[justify]Khoa học và tôn giáo có điểm chung gì không? Khoa học và tôn giáo có loại trừ hay có khả năng dung hoà với nhau? Mấy câu nhận định của Albert Einstein về khoa học và tôn giáo như: "Khoa học không có tôn giáo là khoa học què; tôn giáo mà không có khoa học là tôn giáo mù." "Nhân loại là một người điên. Khoa học kỹ thuật là cái búa. Chúng ta đang đặt cái búa vào tay một người điên!" [dẫn lại từ quyển Đại Cương Triết Học Phương Đông, phần I, Minh Chi viết]. Về sự lựa chọn của khoa học đối với tôn giáo tương lai và sự thích ứng của nó. Về sự ca ngợi đạo Phật của Einstein như ông đã viết trong di chúc của mình:" The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism"
Giáo sư Minh Chi là người nhà nghiên cứu về triết học và Phật học lâu năm. Ông rất quan tâm đến vấn đề này. Vào thời điểm các dịch giả như Phạm Văn Thiều-Ngô Vũ dịch các tác phẩm của Gs. Trịnh Xuân Thuận, một nhà vật lý-thiên văn hiện đại, người Mỹ gốc Việt, ông cũng đã dịch một số bài trong quyển "L’infini dans la paume de la main" mà ông dịch là Vô Biên Trong Lòng Bàn Tay. Ông chỉ dịch những chương có liên quan nhiều đến đạo Phật. Ngôn ngữ của ông thật thâm thuý.
Nhiều người có thể đã đọc quyển Cái Vô Hạn Trong Lòng Bàn Tay dịch từ L'INFINI DANS LA PAUME DE LA MAIN của Trịnh Xuân Thuận và Matthieu Ricard. Tôi có trong tay một số bài của ông về quyển L'INFINI DANS LA PAUME DE LA MAIN đã được đăng hầu hết trên Nguyệt San Giác Ngộ. Tôi có nhã ý post lên đây để mọi người cùng thưởng thức và chia xẻ.
Trân trọng được giới thiệu một loạt bài dịch của GS. Minh Chi về quyển L'INFINI DANS LA PAUME DE LA MAIN.
VVT.[/justify]
[center]NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ GIỮA KHOA HỌC
VÀ PHẬT GIÁO[/center][center]Minh Chi
Học Viện Phật Giáo Việt Nam[/center]
[justify]Lời người giới thiệu:
Matthieu Ricard, người Pháp, không chỉ là tu sĩ, thầy đỗ tiến sĩ sinh học tế bào ở Viện Pasteur (Paris). Thầy từng sống ở vùng Hymalaya 25 năm, và bây giờ đang tu học tại tu viện Schechen tại Nepal. Như vậy, để chúng ta biết, người đối thoại với giáo sư vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận không phải chỉ là một tu sĩ có 25 năm kinh nghiệm tu tập miệt mài mà còn là một nhà khoa học. Trong phần dẫn nhập cho cuốn sách ghi lại một nội dung cuộc đối thoại, thầy viết: “Khoa học là một công cụ không phải tốt cũng không phải xấu. Đề cao hay mạt sát nó cũng như đề cao hay mạt sát sức mạnh vậy. Sức mạnh của bàn tay có thể cứu một mạng sống hay diệt một mạng sống… Khoa học không tạo ra sự minh triết. Nó chứng tỏ nó có thể tác động đến thế giới nhưng lại không làm chủ được thế giới. Chỉ có những đức tính nhân bản mới có thể hướng dẫn chúng ta sử dụng thế giới như thế nào. Mà những đức tính đó chỉ có thể nảy sinh từ một “nền khoa học tâm linh”. Phương pháp tiếp cận tâm linh không phải là một trò chơi xa xỉ mà là một tất yếu. Dưới đây là tóm tắt bài phát biểu kết luận của Ricard, khi kết thúc cuộc đối thoại với giáo sư Trịnh Xuân Thuận.
(Minh Chi)
MATTHIEU RICARD: Khoa học nghiên cứu “những dữ kiện quan sát được”, còn các thuyết vật lý thì giải thích những dữ kiện đó. Như Niels Bohr (1) viết: “Mục đích của khoa học là tăng thêm và hệ thống hóa thực nghiệm của chúng ta. Mục đích của khoa học không phải là phát hiện bản chất của các hiện tượng (2) và hy vọng của các ngành khoa học cơ bản hiểu biết được bản chất của thực tại hình như là hy vọng hão huyền. Tuy rằng, các ngành khoa học, nhờ tập trung vào nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, đã hoàn thiện được những phương pháp chính xác, nhằm phát hiện, đo đạc, mô tả chúng và tác động đến chúng một cách có hiệu quả. Thế nhưng các ngành khoa học lại tỏ ra bất lực không giải đáp được những vấn đề cơ bản của nhân sinh: Vì sao chúng ta lại sinh ra ở đời này, và vì sao chúng ta chết? Vì sao chúng ta đau khổ? Vì sao chúng ta hạnh phúc? Vì sao chúng ta yêu thương nhau hay thù ghét nhau? v.v…
Sự bất lực đó của các ngành khoa học tự nhiên cũng không có gì đáng trách, bởi lẽ những ngành khoa học đó không bao giờ đề ra mục đích giúp chúng ta tìm kiếm hạnh phúc, hay là tạo ra hòa bình xung quanh chúng ta. Các ngành khoa học cơ bản của tự nhiên chỉ có mục đích mô tả và tìm hiểu tự nhiên. Tuy ý định đó là đáng khen, thế nhưng nghiên cứu khoa học của các vì sao hay là phân loại côn trùng không thể có ý nghĩa quan trọng ngang bằng những vấn đề cơ bản nhất của nhân sinh. Nếu chúng ta xét lại những giây phút có ý nghĩa nhất của cuộc đời chúng ta, thì chúng ta phải nói tới tình yêu, tình bạn, tình thương, niềm vui của sự sống, vẻ đẹp của cảnh quan tự nhiên, niềm vui của nội tâm, tình thương đồng loại.
Nói chung, khoa học không có tiếng nói trong những vấn đề như vậy. Còn về mặt ứng dụng của khoa học, thì những lĩnh vực sau đây của đời sống được ảnh hưởng tích cực. Săn sóc y tế, tuổi thọ, phạm vi hoạt động tự do của con người, tiện nghi đời sống. Chất lượng săn sóc y tế được cải thiện nhiều, mặc dù có sự chênh lệch quá đáng (trung bình 2.765 đô la/ năm chi phí y tế công và tư trên một đầu người ở Mỹ và 3 đô la / năm ở Việt Nam. Nếu phạm vi hoạt động tự do vật chất, tiện nghi sinh hoạt, khả năng tác động của chúng ta đối với thế giới tăng lên không ngừng, thì trái lại nhiều mặt của đời sống chúng ta lại xấu đi. Chúng ta đã làm ô nhiễm hầu như toàn bộ những gì có thể bị ô nhiễm được. Nhiều tai nạn và nguy hiểm mới đe dọa hành tinh chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi, con người có được sung sướng gì không khi phải sống trong một thành phố bị ô nhiễm bởi các khí độc, đồ nhựa, ức chế thần kinh, dân số đông quá mức cùng những mặt tiêu cực khác của cuộc sống hiện đại. Đó là hậu quả của giáo điều phát triển công nghệ và kinh tế bằng mọi giá.
Tuy nhiên, khoa học là trung lập. Nó không có tư tưởng riêng của bản thân nó. Tất cả đều tùy thuộc chúng ta sử dụng nó như thế nào, tùy thuộc vào động cơ của con người.
Đối với tôi (Ricard), cạnh khía hấp dẫn nhất của cuộc gặp gỡ giữa Đạo Phật và các ngành khoa học tự nhiên là ở sự phân tích thực tại tối hậu của sự vật (realité ultime des choses). Tôi đã học hỏi được nhiều qua cuộc đối thoại. Cuộc đối thoại giúp tôi đối diện những vấn đề mới thuộc cả hai lĩnh vực khoa học tự nhiên và Phật giáo, đặc biệt là vấn đề bản chất của tâm thức, và mối quan hệ tương hỗ giữa các hiện tượng. Đó là những vấn đề cốt lõi của cả ngành vật lý học hiện đại và giáo lý đạo Phật.
Bản chất của tâm thức vẫn là vấn đề hấp dẫn. Phải chăng tâm thức chỉ là não bộ? Phải chăng nó nảy sinh từ vật chất? Phải chăng, như Phật giáo khẳng định, nó có thể tiếp tục tồn tại mà không cần một nương tựa vật chất? Các tu sĩ Phật giáo nó tới những bình độ tâm thức khác nhau, mà họ xác định trên cơ sở một thực nghiệm nội quán đích thực.
Phương pháp của họ xứng đáng được sự chú ý của các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp khoa học thực nghiệm. Đó là một hướng nghiên cứu vô cùng hứng thú, tập hợp các nhà sinh học thần kinh và các tu sĩ hành thiền.
Còn tôi có thể nói gì đây về gợi ý của giáo sư Thuận, là có thể có một nguyên lý tổ chức vũ trụ?
Chắc chắn là vấn đề nguồn gốc ban đầu đòi hỏi một lập trường siêu hình học (prise de position métaphysique). Chúng ta hãy nhắc lại đây câu nói của Francois Jacob: “Cả một lĩnh vực hoàn toàn tách khỏi mọi tìm tòi nghiên cứu khoa học, đó là lĩnh vực về nguồn gốc của thế giới” (3)
Nhưng đối với đạo Phật, khi người ta đặt vấn đề một điểm khởi đầu, thì lập trường siêu hình đứng vững trước mọi thử thách phân tích là không có điểm bắt đầu. Bất cứ một lập trường nào khác đều dẫn tới hàng loạt mâu thuẫn, như: một nguyên nhân không có nguyên nhân, một cái gì bất biến lại biến đổi, hay một cái hư không lại trở thành một cái gì đó.
Còn về câu hỏi của Leibniz: “Sao lại có cái gì đó, thay vì không có cái gì cả” mà giáo sư Thuận đã nhắc lại, thì tôi cho rằng, câu hỏi đó chỉ có ý nghĩa, nếu chúng ta đứng trên quan điểm thực tại duy vật luận. Nghĩa là, một quan điểm chấp nhận các hiện tượng tồn tại như là thực thể.
Còn đưa ra một nguyên lý tổ chức vũ trụ cũng là vô nghĩa, bởi lẽ, có thể đặt câu hỏi như Leibniz “Tại sao có một nguyên lý tổ chức, thay vì không có cái gì cả?”
Theo đạo Phật, câu hỏi đó của Leibniz có thể diễn đạt lại bằng hai cách. Cách thứ nhất: “Vì sao lại nảy sinh ra hiện tượng, thay vì không nảy sinh gì hết?”. Trả lời: “Vì là trống rỗng cho nên có thể hiện ra đủ thứ”.
Cách thứ hai: “Vì sao lại trống rỗng, trong khi có thể nảy sinh ra cái gì đó?” Trả lời: “Sự vật không tồn tại, cũng không phải không tồn tại. Cái trống rỗng đó về căn bản không khác gì cái có thể nảy sinh ra.”
Đối với đạo Phật, không có một thực tại nào tồn tại tự nó cả. Giác ngộ chính là không còn thấy sự vật tồn tại tự bản thân chúng, không còn vô minh nữa.
Về lời của giáo sư Thuận: “Căn cứ những quan sát thiên văn gần đây nhất, thì trong vũ trụ không đủ loại vật chất vô hình (matière invisible) để ngăn trở hay là đảo ngược quá trình giãn nở vũ trụ.” Theo tôi, vân đề này hiện nay chưa có một kết luận căn bản nào. Tạp chí phổ cập khoa học của Pháp, Khoa học và đời sống (Science et vie), đã dành số tháng 1 năm 2000 cho vấn đề “Trước Big bang có gì?” Các nhà khoa học đã sôi nổi tranh luận và đề xuất nhiều gợi ý sáng tạo. Andre Linde nói tới một vũ trụ như dòng thác chảy, với những big bang xuất hiện trong từng giây phút một. Maetin Rees nói tới không phải một mà nhiều vũ trụ sóng đôi, tự tái tạo mãi không ngừng, không điểm kết thúc. Theo Gabriele Vaneziano, thì Big bang không phải là khởi điểm của vũ trụ, mà chỉ là một bước ngoặt trong lịch sử của vũ trụ.”
Sự khác biệt và mâu thuẫn giữa những gợi ý cho thấy tính bấp bênh, không vững chắc của mọi giả thuyết về sự khởi đầu của vũ trụ.
Theo đạo Phật, sở dĩ các nhà khoa học phương Tây có những tư tưởng lộn xộn về điểm khởi đầu vũ trụ, là vì từ rất lâu họ đã bám chặt vào định kiến thâm căn cố đế sự vật là có thật, và đã có thật thì phải có cội gốc ban đầu của chúng. Định kiến này chỉ được gạt bỏ khi các nhà khoa học biết rút ra những kết luận thích đáng từ những phát hiện của ngành cơ học lượng tử.
Trả lời câu thách thức của Steven Weinberg, giải thưởng Nobel vật lý: “Chỉ có tôn giáo mới có thể thúc đẩy những người tốt làm những chuyện xấu xa”, người ta có thể trả lời ông theo kiểu giáo điều: “Chỉ có ngành tâm linh mới có thể thúc đẩy những người xấu làm những chuyện thiện lành”. Không, tôi không trả lời Weinberg theo kiểu giáo điều và thách thức như thế. Phương pháp nội quán của đạo Phật tuy giúp chúng ta siêu việt giới hạn của lý trí, nhưng điều này không có nghĩa là, trước đó, phương pháp của đạo Phật mâu thuẫn với lý trí. Triết lý và phương pháp nội quán của đạo Phật không nhằm mục đích xây dựng một cấu trúc lý thuyết đồ sộ và đòi giải thích tất cả. Ngược lại, nó đòi hỏi những chuyển biến nội tâm cụ thể.
Đạo sư Tây Tạng Khyentsé Rinpoche khuyên chúng ta như sau: “Dấu hiệu của sự minh triết là làm chủ được mình, và dấu hiệu của thực nghiệm tâm linh thành thục là không còn có những cảm xúc tiêu cực và mâu thuẫn nữa. Khi một người trở thành minh triết và uyên bác, thì cũng trong mức độ như thế, anh ta phải trở thành bình thản, an tịnh, và kỷ luật chứ không phải cẩu thả, kiêu hãnh và tự cao tự đại. Phải thường xuyên kiểm tra bản thân, xem mình có thể sử dụng được thực nghiệm tâm linh để chế ngự được những cảm xúc tiêu cực của mình hay không. Nếu có một thực nghiệm nào đó đem lại những kết quả trái ngược làm tăng trưởng tính vị kỷ, khiến tâm loạn, và nảy sinh những cảm xúc tiêu cực, thì phải thôi ngay. Thực nghiệm đó không thích hợp với anh.
Tuy chúng ta phải tin vào lời hướng dẫn của những đạo sư có kinh nghiệm, có một nhận thức siêu việt hơn chúng ta nhiều, cũng như đi biển thì phải tin vào lời khuyên của những thủy thủ giàu kinh nghiệm, nhưng chúng ta cũng không được chấp nhận một lời khuyên, chỉ vì người tuyên bố là một nhân vật mà chúng ta kính trọng. Giá trị của những lời đức Phật chính ở chỗ, mỗi người chúng ta đều có khả năng kiểm nghiệm tính xác thực của những lời đó.
Francois Jacob viết như sau: “Nguy hiểm đối với nhà khoa học là không lượng định những giới hạn của ngành khoa học của mình, tức là giới hạn của kiến thức mình. Tức là lẫn lộn điều mình tin với điều mình biết. Và đặc biệt nguy hiểm là niềm tin chắc rằng mình có lý.” (4)
Lời cảnh cáo của Jacob có giá trị không những đối với nhà khoa học mà cả đối với ngành tâm linh nữa.
Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, các cuộc cách mạng liên tục trong kiến thức đối với tự nhiên, cho thấy khái niệm gọi là “niềm tin chắc tối hậu” thật là mỏng manh và bấp bênh.
Còn trong lĩnh vực tâm linh, sự giác ngộ tâm đem lại một niềm tin, được kiểm nghiệm thường xuyên và liên tục bởi thực nghiệm. Niềm tin đó thể hiện bằng một nhận thức vững chắc không thay đổi về bản chất của sự vật, và bằng những đức tính nhân bản, mà chúng ta ai nấy đều muốn có. Nếu thiếu những đức tính nhân bản này, thì dựng lên những cấu trúc trí thức đồ sộ như lâu đài trên hồ đóng băng để làm gì? Những lâu đài kiểu đó sẽ mất hút dưới nước, mỗi khi mùa xuân đến. Một thực nghiệm tâm linh, chỉ dùng thuần những khái niệm, không thể hiện được bằng những chuyển biến sâu sắc của toàn bộ con người chúng ta, cũng sẽ không đứng vững nổi trước những thử thách của cuộc sống.
Theo đạo Phật, nhận thức về tánh không rỗng của sự vật thể hiện bằng một tình yêu, tình thương không giới hạn và bến bờ. Như đạo sư Tây Tạng Shabkar viết:
“Ai có lòng bi thì nắm được mọi giáo lý.
Ai không có lòng bi thì không nắm bắt được bất cứ giáo lý nào.
Ngay người suy tư về tính không rỗng (của sự vật).
Cũng cần có lòng bi, vì lòng bi là cốt lõi của tính không rỗng đó”. (5)
CHÚ THÍCH
(1) Neils Bohr – Atomic theory and the description of Nature (Lý thuyết nguyên tử và mô tả thiên nhiên). Tr 18, bản Anh văn.
(2) Niels Bohr. Physique atomique et connaissance (Vật lý nguyên tử và kiến thức con người), tr 283, bản Pháp văn.
(3) Fraincois Jacob – La Souris, la Mounche et I’Homme (Con chuột, con ruồi và con người).
(4) Francois Jacob – cùng cuốn sách trên đã dẫn.
(5) Shabkar – Tiểu sử tự thuật của một đạo sư Du Già Tây Tạng, bản dịch Pháp văn của M. Richard và C. Busquet, Albin Michell, 1999.
Michel Botnol – A cure of metaphysical illusions. Kant, quantum Mechanics and the Madhyamaka, trong tập Buddhism and science (Chữa trị những ảo tưởng siêu hình học. Kant, cơ khí lượng tử và thuyết Trung quán), trong tập sách đang chuẩn bị của B. A. Wallace: Đạo Phật và khoa học).[/justify]