của Thiếu tướng Phó tổng Thanh tra Quân đội phải gieo ấn tượng tốt đối với họ, và chính nhờ có bức thư với chữ ký của bác mà cuộc nói chuyện của Thiếu tướng Bình đã thành công ngoài dự kiến!
Sau này, khi ra chiến khu Việt Bắc, công tác ở Phủ Thủ tướng, tôi có cơ hội tham gia nhiều hội nghị chính quyền toàn quốc, các đại biểu các tỉnh về dự, chủ yếu là đại biểu các tỉnh từ Thanh Nghệ Tĩnh trở ra. Cứ mỗi lần Bác Hồ đến thăm những hội nghị như vậy, thì cả hội trường sôi động lên. Tôi thấy có những đại biểu, kể cả phụ nữ, được gặp Bác lần đầu tiên mừng rỡ đến rơi phát khóc, thậm chí tuy có những người tuy đứng tuổi mà nhảy cỡn lên như là được vàng. Trước những cảnh tượng cảm động như vậy, tái diễn nhiều lần trong các cuộc hội nghị toàn quốc, tôi càng cảm thấy, dân tộc Việt Nam thật là may mắn có được một lãnh tụ tầm cỡ như vậy, đạo đức như vậy. Tôi nhớ mãi không quên lời tâm sự của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, khi bác sĩ đến thăm Quân khu trên đường bác sĩ vào Nam. Bác sĩ nói với tôi “Nếu Bác Hồ bảo tôi nhảy vào lửa, thì tôi nhảy ngay không do dự”. Đây là lần cuối cùng tôi gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, vì sau đó, trên đường vượt Trường Sơn vào Nam, bác sĩ bị tử nạn.
Bác Hồ có gen Phật giáo chăng?
Tôi từng hỏi mình câu hỏi như vậy, sau hai lần chứng kiến Bác đến thăm chùa trong những ngày tháng đầu rất bận rộn của cuộc Cách Mạng Tháng tám. Lần đầu, ở chùa Quán sứ, trong câu chuyện tôi vừa kể. Lần thứ hai, tại chùa Bà Đá, nhân dịp lễ Phật Đản, sau khi Bác ký Hiệp định tạm thời mùng 6 tháng 3. Như chúng ta đều biết, sau cuộc Hội nghị Việt-Pháp Fontainebleau thất bại, Bác vẫn ở nán lại nước Pháp, làm một cố gắng cuối cùng, để tránh một cuộc chiến tranh Việt-Pháp gần kề. Cố gắng đó chính Thỏa ước Tạm thời mùng 6 tháng 3, cho phép quân đội Pháp vào đóng một số nơi trong nước ta, kể cả Hà Nội.
Bọn Quốc Dân Đảng phản đối ầm ĩ, không biết đấy chỉ là một nhượng bộ chiến lược để quân dân ta có thời gian chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến, mà Bác đoán biết là lâu dài và gian khổ. Sau khi đi dùng cơm với Hòa Thượng trụ trì, Bác đến trước chánh điện, niệm hương, và nói lên rất rõ câu khấn như sau:
“Trên thì có ông Phật, dưới thì có ông dân, Hồ Chí Minh này thề không bao giờ bán nước!”
tất nhiên, đây là một câu khấn có ý nghĩa chính trị, nhưng tại sao lại nói lên ở nhà chùa, và cùng lấy Đức Phật và ông dân làm chứng?
Phải chăng, Bác biết rất rõ Phật giáo Việt Nam từ suốt hơn 19 thế kỷ tồn tại trên đất nước Việt Nam, bao giờ cũng sát cánh với dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm quyền lợi của mình. Phải chăng gen Phật giáo hiện hữu ở trong Bác, cũng như trong các lãnh tụ cộng sản khác của Việt Nam như Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giápv.v...
Đồng chí Lê Duẩn ca ngợi có bà mẹ rất hiền lành, vì có lòng tin Phật, và vài ngày trước khi lâm bệnh qua đời, đồng chí có đến thăm chùa Quán Sứ. Tình cờ, tôi cũng có mặt ở chùa vào ngày đó, cho nên tôi ghi lại sự kiện này.
Tôi gặp Cố vấn Phạm Văn Đồng lần cuối cùng là ngày 2-9-1998. Sau cuộc nói chuyện kéo dài gần suốt buổ sáng, tôi xin cáo từ về, có ngờ đâu đây là lần gặp mặt cuối cùng với người thủ trưởng đáng kính. Vì sau năm 1989, ngài không trở lại Tp. Hồ Chí Minh nữa. Ngài Phạm Văn Đồng thay vì bắt tay tôi, lại xăn tay áo, bảo tôi thử nắn tay ngài. Tôi khen “Cánh tay rắn chắc lắm!” Vì tôi bóp mạnh mà không thấy ngài kêu đau. Ngài nói “Tôi khỏe thế này là nhờ Đức Phật.”
Còn cảm tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có thể thấy rõ qua ảnh của Đại tướng ngồi thiền, được đăng trên một số báo Tuổi Trẻ... Tôi nghĩ rằng Bác Hồ, cũng như một số lãnh tụ cộng sản học trò Bác, đều phải có gen đạo Phật ở trong mình, cho nên mới có những cử chỉ như vậy, những lời nói như vậy. Có lần, tôi đến tỉnh Đồng Tháp giảng một lớp cao học. Lớp dạy kéo dài hơn 1 tuần, cho nên tôi có thì giờ rỗi, vào một buổi chiều thứ Năm, đi thăm lăng cụ Nguyễn Sinh Sắc. Tôi được hướng dẫn xem các di vật do cụ Nguyễn Sinh Sắc để lại, đặc biệt có một câu đối chữ Hán. Một câu đối mà chỉ đọc một lần là cứ nhớ mãi không quên:
“Đại đạo quảng khai, thỏ giác khiêu đàm đế nguyệt.
Thiền cơ giáo dưỡng, quy mao phược thụ đầu phong.”
Tạm dịch:
Đạo lớn mở rộng (giống như) lấy sừng thỏ vớt trăng đáy ao.
Dạy dỗ đạo Thiền (giống như) lấy lông rùa buộc gió đầu cây.
Đây là câu đối, cụ Phó bảng đề tặng chùa Kim Tiên ở Cai Lậy vào dịp công việc trùng tu chùa hoàn tất năm 1922. Câu đối tuy có người khen, kẻ chê, nhưng mọi người đều phải thừa nhận tác giả, cụ Phó bảng Sắc, tuy là nhà Nho, nhà hoạt động cách mạng, nhưng đồng thời cũng là nhà Phật học uyên bác. Ở đây, không phải là nơi, là lúc bàn về ý nghĩa thâm thúy của câu đối. Chúng ta cũng biết, trong những ngày lưu lại Sài Gòn, cụ Phó bảng cư ngụ ngay tại chùa Từ Ân ở chợ Lớn, thường xuyên liên hệ bàn bạc với nhà sư trẻ Thiện Chiếu, xung quanh hai chủ đề lớn: Chấn hưng Phật giáo và giải phóng dân tộc. Vì vậy, khi tôi viết về Hồ Chủ tịch có “gen” đạo Phật chăng, tuy là một câu hỏi tự hỏi mình, nhưng cũng đề ra cho các nhà Mác-xít học Việt Nam suy nghĩ. Ở đời này, có cái gì là ngẫu nhiên đâu. Mọi chuyện đều có nhân, có duyên cả.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."