Vài nét về văn hóa Malaysia

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về văn hoá tâm linh, văn hoá tín ngưỡng, văn hoá tôn giáo...

Vài nét về văn hóa Malaysia

Gửi bàigửi bởi Quang Tuan » Thứ 2 20/12/10 11:16

Mời cả gia đình chúng ta đến với Malaysia........cùng tìm hiểu và cùng thảo luận nhé....
Malaysia là một đấy nước đa văn hóa do sự hòa trộn của những nền văn hóa Mã Lai, Trung Quốc, Ấn Độ ..v..v..và nền văn hóa bản địa Orang Asli (thổ dân)……….
Mặc dù ở Malaysia có những con đường và những tòa cao ốc hiện đại và họ ứng dụng những công nghệ truyền thông hiện đại nhất, người dân Malaysia vẫn bảo tồn những truyền thống, phong tục xa xưa và vẫn giữ gìn những giá trị truyền thống. Người Malaysia nổi bật với tính cách nồng nhiệt và thân thiện, đó là một điểm nổi bật tượng trưng cho một đất nước giàu truyền thống của họ
Đến Malaysia chúng ta nên ăn mặc chỉnh tề và cư xử lịch sự. Hầu hết các gia đình ở Malaysia muốn khách đến nhà bỏ giày dép phía ngoài trước khi vào nhà. Khách sẽ được mời bánh ngọt và nếu từ chối sẽ được cho là mất lịch sự.
Người Mã Lai chiếm da số dân số Malaysia. Người Mã Lai là những người theo đạo Hồi chính thống, họ không uống rượu và ăn thịt heo vì đây là những điều cấm ky5theo tín ngưỡng đạo Hồi. Người Mã Lai chỉ ăn những thực phẩm được nấu nướng theo nguyên tắc của đạo Hồi và những món ăn được gọi chung là halal. Nhiều người Mã Lai và Ấn Độ thích ăn bằng tay vì thế việc đựng thức ăn trong lòng bàn tay và việc người ta sản xuất rất nhiều các loại hóa chất để rửa tay trước và sau khi ăn không có gì là lạ ở đất nước này.
Một bộ phận lớn người dân ở Malaysia có tổ tiên là người Trung Hoa. Một bộ phận dân số nữa ở Malaysia là người gốc Ấn Độ và Srilanka. Họ chủ yếu theo đạo Hindu, Sikh, đạo Phật, đạo Thiên Chúa và sử dụng tiếng La Tinh như là tiếng mẹ đẻ.
Như vậy, văn hóa Malaysia là một nền văn hóa đa màu sắc, cùng sự kết hợp những nét riêng biệt của văn hóa lớn trên thế giới như Trung Hoa, Nam Ấn, văn hóa bản địa cùng tồn tại và ăn sâu vào nền văn hóa nước này. Ngày nay, văn hóa Malaysia là văn hóa tiêu biểu của một quốc gia Hồi giáo. Văn hóa "hồi giáo"như là điểm nổi bật nhất trong thế giới Malaysia cả về mọi mặt. Bên cạnh đó, cũng có sự pha trộn giũa các nền văn hóa tạo nên một sắc thái kì lạ trong văn hóa Malaysia cả về âm nhạc, ngôn ngữ, kiến trúc, ... chẳng hạn như âm nhạc truyền thống Malaysia vừa ảnh hưởng nhiều từ phong cách Trung Quốc vừa Hồi giáo. Âm nhạc chủ yếu dựa vào gendang (trống), và phần nhỏ các loại bộ gõ khác (một số làm bằng các loại vỏ và mai): Đây là một số trong âm nhạc của Malaysia mà chúng ta thường gặp: rebab – một nhạc cụ dây hình cung; serunai, nhạc khí hai lưỡi như oboe; sáo, và trumpet.
Ngoài ra, sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Thái, Bồ Đào Nha cũng đã tô thêm áng sáng cho nền nghệ thuật của văn hóa Malaysia điển hình nhất là: truyền thống múa và kịch múa lâu đời, có nguồn gốc từ những nước này.

* Văn hóa Mã Lai

Tháng ăn kiêng Ramadan và lễ hội Hari Raya Aidilfitri

Ramadan là tên gọi tháng thứ 9 theo lịch của đạo Hồi, đây là tháng lễ quan trọng đối với tất cả tín đồ Hồi giáo. Tháng Ramadan được thống nhất bắt đầu vào ngày 16/9 dương lịch cho toàn thể cộng đồng Hồi giáo trên thế giới.
Trong tháng lễ này, tất cả tín đồ Hồi giáo từ tuổi dậy thì trở lên phải nhịn ăn uống và quan hệ tình dục từ lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời lặn. Đồng thời, họ cũng thường xuyên đọc kinh Koran và kiêng trừ mọi hành vi xấu trong tháng này. Vào cuối ngày, thường là sau 7 giờ tối, các gia đình Hồi giáo sẽ tổ chức một buổi tiệc thịnh soạn, và họ mời cả những người không theo đạo Hồi đến dùng bữa chung.
Ngày cuối cùng của tháng Ramadan là lễ hội Hari Raya Aidilfitri. Người dân Malaysia bắt đầu ngày lễ này bằng việc đi nhà thờ, cầu nguyện và xin tha thứ, sau đó họ tổ chức tiệc, mời bà con, bạn bè đến cùng thưởng thức những món ăn truyền thống.

* Văn hóa Đạo Hồi

Hơn 60% dân số Malaysia theo đạo Hồi, vì thế văn hóa chung tại đây chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Hồi giáo. Người Malaysia đa số không uống rượu và không ăn thịt heo – những điều cấm kị của đạo Hồi. Họ chỉ ăn những thức ăn được nấu nướng theo nguyên tắc của đạo Hồi và những món ăn gọi chung là Halal (những món ăn không phù hợp với tín ngưỡng thì gọi là Haram).
Đến Malaysia bạn sẽ thấy nhiều phụ nữ che đầu bằng một cái khăn choàng gọi là “tudung”, người Hồi giáo, đặc biệt là phụ nữ ăn mặc rất kín đáo và giản dị. Ngày thứ sáu được xem là một ngày linh thiêng đối với người Hồi giáo, do đó vào ngày này, giờ nghỉ trưa thường được kéo dài hơn và đàn ông Hồi giáo thường đến cầu nguyện tại những nhà thờ gần nơi làm việc hoặc nơi ở.

* Trang phục và giao tiếp

Người Malaysia thường mặc áo dài bằng vải hoa, nam giới mặc áo sơ mi không cổ và không được để hở cánh tay, đùi ở những nơi công cộng. Phụ nữ thường mặc áo dài tay. Vì thế, những du khách đến Malaysia được khuyến cáo nên chọn lựa những trang phục lịch sự, kín đáo, đặc biệt khi đến những nơi thờ tự.
Khi đến thăm các gia đình ở Malaysia, bạn nên để giày dép phía ngoài trước khi vào nhà và không nên từ chối khi được mời bánh ngọt, vì nếu từ chối sẽ bị cho là mất lịch sự. Và hãy nhớ, khi cho hoặc nhận tiền, quà hãy dùng tay phải! Tay trái bị xem là không sạch sẽ, vì thế khi ăn uống bạn cũng nên nhớ chỉ sử dụng tay phải và phải rửa tay trước khi ngồi vào bàn ăn.
Khi gặp nhau, người Malaysia có thói quen sờ vào lòng bàn tay của nhau, sau đó chắp tay lại. Tuy nhiên, họ rất kịiêng kỵ việc xoa đầu và lưng người khác. Trong giao tiếp, họ thường bàn luận về công việc buôn bán, thành tựu xã hội, lịch sử, bóng đá… Thật không hay khi bàn luận về chính trị, chủng tộc, mức sống với người Malaysia.
Nhìn chung, người Malaysia nổi tiếng với tính thân thiện và lòng hiếu khách. Có lẽ vì thế du khách vẫn cảm thấy rất thoải mái khi đến thăm đất nước này mặc dù nơi đây có những điểm văn hóa hơi khác biệt.
RANDOM_AVATAR
Quang Tuan
 
Bài viết: 113
Ngày tham gia: Thứ 6 15/10/10 21:50
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 5 lần

NHỮNG VẾT TÍCH VĂN HÓA MÃLAI TẠI VIỆT NAM

Gửi bàigửi bởi Quang Tuan » Thứ 2 20/12/10 11:20

NHỮNG VẾT TÍCH VĂN HÓA MÃLAI TẠI VIỆT NAM

Mã Lai và Việt Nam có mối liên hệ văn hóa đã lâu, vì ngoài đồng bào Thượng ở Cao Nguyên, sắc tộc thiểu số dưới đồng bằng còn có người Chăm: người Chăm tại vùng duyên hải Trung Phần Việt Nam và Chăm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thuộc tỉnh Châu Ðốc. Nhưng văn hóa Mã Lai có liên hệ đến người Chăm ở Châu Ðốc ra sao? Cuốn “Bangsa-Champa-Tìm Về Cội Nguồn Cách Xa” của hai tác giả Dohamide và Dorohiêm nói về bóng dáng của nền văn hóa Mã Lai trong sắc tộc Chăm tại Châu Ðốc Việt Nam như sau, xin trích:
“Java là tên một quần đảo của nước Indonesia ngày nay, nhưng Java trong dân gian người Chăm khi nói: “người từ Java đến” thực sự là người Mã Lai không hơn không kém. Trong tiếng Chăm Ku hoặc Kur tức là Khmer trong dân gian là Miên. Người Java Ku trên nguyên tắc là người Mã Lai lai Khmer. Về cách ăn mặc thì hoàn toàn không khác gì người Chăm Châu Ðốc, nhưng về thể hình, đáng dấp nói chung thì nước da có vẻ hơi sáng hơn. Người Java Ku sống tập trung ở làng Châu Giang tức Mat Chruk ngay tại bến phà bên kia bờ đối diện với châu thành Châu Ðốc, có một ngôi giáo đường Islam kiến trúc có nóc vòm cổ kính mang tên Masjid Mubarak. Dân cư tại Jam'ah Mubarak (cộng đồng Mubarak) này bao gồm một số người đã thành công trong doanh thương vào thập niên 1940, làm chủ cả một vài chiếc tàu kéo mang tên “Pelican”, “Thái Tường”, “Bam Reo” v.v... một thời nổi tiếng tại Châu Ðốc. Theo các trưởng lão, Jam'ah Mubarak được xây dựng từ một vài ngôi nhà của thương buôn Mã Lai trôi dạt sang lập nghiệp nhiều năm trước khi nhóm người Chăm từ Kampuchea kéo nhau đến định cư tại đây vào khoảng năm 1880 sau khi đã thất bại trong cuộc nổi dậy chống Hoàng gia Kampuchea tại kinh đô Oudong.

Marcel Ner, một học giả Pháp thuộc trường Viễn Ðông Bác Cổ, trong bài viết về người Islam Ðông Dương, cho biết người Chvea hoặc Malayu gốc từ đảo Borneo, nhất là vùng rừng núi Minang Kabau, Sumatra đã di dân ra khắp vùng từ thế kỷ thứ 12, và đến cả Ðông Dương. Họ tỏ ra là những người sống động và gan dạ. Riêng người Chvea Ðông Dương tức nhóm định cư tại Châu Ðốc và Kampuchea thì đến từ vùng Trengganu (Malaysia) và Singapore vào một thời xa xưa không xác định được, có thể do bị một cơn bão thổi tấp vào bờ. Họ thường không mang theo phụ nữ trên ghe thuyền nên sau khi lưu lại ở đâu một thời gian họ cưới phụ nữ bản xứ làm vợ”.
Trải qua nhiều năm, người Malayu đã hội nhập vào xã hội Khmer nên ngôn ngữ pha trộn tiếng Malayu (Mã Lai) và tiếng Khmer nên người Malayu chánh gốc nghe cũng không còn hiểu được, nhưng về căn sắc thì luôn luôn lấy làm tự hào nhắc nhở đến gốc nguồn Malayu. Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp đã bổ nhiệm cố Tằng khạo Mat, một nhân vật trong Jam'ah Java Ku (cộng đồng Java Ku) vào chức vụ Saykhol Islam, tức Chef des Malais đứng đầu các Jam'ah bao gồm cả người Chăm. Từ ngữ “Tằng khạo” được du nhập từ tiếng Hoa, người Chăm gọi là Ta-khao dùng để chỉ người làm ăn lớn.
Như thế, có thể hiểu rằng những jam'ah tại Châu Ðốc, Việt Nam bao gồm cả người Malayu, Java Ku và người bản xứ Việt Nam. Dohamide và Dorohiêm nhấn mạnh:

“Ða số người Chăm vào thời đó sống về nghề chài lưới cổ truyền và một số ngành nghề khác, thường đi làm ăn bằng ghe thuyền trên sông rạch, ít khi chuyên về nông nghiệp, vì một lẽ dễ hiểu là tại Châu Ðốc, người Chăm hầu hết định cư ở ven sông nên không có đủ đất đai canh tác.
“Tuy chỉ là một nhóm bé nhỏ nhưng người Java Ku trong jam'ah Mubarak có đời sống vật chất tương đối dư thừa hơn người Chăm và chiếm số đông nên thường có mặc cảm tự tôn về căn sắc tự cho là Mã Lai của mình mặc dầu về gốc nguồn thì ít có người Java Ku nào xác định được rõ rệt.
Ðức tin Hồi giáo (Islam) đã làm chất xúc tác tạo gắn bó giữa người Java Ku và người Chăm, để rồi lần hồi căn sắc Mã Lai thông qua hệ thống giáo dục tôn giáo hầu như lấn át và bao trùm lên toàn bộ các jam'ah Chăm. Hệ quả là nhiều người Chăm tự nhiên xem mình là người Mã Lai chớ không phải người Chăm, mặc dầu thường ngày vẫn nói tiếng Chăm.

“Hầu hết các vị lãnh đạo tinh thần trong các làng Chăm Châu Ðốc đều là những người Chăm hoặc Java Ku đã từng sống nhiều năm ở Mã Lai để học giáo lý Islam. Nhờ đó những vị này đều nói và viết được tiếng Mã Lai để truyền dạy kinh sách Islam. Một số gia đình khá giả hầu như lúc nào cũng cố xoay xở đưa con em mình sang Mã Lai học đạo để về sau, khi trở về quê, nếu không sung vào giới chức sắc lãnh đạo thì cũng được liệt vào hàng ưu tú, làm nở mặt nở mày dòng họ, được thôn ấp kính trọng giao phó cho làm chức Tuôn chuyên truyền dạy kinh sách tại các Madrasah (trường giáo lý) được cất bên cạnh các masjid (giáo đường Hồi giáo).

“Tiếng Mã Lai, trong bối cảnh kể trên, trở thành tiếng nói của tầng lớp trí thức ưu tú được trọng vọng, và trong các buổi nói chuyện trước đám đông, người ta thường nghe những câu nói rườm rà, các từ ngữ sử dụng khá xa lạ với tiếng Chăm, thoạt nhận tựa hồ như những biểu thức tôn giáo, thực sự lại là lời chào hỏi bằng tiếng Mã Lai không hơn không kém và hầu hết người dân lại thích nghe.

“Khuynh hướng thích gắn bó với căn sắc Mã Lai càng có điều kiện thuận lợi phát triển bởi một lý do thực tế là vào thời này, một số người Java Ku và Chăm thường đi qua Mã Lai hoặc Singapore bằng đường xe lửa qua ngả Kampuchea - Thái Lan mua chăn áo, khăn đội đầu và các vật dụng Mã Lai về bán lại, làm ăn thường rất khấm khá.Trở về thôn ấp Chăm, những người này thường nói khoe về cuộc sống bên Mã Lai “đi góc nào cũng có quán ăn halal” tức quán ăn người Islam có thể ăn được, khác hẳn với bên nhà, đã đánh trúng vào tâm lý người Chăm là đi đâu ra khỏi thôn ấp mình cũng gặp các quán ăn thịt heo mà họ kiêng cữ. Hấp dẫn hơn nữa là những câu chuyện mô tả về nền ca nhạc Mã Lai với các đoàn Kampulan (đoàn hợp ca) được thịnh hành nhờ “nước người ta có vua!” Những sự mô tả này đã tạo nên một lối nghĩ rập khuôn, nhiều tưởng tượng trong dân gian người Chăm Islam vào thập niên 1940 khiến nhiều người sống gò bó trong khung cảnh thôn ấp khép kín, chỉ mong có ngày được đi Mã Lai để biết với người ta!”

Trong lề lối sinh hoạt xã hội, điều quan trọng, có thể nói là trung tâm, là ngành cung ứng quần áo, khăn đội cho phụ nữ, mũ cho thanh niên theo thời trang bên Mã Lai đang trên đường khôi phục nền tự chủ từ thực dân Anh vào thập niên 1950. Người Chăm Châu Ðốc say mê ưa thích những gì đến từ Mã Lai là nhằm vào một chút gì mới mẻ hơn so với những gì họ đã quen dùng từ lâu đời, và lại còn thích hợp với tinh thần Islam nữa.
Nhưng người Chăm Việt Nam không phải là người Mã Lai hay người Indonesia.Theo hai tác giả Dohamide và Dorohiêm, người Chăm ở Châu Ðốc bắt đầu ý thức được điều đó nhờ nhà trí thức, những nhà nghiên cứu người Chăm bỏ Châu Ðốc lên Saigon sinh sống hay học tập. Tại Saigon, họ được tiếp cận một xã hội cao rộng hơn, phức tạp hơn của một đô thị lúc nào cũng ồn ào náo nhiệt, không phải chỉ có người Việt và Pháp mà còn có người Hoa, người Ấn, và nhất là người Mã Lai... Người Ấn Islam hầu hết là những thuộc dân Pháp từ Pondichery, Madras miền Nam Ấn Ðộ theo chân người Pháp sang, có nhiều người là thương buôn giàu có, có cơ sở làm ăn lớn ở đường Catinat (tức đường Tự Do), trung tâm Saigon, từ năm 1929, đã xây dựng được một masjid ở Saigon và một masjid ở Chợ Lớn.

Riêng người Mã Lai, một số gốc ở Mã Lai, một số gốc từ Nam Dương, không dính dáng gì đến người Java Ku ở Châu Ðốc, đã có lập được một masjid có thể xem là lâu đời nhất tại Saigon, trên khoảnh đất thời xưa còn bùn lầy nước đọng của bờ kênh Saigon.
Tác giả Dohamide viết tiếp về thời thanh niên mới lớn của ông ở Saigon: “Tôi cảm thấy được ấm lòng hơn nhờ được gặp và sống gần gũi với một số ít đồng tộc người Chăm cũng rời xóm làng lên Saigon để kiếm sống. Trong những căn nhà chật hẹp xen kẽ với nhà người Việt, mất hút trong các xóm lao động, nơi trú ngụ của họ không còn sát cạnh bên nhau như tại quê nhà, nhưng do bản năng sinh tồn, hầu như không ai bảo ai, họ đã lặng lẽ tìm lại với nhau để nương tựa nhau, trước tiên là tại xóm Nancy thuộc Quận II, Saigon (cũ).

“Do cuộc sống khó khăn trong các thôn ấp có tính chất khép kín tại quê nhà, các đồng tộc Chăm từ Châu Ðốc lên sinh sống tại Saigon ngày càng đông; họ tạm trú rải rác xen lẫn với người Việt trong các xóm lao động ở Khu Tế Bần, Hòa Hưng, Phú Nhuận, v.v... lần hồi hình thành mô thức jam'ah truyền thống, cử người làm Imam điều hành sinh hoạt tôn giáo như ở quê nhà.
“Sự tập họp dìu dắt, nâng đỡ nhau bước đầu, trên căn bản là dựa vào liên hệ thân tộc. Một người lên Saigon tìm được nơi ăn ở và việc làm thì tiếp đó lại tạo điều kiện cho bà con họ hàng cùng nối gót theo, nên những người gắn bó với lập luận tùy thuộc căn sắc Mã Lai gọi là Java Ku nói tiếng Java Ku có điều kiện sinh hoạt riêng, ít khi trộn lẫn với phần đa số còn lại nói tiếng Chăm nên cũng không xảy ra va chạm.
“Chúng tôi sống chung cùng với nhóm người Chăm đa số tại xóm Nancy. Vào thập niên 1950, xóm này bao gồm phần lớn là những căn nhà cây ván lợp lá lụp xụp trong những ngõ hẹp và quanh co, nhiều căn cất tạm bợ trên vũng nước đọng lúc nào cũng xông lên mùi thum thủm. Thỉnh thoảng nhờ làm ăn có tiền, một số căn được xây gạch, lợp ngói hoặc tôn, tạo nên một bộ mặt tương đối sáng sủa hơn, nhưng con đường trong xóm thì chật hẹp không dời đổi.

“Buổi đầu, người Chăm Châu Ðốc mỗi thứ sáu, tùy theo điều kiện di chuyển thuận tiện, thường cùng nhau đến các masjid sẵn có của người Ấn và người Mã Lai tham gia dâng lễ nguyện tập thể. Theo nguyên lý lslam có ghi rõ trong Thiên kinh Qur'An, mọi người lslam đều là anh em (Innamăl muk minu na ikhwa), đều là tạo vật của Ðấng Tạo Hóa Allah, không có phân biệt dân tộc, màu da... Mặc dầu cùng thuộc hệ Sunnah, người Chăm Châu Ðốc và người Mã Lai hành đạo theo trường phái Imam Shafi'y, còn người Ấn thì theo trường phái Imam Hanafy, trong lễ thức tôn giáo có một vài chi tiết khác biệt.

“Trên thực tế, vấn đề ngôn ngữ bất đồng, lại thêm gốc nguồn khác biệt, vẫn khiến nhiều người Chăm Châu Ðốc cùng nhận thấy mình sẽ được thoải mái hơn nếu thành lập được riêng cho người Chăm mình một masjid. Ðiều này đối với những Chăm Châu Ðốc mới chân ướt chân ráo lên kiếm sống tại Saigon quả là một giấc mơ, nhưng đã thúc đẩy một người Chăm có thế lực nhờ giao dịch rộng rãi với các chức quyền người Pháp thành phố thời bấy giờ, tên trên giấy tờ là Danh Mal, trong dân gian thường gọi là “Ông Bảy Mốt” (do tên Islam là Haji Mamod) đứng lên xoay xở gây quỹ và xây dựng được một giáo đường nhỏ đầu tiên bằng cây ván, nằm bên đại lộ Galliéni (tức đại lộ Trần Hưng Ðạo), sinh hoạt xã hội và tôn giáo chẳng mấy chốc đã thấy y khuôn như tại quê nhà ở Châu Ðốc.

“Nhờ có giáo đường này, Jam'ah Nancy đã trở thành một Jam'ah trung tâm, cung ứng chỗ tạm trú cho các đồng tộc đi xe đò từ Châu Ðốc lên đến bến xe vào thời điểm này, nằm ở khu chợ An Ðông, trước khi thu xếp chỗ ở về các xóm khác.
“Cũng do công lao vận động của Haji Mahmod, một hội lấy tên là “Association des Malais de Saigon - Chợ Lớn” (Hội người Mã Lai Saigon Chợ Lớn), đã được thành lập, hoạt động chủ yếu là tạo căn bản pháp lý điều hành masjid (giáo đường), và thiết thực nhất là giao dịch giới thiệu xin việc làm, can thiệp trong các trường hợp liên quan đến giấy tờ hoặc có khó khăn với nhà cầm quyền sở tại.

“Tên hội lấy danh nghĩa “người Mã Lai”, tuyệt nhiên không nhắc gì đến gốc gác Chăm của mình cả, mặc dầu những người có liên quan thường ngày đều nói tiếng Chăm chớ không phải tiếng Mã Lai và cố Haji Mahmod là người Chăm quê ở Plây Kênh chớ không phải người Mã Lai.”
Xem như thế, trong một giai đoạn nhất định của lịch sử Việt Nam, đã có người gốc gác Mã Lai và Indonesia lưu lạc tới vùng đất phía Nam của Việt Nam và họ đã được chấp nhận cho sinh sống trên vùng đất này, tạo thành một cộng đồng tôn giáo-văn hóa cùng với người Chăm Việt Nam ở vùng Châu Ðốc. Dấu vết tôn giáo và văn hóa Malayu và Java Ku ngày nay vẫn còn trong cộng đồng sắc tộc Chăm, dù rằng người Chăm Việt Nam hiện nay đã tìm về cội nguồn, bản sắc của mình.

Người Hồi giáo trên thế giới thường coi sự xâm phạm vào mộ phần những đồng đạo đã chết là trọng tội. Nên một người ta nghĩ rằng chính phủ Mã Lai không nên thực hiện hành động mà mình không muốn đối với những người khác. (VA)

Trích trang Web: http:// http://www.nguoi-viet.com/
(nguoi-viet Online)
Những vết tích văn hóa Mã Lai tại Việt Nam
(Theo Dohamide và Dorohiêm,
Bangsa Champa - Tìm về cội nguồn cách xa)
RANDOM_AVATAR
Quang Tuan
 
Bài viết: 113
Ngày tham gia: Thứ 6 15/10/10 21:50
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 5 lần


Quay về Văn hoá tôn giáo - tín ngưỡng

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến15 khách

cron