Thế giới tâm linh - tin hay không?

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về văn hoá tâm linh, văn hoá tín ngưỡng, văn hoá tôn giáo...

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Chủ nhật 15/05/11 22:40

Cho tôi được góp thêm một tài liệu mà tôi được biết về đề tài này.
Tôi được quen biết cố học giả Minh Chi, người có nhiều bài viết phân tích, mổ xẻ vấn đề này. Các bạn có quan tâm hãy tìm đọc quyển QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI SỐNG-CHẾT, NXB Tổng hợp Tp.HCM 2007 & quyển CÁC VẤN ĐỀ PHẬT HỌC 1, NXB Phương Đông 2011.
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi Giang Trac Duy » Thứ 5 19/05/11 10:16

Minh Phương thân mến!
Thú thật mình là một người theo trường phái chủ nghĩa duy tâm. Mình luôn quan niệm là có một thế giới tâm linh bí ẩn đang tồn tại chính trong đời sống của chúng ta. Sau khi chết con người sẽ đi về đâu? Đó là một câu hỏi đến tận ngày nay chưa có bất kỳ nhà khoa học nào lý giải được một cách rõ ràng. Tuy nhiên mình sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện này liên quan đến thế giới cõi âm, câu chuyện này được giới y khoa ở Mỹ nhắc đến rất nhiều:"Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi, vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩn liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại, bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh.
Sau đó bà Houghton kể lại như sau: “Tôi đang ngồi đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dầy đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng kêu gọi nhưng vô hiệu. Tôi mò mẩm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi không còn sống bao lâu nữa, nên tôi không lấy thế làm buồn. Điều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi léo vào một vũng bùn lầy hôi hám.
Tôi bèn cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, và ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng. Một lúc sau, tôi thấy thân thể nhẹ hổng như có thể bay bổng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên thì thấy mình lơ lửng trên không. Lúc nhìn xuống phía dưới tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ của ai đó để trên nóc tủ thuốc. Đang suy nghĩ vẩn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem trận đấu bóng rổ trên TV, và khi đội Los Angeles Lakers thắng đội Boston Celtics và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho người bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả lướt đi trong hành lang và gặp nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, nhưng không ai nói với ai lời nào. Đa số có vẻ vội vả, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đứng cạnh xác của mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi, nhưng có lẽ anh ta không nghe được. Anh ta đang cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu.
Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc, và tiếng khóc của nó làm tôi khó chịu. Tôi cố trấn tỉnh và nghĩ tới hai đứa con trai thì thấy mình đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn về việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn nàn về việc tôi không mua bảo hiểm nhân thọ. Cả hai chỉ nghĩ về những số tiền mà chúng phải chi hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó lâu tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau về việc phân chia gia tài nên tôi bỏ đi. Tôi lại thấy cả quá khứ đời tôi diễn lại trước mắt tôi như người đang coi phim chiếu bóng. Tôi thấy rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo.
Hơn bao giờ hết tôi thấy rõ mọi sự việc một cách khách quan và vô tư. Và tôi hối hận một cách chân thành. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói lạ lùng, tôi thấy mình bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chấp tay cầu nguyện Thượng Đế xin cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên chói sáng mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được một âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh. Tôi đã tỉnh lại.
Lời khai của bà Houghton đã được Bác sĩ bệnh viện kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực xác nhận có đánh cuộc với nhau về trận đấu bóng rổ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất, cũng như việc chia gia tài. Điều bất ngờ nhất là một bác sĩ trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời tường thuật của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vàng, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ này rất cao gần chạm đến trần nhà, nên người đứng dưới đất không thể nào nhìn thấy, trừ khi họ nhìn xuống từ trên trần nhà".
Khi con người chết đi thì vía của người ấy vẫn còn lảng vảng chung quanh, và nghe thấy được những gì xãy ra. Vì không còn thân xác nên họ có thể di chuyển xuyên qua mọi chướng ngại của không gian. Và khi nghĩ đến người nào thì tức khắc thấy mình ở ngay với người đó. Và như vậy, thái độ của người còn sống rất là quan trọng để giúp cho vong hồn người chết được siêu thoát.
Vì vong hồn người chết lắm khi còn rất u mê, chưa biết rằng mình đã chết và vẫn còn luyến tiếc thân xác của mình, như trường hợp vong hồn của người đàn ông mà bà Houghton đã thấy đang cố sức chui trở vào xác thân cứng lạnh của mình. Còn rất nhiều câu chuyện liên quan đến thế giới của người âm. Tuy nhiên vấn đề có không thế giới tâm linh? Đó còn là một bí ẩn, tùy thuộc vào lòng tin thiêng liêng của con người vào chính tôn giáo của mình. Thân mến.
Hình đại diện của thành viên
Giang Trac Duy
 
Bài viết: 7
Ngày tham gia: Thứ 3 17/05/11 16:11
Đến từ: Cù lao Giêng, Huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 2 23/05/11 23:06

Để góp phần vào chủ đề thú vị này, tôi xin đưa lên một số bài viết của cố GS. Minh Chi đã được công bố trong quyển QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI SỐNG-CHẾT, NXB Tổng hợp Tp. HCM 2007. Chúng tôi có đánh số trang theo quyển sách trên để tiện cho người đọc đối chiếu.

[center][tr.7] CÓ NÊN TIN VÀO SỐ MỆNH HAY KHÔNG? QUAN NIỆM CỦA ĐẠO PHẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY NHƯ THẾ NÀO?Minh Chi
Học viện Phật giáo Việt Nam[/center]

[justify][tr.8] Con người có số mệnh hay không? Có nên tin vào số mệnh hay không? Thái độ của các triết gia và các tôn giáo lớn đối với vấn đề số mệnh như thế nào, và đặc biệt là đạo Phật, một trong những tôn giáo lớn của thế giới, và là tôn giáo lớn nhất, có tín đồ đông nhất ở nước ta hiện nay quan niệm vấn đề số mệnh như thế nào?
Đó là nội dung chủ yếu của bài nói chuyện này. Hy vọng trong một thời gian có hạn định, có thể giải đáp được một vài bức xúc chủ yếu của đông đảo quần chúng hiện nay. Vâng, trong cuộc sống xã hội đầy bất trắc, và đặc biệt là trong thời gian kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ trước đây, rất nhiều chuyện xảy ra, không hư cấu, khiến cho người ta tin là có số mệnh. “Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, may thì sống”, đó là câu thường được nói đến trong suốt thời gian máy bay Mỹ ào ạt dội bom vào miền Bắc nước ta, khi mà giữa cái chết và cái sống, khoảng cách chỉ là một tích tắc đồng hồ hay là trong gang tấc.
Trong một bối cảnh xã hội và đất nước đầy bất trắc và nước sôi lửa bỏng như vậy, số người tin vào chuyện tướng số, bói toán, cầu đảo không [tr.9] phải ít, và ngày càng nhiều. Hiện nay nghề xem bói, xem tướng, nhà đất cũng rất phát đạt. Giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, kỹ sư không ít người đi xem bói, xem tướng.
Hãy đặt câu hỏi: Có cơ sở vật chất gì cho tất cả những chuyện này không?
Con người là sinh vật có lý trí, đối với những tai họa lớn giáng xuống một đất nước, một vùng, một dân tộc hay cá nhân một con người, nhất là những trường hợp đột tử xảy ra cho một người hay một số người… Con người không thể tin đó là ngẫu nhiên, mà tin có sự tác động của những nguyên nhân sâu xa, có thể là siêu nhiên, mà trình độ của con người hiện nay là không thể lý giải được.
Tôi có người bạn cũ là anh Vũ Thơ, nguyên Bí thư tỉnh ủy Ninh Bình. Một lần anh tâm sự: Tôi là Đảng viên cộng sản, là Mác-xít, nhưng có chuyện xảy ra ngay trong tỉnh mà tôi phụ trách, khiến tôi nghi rằng có một cái gì đó không phải là vật chất đứng đằng sau những chuyện đó. Chuyện như sau:
“Cái xã gần Quốc lộ số 1, nối liền Hà Nội với tỉnh lỵ tỉnh Ninh Bình. Một cô gái lâu nay vẫn lười biếng, không hay đi làm. Thế mà hôm ấy, mặc dù trời mưa lất phất, cô lại ra đồng làm cỏ sớm hơn mọi [tr.10] người. Một chiếc ô tô con chạy nhanh trên đường quốc lộ, không hiểu sau trượt bánh, băng ngang qua đường rơi vào đúng chỗ cô gái đang làm cỏ, nhận cô ta xuống bùn chết tươi. Tôi đích thân đến xem xét nơi xảy ra tai nạn. Từ chỗ cô gái làm cỏ đến vệ đường cũng phải đo được gần chục mét, chiếc ô tô phải chạy nhanh lắm mới có thể băng qua gần chục mét được. Tại sao lại xảy ra chuyện như vậy nhỉ, một cô gái hằng ngày vẫn lười không đi làm, tại sau hôm nay lại đi làm trước mọi người ngay trong khi trời còn mưa lất phất…”
Còn bao nhiêu chuyện nữa, cũng vô lý tương tự như chuyện cô gái làm cỏ, xảy ra trong và sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, làm mọi người dù là duy vật Mác-xít cũng phải tin vào số phận hay số mệnh.
Cơ quan thủy sản Hải Phòng trước đây là một ngôi nhà bốn tầng, tôi đã từng đến thăm trong thời gian có chiến dịch máy bay Mỹ dội bom miền Bắc. Một quả bom xuyên đã rơi trúng cơ quan thủy sản, vì là bom xuyên nên nó xuống tận hầm mới nổ, khiÏến cho những người nào nhanh chân xuống hầm trước thì đều chết. Trái lại những ai chậm chân còn ở lại tầng hai tầng ba thì lại không can gì, mặc dầu ai cũng đều hú vía.
Tôi có một anh bạn tên Sự, nguyên là Vụ trưởng Vụ Tài vụ của Bộ Công nghiệp Nặng, khi [tr.11] bộ này còn chưa tách thành nhiều bộ, anh có một cái hầm bê tông ở gần nhà, có thể nói là an toàn 100% để tránh máy bay. Không may cho anh bạn tôi là hôm ấy anh có xuống hầm khi máy bay đến nhưng lại ngồi ở cửa lại không chịu vào sâu bên trong hầm như vợ và con anh. Máy bay Mỹ thả một quả bom tạ vào nhà máy phát điện Yên Phụ nhưng không trúng, bom nổ gây một chấn động dữ dội, anh Sự ngồi ở cửa hầm đầu dập vào thành bê tông, bị vỡ sọ chết ngay tại chỗ. Anh đã chết ở nơi an toàn nhất, làm sau hiểu được?
Vì vậy mà ở miền Bắc, trong thời kỳ máy bay Mỹ ném bom dữ dội đã lưu hành câu nói cửa miệng của nhiều người: “Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, chỉ có may thì sống”.
Cái may đó phải chăng là số mệnh hay số phận? Các triết gia, các tôn giáo cổ kim nhận thức vấn đề số mệnh và số phận như thế nào?

I. Các thuyết túc mệnh luận, định mệnh luận, thiên mệnh luận:

Nói chung, tất cả mọi thuyết dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con người đều thiếu giá trị nhân bản, dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào.
Túc mệnh luận là thuyết cho rằng số phận của con người là do quá khứ trước đây an bài, xếp [tr.12] đặt tất cả, mọi cố gắng hay nổ lực của con người đều vô ích.
Con vua rồi lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa…
Những người ở Trung Quốc xưa nay hay nói câu: “ Nhất ẩm nhất trác, mặc phi tiền định”, nghĩa là ăn một miếng, uống một chén, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Có thể nói, đó là những người theo túc mệnh luận cực đoan.
Định mệnh luận cũng là túc mệnh luận, nhưng cường điệu tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói, số mệnh là quyết định, mọi cố gắng của con người đều vô ích.
Thiên mệnh luận có nhiều nghĩa, không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo, tức là đạo Trời, là luận tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì không có gì sai. Phải chăng đó là ý tứ của Khổng Tử trong Luận Ngữ: “Ngô…ngũ thập niên tri thiên mệnh”–(Ta…năm mươi tuổi thì biết mệnh Trời). Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông trời quy định cho mình thì đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên Phật giáo sẽ bác bỏ thuyết ấy. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên [tr.13] mệnh như là “nguyên lý vận hành và biến hóa của tự nhiên” thì đây không phải là số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tùy thuộc vào phái Tống Nho hiểu luật tắc tự nhiên như thế nào.
Ở chương 16 cuốn “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử cũng nói “phục mệnh”, nhưng trong văn cảnh của chương này, thì mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là số mệnh.
“ Phù vật vân vân, các phục kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh”–(Muôn vật đều phồn thịnh, mỗi vật đều trở về cội gốc của mình, trở về cội gốc thì gọi là tĩnh tức là trở về với mệnh).
Rõ ràng Lão Tử dùng từ mệnh ở đây không phải với nghĩa là số mệnh, mà với nghĩa đạo, tức là cội nguồn của trời đất và muôn vật.
Trong thần hệ của Hy Lạp cổ đại có Thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus, vị Thần tối cao đứng đầu các vị Thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy người Hy Lạp cổ đại tin rằng, tất cả các vị thần, kể cả thần Zeus cũng phải phục tùng số mệnh.
Niềm tin ở số mệnh phổ biến như vậy, lan tràn như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm tin đó có đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó?
[tr.14] Người Pháp có câu: “I’homme propose, Dieu dispose” (Người kiến nghị nhưng Thượng Đế bác đi).
Đây cũng là biểu hiện rõ nét của thuyết mà Phật giáo thường gọi là Thần ý luận, khẳng định mọi sự việc diễn biến trong thế gian này đều do ý muốn của Thượng Đế, và ý muốn đó là siêu việt, vượt lên tầm hiểu biết của con người, cho nên con người chỉ nên phục tùng, không những không được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng Đế.
Thiên mệnh luận cũng là số mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hóa thành Thượng Đế, hay là số mệnh do một nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của thuyết này là một mặt khiến cho con người ta an phận thủ thường, mất hết ý chý phấn đấu, mặt khác lại khiến cho con người trốn tránh trách nhiệm của mình, thậm chí mình giết người đoạt của, nhưng lại tự an ủi: Đó là do Thượng Đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền nhiệm của Thượng Đế.
Phật giáo tôn trọng tất cả các tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng Đế tạo thế. Đó là đường lối thủy chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như những nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các [tr.15] nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo đó về vũ trụ và nhân sinh.

II. Một số tôn giáo và vấn đề số phận, số mệnh.

A.Tôn giáo Hy Lạp cổ đại:

Trong tư tưởng của Hy Lạp cổ đại ,vấn đề số phận (Fate) chiếm vị trí quan trọng, và được biểu trưng bằng ba nữ Thần ngồi dưới một gốc cây ở trung tâm trái đất và quyết định số phận của mỗi người. Vị nữ thần thứ nhất có tên là Clotho, làm nhiệm vụ kéo sợi đan thành số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ hai có tên là Lachesie làm nhiệm vụ phân phối số phận cho mỗi người. Vị nữ thần thứ ba có tên là Atropos, làm nhiệm vụ cắt đứt số phận của mỗi người, tức là quyết định người nào phải chết và chết vào lúc nào.
Tư tưởng số phận đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại. Trong các bi kịch của Sophocle, thầy bói (Oracle) làm chức năng thông tin cho mọi người biết số phận của mình, như là một cái gì [tr.16] đã được quyết định trước rồi. Đặc biệt là hoàn cảnh chết của mỗi người là do số phận đã được quyết định như nội dung vở kịch Oedipe cho thấy.
Trên đây, đã nói về tư tưởng số phận hay số mệnh trong tư tưởng Hy Lạp cổ đại, như trong tác phẩm của Homer cho thấy, ngang qua ba nữ Thần số mệnh nói trên đây, tuy Homer thường dùng số phận hay số mệnh số ít, nhằm biểu trưng cho một sức mạnh siêu nhiên, siêu việt lên trên ý chí con người.

B.Ấn Độ giáo và vấn đề số mệnh:

Ấn Độ giáo, như là tôn giáo thường nói tới một số Thần linh như Vishnu, Siva, Kali có khả năng quyết định số phận của mỗi cá nhân tín đồ, thậm chí đối ngược lại với hướng của nghiệp do cá nhân đó tạo ra.
Nhưng Ấn Độ giáo còn nói tới hai yếu tố khác, cũng quyết định đời sống của con người là nghiệp (karma) và thời. Yếu tố nghiệp cũng tương tự như khái niệm nghiệp của Đạo Phật, nhưng không triệt để và nhất quán bằng đạo Phật. Vấn đề này sẽ được trình bày kĩ trong phần “Đạo Phật thay thuyết số mệnh bằng thuyết nghiệp”.
Còn yếu tố thời của Ấn Độ giáo cũng tương tự như yếu tố thời trong dịch học của Trung Quốc vậy.
[tr.17] Nói chung trong văn chương của Ấn Độ giáo, cả ba yếu tố Thần linh, nghiệp (karma), và thời được nhắc đến. Thí dụ trong cuốn Thánh Ca nổi tiếng “Bhagavad Gita” trong khi hoàng tử Arjuna do tự không muốn xung trận vì kẻ thù không ai khác mà chính đều là bà con, họ hàng thân thuộc cả, thì Thần Krishna đóng vai trò người lái binh xa cho Arjuna, đã hiện nguyên hình và giảng giải cho Arjuna là phải xung trận, vì số phận của kẻ thù là bị tiêu diệt. Nội dung của tập Thánh Ca Bhagavad Gita cho thấy, chi phối sự diễn biến của tình hình là ý chí của Thần Vishnu cộng với sức mạnh của nghiệp (karma).
Nói chung, phần lớn những người theo Ấn Độ giáo đều tin, những sự kiện của cuộc đời, như thân phận tái sanh, sức khoẻ nói chung, người vợ tương lai hay chồng tương lai, số phận và giới tính của con, thời điểm chết đều là những sự kiện được xác định trước bởi nghiệp (karma), hình thành từ trong đời sống quá khứ.
Một số tín đồ Ấn Độ giáo tin rằng, sự cố hay là tác động của một Thánh thần có thể đem lại cái chết đột tử cho một người nhất định, và trái lại, việc xuất gia, sống lánh ở một thánh địa rất có thể thay đổi số phận của một con người.
[tr.18] Ở Nam Ấn, trong vùng cư trú của người Tamils, người ta tin rằng số phận của một con người đã được an bài sẵn, khi mới sanh được ghi lên trán bằng những dấu hiệu đặc biệt mà chỉ có những thầy xem tướng giỏi mới giải mã và cho biết được.

C. Do Thái giáo và vấn đề số mệnh:

Người Do Thái cổ đại tin là những sự kiện lớn của dân tộc Do Thái đều do Thượng Đế an bài sẵn, mà dân tộc Do Thái phải phục tùng. Quân ngoại quốc đến xâm lăng Isarel, đày biệt xứ dân Do Thái đi nơi khác, như là đế quốc Assiri và Babylon, và sau là đế quốc La Mã từng làm, tất cả những tai họa đó giáng xuống đầu dân Do Thái đều không phải là ngẫu nhiên mà là do dân Do Thái không trung thành với liên minh mà tổ tiên họ là tiên tri Moise, đã thay mặt họ ký kết với Yahve trên núi Sinai… Như vậy là số phận của một dân tộc Do Thái do hai yếu tố quyết định : Một là những việc làm của bản thân dân tộc đó, phản bội lại liên minh với Thượng Đế. Yếu tố thứ hai là sự trừng phạt của Thượng Đế đối với dân tộc Do Thái. Đó là sự can thiệp của một lực lượng siêu nhiên, siêu việt lên ý chí của con người. Có [tr.19] thể nói, đây là số mệnh hay số phận của dân tộc Do Thái, đã được Thượng Đế Yahve lựa chọn để truyền bá chân lý của đạo Do Thái cho loài người.

D. Đạo Hồi và vấn đề số phận:

Từ Ả rập maniyab là số phận hay số mệnh xuất hiện trong thơ ca Ả rập ngay trước thời Mahomet. Con người có thể chết vì sự cố, trong chiến tranh hay vì bệnh tật, nguyên nhân sâu xa của cái chết đó là do tiền định. Nhưng sức mạnh gì quyết định sự kiện cái chết của một người? Là Thượng Đế Allah chăng hay số phận, như là một sức mạnh không bị nhân cách hóa. Điều này không rõ, qua văn chương thơ ca Ả rập, bởi lẽ không phải thi sĩ Ả rập nào cũng tin đạo Hồi, vì đạo Hồi mãi tới thế kỷ VII sau công nguyên mới xuất hiện.
Thế như trong phạm vi Đạo Hồi, nhất là trong Kinh Coran, thì mọi sự kiện, thậm chí trong mọi hoạt động trong đời sống của một tín đồ hằng ngày đều do Thượng Đế Allah an bài quyết định, chứ không phải do số phận hay số mệnh. Ngày tận thế của thế giới cũng do Thượng Đế Allah quyết định, ý chí của loài người không dự phần trong việc này.
[tr.20] Tuy nhiên, các nhà thần học Hồi Giáo về sau có xu hướng giảm bớt tính tuyệt đối của sự can thiệp của Thượng Đế vào đời sống con người, và dành một phạm vi nhất định cho hoạt động của ý chí tự do.
Hình như các tôn giáo thần quyền, ngày càng thiên về thuyết không phải Thượng Đế an bài tất cả, quyết định tất cả và dù là con người là sản phẩm của Thượng Đế tạo ra, nhưng vẫn có một phạm vi ý chí tự do nào đó, khiến cho nó có thể phạm sai lầm và chịu sự trừng phạt của Thượng Đế, điển hình là nhân vật Adam của đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, tuy Thượng Đế tạo ra nhưng vẫn ăn trái cấm, ngược lại với lời dạy của Thượng Đế… do đó mà phạm tội gốc, tức là nguyên tội.
Có thể nói trong các thuyết của các tôn giáo lớn, chỉ có thuyết nghiệp (karma) của Ấn Độ giáo là tương đối gần gũi (chứ không phải là đồng nhất) với thuyết nghiệp của Phật giáo. Tuy nhiên cần nhớ rằng Phật giáo nói nghiệp, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh tính bất định của nghiệp, nghiệp là có thể chuyển được. Người là chủ nhân đồng thời cũng là thừa tự của nghiệp (Trung Bộ III Kinh “Tiểu nghiệp phân biệt”).

[tr.21] E. Dịch học và số mệnh

Hỏi: Phật giáo có phản đối các chuyện như là xem tướng số, bói toán hay không?
Trả lời: Chuyên môn của Phật giáo là giác ngộ và giải thoát, không phải là tướng số và bói toán. Vì vậy mà trong Kinh Di Giáo ngay trước khi Phật nhập Niết bàn, Phật từng khuyên học trò mình là tăng sĩ không nên bói toán và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở các trường Đại học Phật giáo trước đây ở Ấn Độ không có môn tướng số và bói toán, tuy có dạy các môn thế học như là Thanh minh (ngôn ngữ), công xảo minh (tiểu thủ công nghệ), y phương minh (chữa bệnh), nhân minh (lôgíc học)…
Lại hỏi: Dịch học cũng là môn học bói toán. Phật giáo có phản đối Dịch học hay không?
Trả lời: Không! Phật giáo không phản đối Dịch học như là một bộ môn triết học của Trung Hoa, do các bậc Thánh Trung Hoa thời xưa là Phục Hy, Văn Vương, Chu Công và Khổng Tử sáng lập và hoàn chỉnh.
Nhưng Dịch học theo bản ý của các bậc Thánh đó không phải là môn học bói toán, mà là một môn triết học bàn về đạo lý suy thịnh, lành dữ, [tr.22] hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước và tinh thần của Dịch học là đức năng thắng số chứ không phải là con người phục tùng số mệnh. Tôi cũng không phải là người nghiên cứu chuyên môn về Dịch học, nhưng cũng có nghiên cứu qua sách Dịch, không phải là để xem chơi như vua Trần Nhân Tông nói trong chương I bài phú Cư trần lạc đạo (1), mà vì có giảng về triết phương Đông ở một số trường đại học và ở Học viện Phật giáo. Giảng triết phương Đông, nhất là triết Trung Hoa mà không nói gì về Dịch học thì e thiếu sót. Tuy chỉ có biết đôi chúc về Dịch học, nhưng với cái sơ học của mình, cũng thấy được bản ý của các bậc Thánh lập ra môn Dịch học không phải là bói toán, trái lại bói toán chỉ làm dung tục hóa môn Dịch học mà thôi. Học giả Trung Hoa Phó Lệ Phác trong cuốn “ Quốc học khái luận” (Đài Bắc xuất bản–trang 40) viết rất đúng:
[tr.23] “Bản ý của Văn Vương làm chu dịch là để dạy người cái đạo lý trị loạn, thịnh suy, được mất. Người đời sau dùng để bói toán, thực không phải là bản ý của Văn Vương” (2).
Hơn nữa, nếu chúng ta xem kỹ một số lời giải các quẻ của Văn Vương hay các lời giải của các hào của Chu Công thì chúng ta sẽ thấy các bậc Thánh này nhấn mạnh vai trò của đức, của nổ lực đạo đức của cá nhân hơn là số. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ nhưng nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ sẽ hóa ra lành, hung biến thành cát. Rõ ràng đó là quan điểm đức năng thắng số tuy các bậc Thánh không nói rõ ra như vậy.
Để minh họa có thể dẫn chứng câu sau đây trong văn ngôn truyện, là một cuốn sách chủ yếu giải thích hai quẻ Càn và Khôn:
“Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương…”. Nghĩa là: Nhà tích chứa điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà chứa tích nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ…
[tr.24] Gia đình như vậy, cá nhân cho tới đất nước, xã hội cũng đều vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì dân sẽ loạn. Cá nhân sống ác, thì gặp nhiều điều bất hạnh, nếu làm điều thiện thì sẽ gặp may mắn, đó là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên. Dịch học tuy bàn chuyện hưng vong, thịnh suy và đắc thất, nhưng cuối cùng vẫn khẳng định con người sống phải có đức, trị nước cũng phải có đức, thì mọi việc mới thông suốt, hài hòa (sách Dịch dùng từ hanh, thông), chính đáng bền vững (sách Dịch dùng các từ lợi, trinh).[/justify]

CHÚ THÍCH:
[justify](1) Trần Nhân Tông viết: “Sách dịch là xem chơi, yêu tính sáng, yêu hơn châu báu kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rỗi, trọng chữ hoàng kim”. (2) Trần Nhân Tông nói là xem chơi, nghĩa là Ngài không lấy sách Dịch làm chuẩn.
Nguyên văn: “Văn Vương tác Chu Dịch đích bản chỉ nãi giáo nhân dĩ trị loạn, thịnh suy, đắc thất chi lý, hậu nhân dụng dĩ chiêm phệ, thực phi Văn Vương bản ý”.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 2 23/05/11 23:37

(tt)

[justify]III. Phật giáo dùng thuyết nghiệp thay cho thuyết số mệnh

A.Định nghĩa nghiệp là gì

Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận, cán chết người. Người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh, anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện để người bị cán chết trả một món nợ cũ, một cái nghiệp cũ, khiến anh ta bị cán chết. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như vậy, nếu chúng [tr.25] ta có một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp. Trong đời này, không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên, đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên được tạo ra từ trước. Nhưng đây là nghiệp chứ không phải là số mệnh.

B.Dẫn nghiệp và mãn nghiệp- Hai loại nghiệp quan trọng nhất

Nghiệp có nhiều loại, nhưng trong Phật giáo thường chú ý tới hai loại nghiệp chính là dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt dẫn chúng sinh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài Trời, cõi Atula và cõi loài người. Và ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, súc sanh. Chúng sanh ở cõi ác khác cõi loài người rất nhiều. Mắt ta không nhìn thấy họ, nhưng không phải là họ không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên, quỷ… Trong các loại chúng sinh sống ở cõi ác, có hai loại mắt người cũng không thể nhìn thấy được là chúng sanh loài quỷ đói và chúng sanh loài địa ngục. Loài quỷ đói là chúng sanh có cấu tạo sanh lý (bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé) cho nên luôn [tr.26] bị đói. Còn chúng sanh địa ngục thì bị khổ truyền miên, khổ ở mức loài người không thể tưởng tượng được. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể biết xuể được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như là chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu... Chúng nó sống khổ thế nào chúng ta cũng đều biết. Nhưng có nhiều điều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si như súc vật thì sau khi chết, chúng ta có thể tái sanh vào làm súc vật. Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên ít nhất chúng ta cũng phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, để cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho đời này cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đọa vào các cõi ác, khổ mà luôn tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng Anh [tr.27] tương đương là từ Reproductive Karma. Kamma là tiếng Pali, nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương đương là karma, một từ mà sách Tây phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hoặc thiện hay bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh cũng như các sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau đây tôi đưa ra một vài thí dụ để minh họa trước hết là những hành động cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh vào một trong ba cỏi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh. Đó là các hành động cố ý giết cha, mẹ, bậc thánh A La Hán, làm chảy máu Phật và phá vỡ sự hòa hợp của Tăng chúng. Nếu phạm một trong năm nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan. Còn nói chung sống buông thả, không giữ năm giới, không làm mười thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ làm người sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền hay đau ốm, bị người đời khinh rẻ…

[tr.28] C.Cường độ của nghiệp quyết định ở chỗ dụng tâm

Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát sanh với tâm tham, tâm sân. Gần đây trên báo đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà Nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là vụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo hàng ngày cũng từng đăng tin một cô gái, chỉ vì ghen tức đối với người con riêng–một con bé 5 tuổi–của chồng mình đã nhẫn tâm quẳng con bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân si và ghen tức là loại nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đọa vào cõi ác không tránh khỏi.
Đối với nghiệp thiện cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ yếu ở chổ dụng tâm chứ không phải ở quy mô và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật, có câu: Làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi thì việc đạo biến thành việc đời, còn làm việc đời với cái tâm đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh thì việc đời cũng biến thành việc đạo.
[tr.29] Quan điểm về nghiệp trên giải phóng người nghèo hèn về nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người đời nhưng không biết xoay sở cách nào.
Trong Kinh 42 Chương có nói về hạnh tùy hỷ bố thí. Đó là hạnh chia xẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia xẻ niềm vui đó là thật lòng, không chút ganh ghét thì công đức của hạnh bố thí tùy hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc giúp cho bao nhà được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm… mà để bố thí tùy hỷ có cần phải có gì đâu, mà chỉ cần biết chia xẻ niềm vui của người khác mà thôi.
Đại sư Trung Hoa Trí Khải, trong bài tựa cuốn “Đồng môn chỉ quán”, kể trường hợp một Sa Di trẻ, ở cùng chùa với một vị trụ trì đã chứng quả A La Hán. Vị trụ trì xem tướng học trò biết trong vòng một tuần lễ nữa, học trò mình sẽ chết bệnh không thể tránh được, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò trên đường về nhà thấy một tổ kiến trên một bờ đê đang bị một dòng nước xoáy, thốc vào đê, đe dọa cuốn đi. Thầy Sa Di trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn cởi quần áo nhảy xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu tổ kiến. Cứu được tổ [tr.30] kiến, thầy Sa Di về nhà, và sau một tuần trở lại chùa. Vị A La Hán thấy học trò của mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa rất lấy làm lạ, hỏi cặn kẽ đầu đuôi câu chuyện cứu tổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sa Di phát tâm từ bi rộng lớn cứu tổ kiến nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vòng một tuần lễ lại vẫn sống an toàn và sống thọ trong nhiều năm nữa.
Câu chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày sống trong thời Phật, muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền mua dầu. Đi ăn xin, ky cóp mãi mới được một đồng, nhưng khi đến cửa tiệm thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có một ngọn đèn để cúng dường Phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật thuyết pháp mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp của Phật người ta đi dập tắt tất cả những ngọn đèn ở trong nhà tịnh xá cũng như ở ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều được dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà già ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao tắt được. Kể cả ngài Mục Kiền Liên, là học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất [tr.31] lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật của bà già. Với tâm thành lớn như vậy, thì dù cúng dường một ngọn đèn nhỏ cũng đem lại cho bà ấy một công đức vô lượng, khiến cho Chư Thiên cũng phải cảm ứng, che chở ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật, cũng không hiếm những chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ, nhưng sau khi được gặp Phật, được nghe pháp và thật thà ăn năn hối lỗi, cải tà quy chánh và hành đạo, thì rồi ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên tướng cướp tàn bạo ở vương Quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambapali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo đạo Phật, tu hành không bao lâu cũng chứng quả A La Hán.
Nói tóm một câu, dụng tâm là yếu tố quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pali còn gọi là tác ý, cho nên Phật định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý theo hướng thiện hay ác, thì tức là đã tạo ra nghiệp thiện hay nghiệp ác rồi. Người bình thường không [tr.32] hiểu cơ chế vận hành của nghiệp cho nên rất hay xem thường, thậm chí ngay đối với lời nói, họ cũng nói một cách vô tâm : Lời nói bay đi, lời nói vô bằng. Không biết rằng, ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn tạo nghiệp, huống hồ chi là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói mà đạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói dối, nói ác, nói chia rẽ, và nói lời vô nghĩa, còn sự bất thiện nơi tâm cũng chỉ có ba là tham, sân, si hay tà kiến.

D.Không được coi thường việc nhỏ

Mà cũng vì vậy, Phật luôn răn dạy chúng ta không nên coi thường thiện hay ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy đống rơm cao như núi, cũng như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm bình lớn tràn đầy.
Kinh Pháp Cú có bài kệ:
“Chớ chê khinh điều thiện,
Cho rằng ‘chưa đến mình’,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần.”
(Bài kệ 122. Bản dịch từ Pali : Th. Minh Châu)
Lai viết :
[tr.33] “Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước chảy từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần.”
(Bài kệ 121, Bản dịch từ Pali: Th. Minh Châu)

Đ. Lợi ích của việc tu tập tâm

Tuy nhiên, cần chú ý là theo đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hằng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không bao giờ nghĩ ác, chỉ nghĩ toàn điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng chưa đạt tới đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật hay A La Hán, nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng, dẫn tới đích giác ngộ và giải thoát tối hậu rồi. Hơn nữa trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối hậu đó, con người thiện sẽ nhất định không bị đọa vào cõi ác.
Kinh Pháp Cú ví người như vậy như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết.
[tr.34] Kinh Pháp Cú cũng nói người ác làm hại người hiền giống như kẻ ngu ngược gió tung bụi, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính người:
“Bàn tay không thương tích,
Có thể cầm thuốc độc…”
(Kệ 124. Kinh đã dẫn, tr 75)
“Hại người không ác tâm,
Như thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.”
(Kệ 125. Kinh đã dẫn, tr 75)
Nói tóm một câu, quyết định tính chất và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình, là ở trong lòng mình.
“Thiện căn bởi tại lòng ta,
Tu Phật, trước hết và chủ yếu là tu tâm”
Vì không phải chỉ vì “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, như thi sĩ Nguyễn Du đã nhắn nhủ chúng ta, mà vì Đức Phật cũng đã từng khuyến cáo chúng ta :
“Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
[tr.35] Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.”
(Kệ 42. Kinh Pháp Cú)

“Điều mẹ, cha, bà, con
Không có thể làm được,
Tâm hướng thiện làm được,
Làm được tốt đẹp hơn.”
(Kệ 43. Kinh Pháp Cú)

E.Vấn đề cộng nghiệp

Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số đông người, vì không phải là một mà là số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, một dân tộc hay một địa phương.
Cộng nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân, khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới có thể hiểu hết ngọn ngành, chi tiết.
Trong kinh chép lời Phật: “Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn của loài người, Ta thấy các chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và người bần tiện, mỗi người đều theo [tr.36] nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh.”
(chuyển từ bản Tiếng Anh: “The Tibetan Book Of Living And Dying” Sogyal Rinpoche, tr 92)
Chúng ta không có được thiên nhãn thanh tịnh, để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả những cơ chế vận hạnh phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu chúng ta cũng biết được đại khái nhưng cũng rất là đúng đắn:
“Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.”
Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam, mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật gần hai mươi thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng chúng ta buột mồm nói :Tội nghiệp. Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người và nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp của số đông…
Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi quả chín mùi và xảy ra, thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là [tr.37] kết quả hợp thành của những nhân duyên đã được tạo ra và nay chín mùi.
Nhưng Đạo Phật không nói một cách máy móc: nhân nào quả ấy. Vì sao? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân vận động. Nghiệp này nối tiếp nghiệp kia, nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước.v..v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không nói số phận hay số mệnh, mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh giới phân biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác, kể cả với Ấn Độ giáo, khá gần gũi với đạo Phật, vì Ấn Độ giáo cũng nói nghiệp (karma).
Dẫn nghiệp hay còn gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người. Chúng ta biết chắc là trong đời trước chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp) khiến cho chúng ta có được thân phận người, nhưng giữa chúng ta ở đây thôi, trong phạm vi cái phòng này đã có là bao nhiêu sai biệt như già và trẻ, khoẻ và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu và mỗi người chúng ta đều là thành viên của những gia đình khác nhau, với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy mà ngoài dẫn [tr.38] nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng Anh dịch là Supportive Karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp.

F.Khái niệm mãn nghiệp

Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà người có hạnh phúc, người bất hạnh, người sang, kẻ nghèo hèn, người có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi nhưng không ai tin, người đẹp kẻ lại xấu xí, cô gái đẹp lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại lấy được người vợ đẹp sánh ngang Hằng Nga tái thế.v.v…Sao lại có những chuyện như vậy? Tất cả những chuyện sai biệt như vậy đều là quả báo của mãn nghiệp hay năng trì nghiệp.
Một câu hỏi: Loại mãn nghiệp này là bất khả kháng hay là có thể chuyển được? Xin trả lời: Thuyết nghiệp của Phật giáo là bất định nghiệp, là nghiệp có thể chuyển được. Đã có bao nhiêu người sanh ra với sức khoẻ rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi 80. Triết gia Đức nổi tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng [tr.39] nhờ sinh hoạt, làm việc rất điều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ.v.v…

G.Khái niêm năng tiêu nghiệp

Vì vậy mà Phật giáo đưa ra khái niêm gọi là năng tiêu nghiệp, mà sách Anh ngữ có khi dịch là countereractive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tùy thuộc vào tình hình mà có thể tốt hay xấu.
Có thể đưa ra những ví dụ sau đây để minh họa: Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa học hiện nay là có gen thông minh. Nhưng người đó lại sinh ra trong một gia đình giầu có, được cha mẹ nuông chiều cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi và cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp xấu và tiêu cực, hủy hoại bẩm tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải là ngẫu nhiên mà chính do anh ta nuôi dưỡng, hun đúc trong một đời trước.
Còn những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện [tr.40] hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện người thật việc thật.

H.Dẫn nghiệp có thể hủy được không? Năng hủy nghiệp

Nhưng có người lại hỏi: Ừ mãn nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, chúng tôi đồng ý, nhưng còn dẫn nghiệp có thể chuyển được không?
Dẫn nghiệp cũng có thể chuyển được trong những trường hợp sau đây:
Đúng là sau khi đã sanh ra là người, có thân phận người, thì không thể chuyển được thân phận người thành một thân phận không phải người. Thí dụ như các Đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường sanh bất lão và bất tử, trở thành Thần thành Tiên ngay trong cõi đời này.
Tôi nghĩ rằng bàn những chuyện như vậy là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức chăng thì cũng chỉ là một người. Nên miễn bàn là hơn.
Nhưng đạo Phật có khái niệm năng hủy nghiệp để giải thích những trường hợp, tuy có người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của tái sanh nghiệp vẫn còn nhưng vì những người này trong đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra [tr.41] những nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu hủy thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay chết bất đắc kỳ tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình thường gọi đó là một trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi là năng hủy nghiệp, nó tiêu hủy thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Người đó trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong đời sống này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh, đủ sức tiêu hủy một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách Phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó còn thừa dầu và bấc.

I. Kết luận: người là chủ nhân của nghiệp

Nói tóm lại một câu, có thể dẫn chứng lời Phật, trong Kinh “Tiểu nghiệp phân biệt” (Trung Bộ III): “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…”. Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong Kiều
[tr.42] “Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Xin đừng trách lẫn trời gần, trời xa.”
Chính chúng ta chứ không một Thần linh nào khác hết quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo ra nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giải dị, không có gì khó hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của Thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những khoa học và công bằng, mà nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con người. Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta, trong thiên niên kỷ mới sắp đến này.
Quá khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức [tr.43] sống trong hiện tại từng giờ từng phút nghĩ lành, nói lành, làm lành. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong thực hành, trong cuộc sống.
Triết gia Mỹ William James hầu như hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, khi nói câu:
“Chúng ta đang dệt đời chúng ta bằng một sợi chỉ không thể tháo gỡ ra được”
(Nous tissons notre vie d’un filqui ne se défera pas)
Câu nói của Nguyễn Du và William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Xin đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
…Nếu thêm cái đuôi: Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năng sửa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm, ý luôn luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi chỉ, không phải không tháo ra được, mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại được, nếu…(như đoạn trên thêm vào câu của Nguyễn Du).
[tr.44] Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện, trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hàng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hằng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong cả đời này và đời sau.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 3 24/05/11 22:47

[center][tr.45] CÓ CÕI ÂM HAY KHÔNG?
ĐẠO PHẬT TRẢ LỜI VẤN ĐỀ NÀY NHƯ THẾ NÀO?
Minh Chi
Học viện Phật giáo Việt Nam[/center]

[tr.546] A. CÓ CÕI ÂM HAY KHÔNG?

[justify]Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian, hay là của Lão giáo, không phải Lão giáo của cuốn Đạo Đức Kinh mà là một thứ Lão giáo dân gian hóa.
Nhưng để cho vấn đề phức tạp này được trình bày có hệ thống, thuận lợi cho quý vị, tôi xin phép trình bày qua ba mục lớn như sau:

1. Thái độ của Phật giáo đối với vấn đề sống chết, đối chiếu với các thái độ khác.
2. Các cõi sống khác nhau.
3. Cõi Trung Ấm của Phật giáo có phải là cõi âm hay không?

[tr.47] I. THÁI ĐỘ CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ SỐNG CHẾT.

Đối với vấn đề này có thể có bốn thái độ và nhận thức khác nhau.
1/ Thái độ của các nhà duy vật cổ cũng như hiện đại:
Chết rồi là hết, không còn gì nữa, mọi chuyện xảy ra sau khi chết là chuyện tưởng tượng. Chủ thuyết này có thể dẫn tới một thái độ coi thường đạo đức, đề cao lối sống hưởng thụ, lối sống gấp.
2/ Chủ nghĩa hoài nghi:
Thể hiện trong câu nói của Khổng Tử “sống còn chưa biết thì biết chết làm gì?” Hay là câu nói của triết gia Hy Lạp Cổ Đại Epicuya: “Khi tôi sống thì làm sao biết được chết là gì, khi tôi chết rồi, lại càng không thể biết chết là gì?”
3/ Quan niệm của một số tôn giáo thần quyền:
Người ta sống chết chỉ một lần: Nếu sống tốt theo lời dạy của Thượng Đế thì chết rồi sẽ được lên Thiên Đàng cùng ở với Thượng Đế...Nếu sống ác, trái với lời dạy của Thượng Đế thì khi chết rồi sẽ xuống địa ngục ở với quỷ. Quan niệm như trên đối với một số người (tôi không nói là đối với tất cả) dẫn tới một lối sống bức xúc, đầy mặc cảm, [tr.48] không rõ mình sống như thế này đã hợp với ý của Thượng Đế hay chưa v.v...
4. Quan niệm sống chết chỉ là hai mắt xích trong một chuỗi sinh tử dài vô tận chỉ chấm dứt với sự giải thoát tối hậu:
Đây là quan niệm của đạo Phật và một số Đạo giáo và triết thuyết khác ở Ấn Độ...Người ta không phải sống chết một lần. Có sanh, có sống thì có chết. Chết là điều không tránh khỏi. Nhưng chết rồi lại sống một đời sống khác, và cứ như vậy luân hồi mãi cho đến ngày giải thoát tối hậu. Sự sống là bất diệt, nhưng nó mang nhiều dạng sống khác nhau ở các cõi sống khác nhau. Động lực của sự sống là Nghiệp (Karma). Nghiệp thường được giải thích một cách đơn giản là hành động. Như Phật Thích Ca thường giải thích nghiệp là tác ý, nghĩa là dụng tâm. Do đó, có thể giải thích nghiệp là hành động có dụng tâm. Khi đã có dụng tâm, thì mọi lời nói hay hành động bắt nguồn từ dụng tâm đó là nghiệp. Trái lại, mọi lời nói hay hành động không có dụng tâm, đều không phải là nghiệp, theo đúng ý nghĩa Phật giáo của từ này. Có thể nói một cách khác, mọi hành động, lời nói có dụng tâm, có ý thức đều là nghiệp, và trở thành động lực góp phần tạo ra con người chúng ta, cuộc sống [tr.49] chúng ta đời này và đời sau. Nghiệp có tầm quan trọng như vậy đối với con người và cuộc sống con người, cho nên Phật trong bài kinh “Tiểu Nghiệp Phân Biệt” đã dạy: “Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình có liệt có ưu” (Trung Bộ III, Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt. Trg 381).
Nội dung câu Phật nói rất rõ. Người là chủ nhân mọi nghiệp do mình tạo ra. Người cũng lãnh đủ mọi quả báo của nghiệp do chính mình tạo ra. Nghiệp do mình tạo ra đó không tách rời mình, do đó Phật nói: “Nghiệp là quyến thuộc đích thực.” Khi chết, không bà con quyến thuộc nào dù thân thiết đến đâu cũng không thể đi theo mình được, nhưng nghiệp vẫn đi theo mình và quyết định hướng tái sanh của mình trong đời sống kế tiếp: thân phận của mình sẽ như thế nào, làm người, làm loài Trời hay làm súc sanh...và cảnh ngộ của mình sẽ ra sao...Phật nói nghiệp là điểm tựa. Ý nói cuộc sống của chúng ta dựa vào nghiệp để tồn tại như điểm tựa. Khi nghiệp lực nuôi dưỡng cuốc sống đời này hết thì chúng ta sẽ chết, cũng như cái đèn cạn dầu vậy. Cũng có sách Phật ví nghiệp như là cái trục và đời người như bánh xe quay [tr.50] xung quanh cái trục của nó vậy. Trong ba nghiệp, ý nghiệp, khẩu nghiệp, và thân nghiệp thì quan trọng nhất là ý nghiệp, tức là nghiệp do ý nghĩ có dụng tâm tạo ra. Chính cái ý nghĩ có dụng tâm này là cốt lõi, là thực chất của khẩu nghiệp, tức là nghiệp bằng lời nói và thân nghiệp bằng hành động nơi thân. Kinh Pháp Cú mở đầu bằng các câu kệ:
Bài kệ một:
“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.”
(Kinh Pháp Cú, bản dịch Thích Minh Châu, trg 2)
Ý tứ bài kệ rất rõ ràng:
Tâm ý trong con người là cái làm chủ. Nếu tâm ý là ác, bất thiện, dơ bẩn thì lời nói hay hành động cũng bất thiện, ác dơ bẩn, và con người sẽ bị đau khổ tức thì, cũng như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe vậy.
[tr.51] Chính vì vậy mà người Phật tử thâm hiểu thuyết nghiệp hết sức chú ý tu tập tâm, khiến cho tâm mình ngày càng trở nên trong sáng, hoàn toàn thiện lành. Cũng Kinh Pháp Cú dạy rằng, kẻ thù hại mình không bằng cái tâm nghĩ bậy hại mình. Cha mẹ, bà con làm tốt cho mình không bằng cái tâm hướng thiện làm tốt cho mình.
“Kẻø thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà
Gây ác cho tự thân”
(Bài kệ 42)
“Điều mẹ, cha, bà, con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng thiện làm được,
Làm được tốt đẹp hơn”
(Bài kệ 43)
Trong sách Phật có khái niệm tam thiên, đại thiên thế giới nhằm chỉ một quần thể ba nghìn đại thiên thế giới, mà có một học giả hiện đại đem ví với những hệ tinh vân của thiên văn học hiện đại. Ở đây, chúng ta không thể bàn đến độ chính xác của các con số, nhưng điều đáng khen, ngay từ hơn 500 năm trước công nguyên, đạo Phật đã có [tr.52] một quan niệm không gian vũ trụ gần gũi với thiên văn học hiện đại.
Trên đây đã nói về không gian. Bây giờ nói tới các cõi sống. Như đã nói trên, đạo Phật không xem cõi người là trung tâm điểm của thế giới, cũng không xem người là loài vật tối linh. Nói chung, đạo Phật chia các cõi sống ra làm ba cõi tùy theo trình độ tâm linh. Nói luân hồi trong ba cõi chính là nói luân hồi trong ba cõi đó. Ở cõi trời cao cấp nhất gọi là Vô sắc, chúng ta gặp những chúng sanh thường xuyên trong Thiền định, không có sắc thân như thân thể riêng biệt của chúng ta, mà chỉ có cuộc sống tinh thần thuần túy. Cõi Vô sắc giới chia ra làm 4 cấp có trình độ cao thấp khác nhau.
Cõi thứ hai gọi là Sắc giới. Chúng sanh ở đây có sắc thân đẹp đẽ sáng chói, nhưng không có phân biệt nam nữ, vì ở đây không còn có lòng dục, tức là dâm dục. Cõi Sắc giới cũng chia thành nhiều cấp, ở đây không tiện bàn vì không có thời gian.
Cõi thứ ba thấp nhất chính là cõi của chúng sanh, còn có lòng dục tức là dâm dục nên còn có phân biệt nam nữ. Cõi người chúng ta nằm trong Dục giới. Cõi người không phải là cõi sống có trình độ cao nhất trong Dục giới. Có sáu cõi trời cũng nằm trong Dục giới gọi là Lục dục thiên. Ở đây [tr.53] chúng sanh thọ mạng dài hơn thọ mạng của loài người rất nhiều. Sách Phật đơn cử ví dụ của cõi trời thấp nhất trong sáu cõi trời nói trên, tức là cõi Bốn Thiên Vương, ở đây một ngày đêm bằng 50 năm ở cõi người. Do thời gian khác nhau giữa các cõi Trời và cõi người, cho nên tuy việc các loài Trời đến thăm cõi người là có khả năng nhưng thật là hạn hữu lắm họ mới đến. Thí dụ sách Phật có nói tới một loài Trời có tên là Quang Âm Thiên, khi trái đất mới hình thành đã có điều kiện cho sanh vật ở được thì có loài Trời Quang Âm Thiên xuống đây, thân hình họ chói sáng, họ bay chứ không đi như con người, họ nói chuyện, giao tiếp nhau bằng ánh sáng, do đó mà có từ Quang Âm. Giống loài Trời này về sau ăn thức ăn thô nặng, cho nên dần dần thân hình họ cũng trở nên thô nặng, không còn bay được, không còn sáng chói và dần dần chuyển thành thân người, đây chỉ là một thần thoại hay là một giả thuyết khó mà nói được.
Nói chung, quyền năng của loài Trời cao hơn quyền năng của loài người rất nhiều. Sách nói tới con mắt của loài Trời có thể nhìn qua vật cản, nhìn rất xa, gọi là Thiên nhãn.
Như trên đã nói thế giới vũ trụ này có muôn vàn sai biệt là do nghiệp của chúng sanh có thiện [tr.54] có ác, có lành, có dữ hay là thiện ác xen lẫn với những mức độ khác nhau. Đạo Phật không có quan niệm hẹp, trái đất là cõi duy nhất có sự sống, cũng không xem loài người là tối linh trong muôn loài, như đạo Khổng thường nói.

II. CÁC CÕI SỐNG KHÁC NHAU, CÁC DẠNG SỐNG KHÁC NHAU:

Qua các khái niệm Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới, Đại thiên thế giới, chúng ta biết đạo Phật chưa từng bao giờ xem trái đất chúng ta như là trung tâm của cả thế giới vũ trụ. Một Tiểu thiên thế giới được xem như một Thái dương hệ, trong đó có trái đất. Một ngàn Tiểu thiên thế giới hợp lại thành một Trung thiên thế giới và một ngàn Trung thiên thế giới hợp lại thành một Đại thiên thế giới. Sách Phật cũng có nói tới tai loài Trời có thể nghe rất xa, gọi là Thiên nhĩ.
Cõi sống thứ hai trong Dục giới là cõi Atula (Asuras). Loài Asuras tuy có quyền năng hơn loài người và không kém gì loài Trời, nhưng chúng hay sân giận, hay gây chiến với loài Trời. Có sách gọi họ là Hung thần. Đàn ông dung mạo xấu xí như đàn bà lại rất đẹp.
[tr.55] Cõi thứ ba về trình độ quyền năng là cõi người. Cõi Trời có lòng dục, cõi Atula và cõi người được sách Phật xếp là ba cõi thiện, ba cõi lành. Dưới ba cõi này còn có ba cõi ác là cõi súc sanh, cõi quỷ đói và cõi địa ngục. Cõi súc sanh thì ai cũng có thể thấy được một phần. Quỷ đói là loài thường xuyên bị đói do sự mất cân đối trong cấu tạo cơ thể: bụng thì to như cái trống, cuống họng thì bé xíu như cái kim. Địa ngục không phải là cái ngục dưới đất như danh từ địa ngục gợi ý. Địa ngục chỉ những cõi sống rất khổ cực, không thể đem so sánh với nỗi khổ cực của thế giới con người. Sách Phật nói tới những cõi địa ngục khác nhau, như địa ngục nóng, địa ngục lạnh, địa ngục vô gián là loại địa ngục khổ nhất...Khổ không xen hở cho nên gọi là vô gián.
Sách Phật nói tới luân hồi trong sáu đường tức là luân hồi trong ba cõi thiện và ba cõi ác. Thực ra chúng sanh ở hai cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới cũng không thoát khỏi cảnh luân hồi, tuy rằng thọ mạng của họ kéo dài hàng vạn hoặc hàng chục vạn năm.
Qua phác họa nói trên về các cõi sống khác nhau, theo Phật giáo thì không có cõi nào là cõi của người chết cả. Vì vậy mà ngay từ đầu bài tôi [tr.56] đã nói, trong đạo Phật không có khái niệm cõi âm hay âm phủ. Chết là cái tạm thời, sự sống là vĩnh hằng và thể hiện qua những dạng sống khác nhau, trong các cõi sống khác nhau, từ thấp đến cao. Người Phật tử hiểu đạo không lo âu về sự chết, vì đã có sự sống, có sanh ra thì có chết. Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoát và giác ngộ tối hậu, là cảnh giới bất tử của các vị Thánh. Để kết thúc mục này, cho phép tôi dẫn chứng hai bài thơ thiền của Thiền sư Trì Bát và Thiền sư Từ Đạo Hạnh, đều sống dưới triều Nhà Lý.
Bài thơ của Trì Bát đọc như sau:
“Hữu tử tất hữu sinh
Hữu sinh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sinh vi thế sở hỷ
Bi hỷ lưỡng vô cùng
Hổ nhiên thành bỉ thử
Ư chư sinh tử bất quan hoài”
Dịch ý:
Có chết thì mới có sanh (trở lại)
Có sanh ra thì có chết
Chết thì người đời buồn
[tr.57] Sanh thì người đời vui.
Buồn vui là hai cái lập đi lặp lại vô cùng tận.
Vì đối đãi với nhau cho nên thành ra cái nọ đối với cái kia.
(Cho nên) đối với sanh tử, sống chết không có lo âu gì...
Còn bài thơ của Từ Đạo Hạnh đọc như sau:
“Thu lai bất báo nhạn lai quy,
Lãnh tiếu nhân gian động phát bi
Vị báo môn nhân hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.”
Dịch ý:
Mùa thu về không báo trước thì chim nhạn cũng bay về,
Cười nhạt người đời hay bi thương (khi thấy thầy chết)
Nay ta bảo học trò đừng có thương tiếc (ta)
Ngày xưa ta đã từng làm sư, và đã nhiều đời ta lại làm sư.
Ý tứ bài thơ của Từ Đạo Hạnh là con người, lúc thọ mạng hết thì chết, cũng như mùa thu về thì chim nhạn cũng bay về. Ta cười nhạt là vì [tr.58] người đời cứ thấy chết là bi thương. Nay ta bảo học trò ta đừng có lưu luyến ta nữa. Ngày xưa ta đã là sư, và đã nhiều lần ta lại làm sư.
Hai bài thơ thiền của hai Thiền sư đời Lý phản ảnh tâm lý bình thản siêu thoát của những Phật tử thâm hiểu đạo lý sống, chết của Phật giáo. Chết đối với họ không phải là về nơi an nghỉ cuối cùng, mà là chuẩn bị tiến vào một cuộc sống mới, được họ chuẩn bị một cách có ý thức, bằng cả một cuộc đời, bằng từng giây phút của cuộc đời họ, bằng từng ý nghĩ, lời nói và việc làm của họ thiện lành và trong sáng.
Ở đây người Phật tử có trí và hiểu biết đạo có hai sự chuẩn bị. Một là sự chuẩn bị lâu dài cho đời sống tiếp theo. Hai là chuẩn bị cho cái chết sẽ đến, mà họ muốn nhẹ nhàng, êm ả như lá thu rụng.
Cả hai sự chuẩn bị trên đều quan trọng, ảnh hưởng lẫn nhau. Một người cả đời làm điều lành, nói lời tốt, có tâm tư và ý nghĩ trong sáng thì khi lâm chung, thường giữ được sự tỉnh táo và ra đi một cách êm đẹp, sạch sẽ. Trong vòng một tuần lễ trước khi chết, họ thường biết là họ sắp chết, cho nên họ có thời giờ và điều kiện dặn dò lại mọi người trong gia đình. Họ thường xuyên nghĩ lại, nhớ lại những điều thiện mà họ đã làm trong đời, [tr.59] họ thường nằm mơ thấy những cảnh đẹp nên nội tâm luôn luôn an vui thoải mái. Đó là những điềm báo trước một đời sống kiếp sau rất tốt đẹp, có thể ở cõi người hay ở cõi Trời.
Sách Phật kể lại có những người chết mà trong nhà có hương thơm phảng phất, có ánh sáng lạ, thậm chí có cả tiếng nhạc du dương. Đây không những là điềm lành mà là điềm rất lành.
Vua Trần Nhân Tông sau khi thoái vị, xuất gia làm Tăng, trở thành vị Tổ sáng lập ra giòng Thiền Trúc Lâm, cũng gọi là giòng Thiền Yên Tử, ông biết trước nhiều tháng ngày, giờ ông qua đời cho nên đã sắp đặt đâu đấy chuyện người kế vị ông là Tổ Pháp Loa, lại có thời giờ đến vĩnh biệt bà chị, trước khi cùng với hai Tăng sĩ dìu dắt ông, leo lên ngôi chùa cao trên núi Yên Tử, ngồi nhập định mà qua đời.
Quyển “Thiền Uyển Tập Anh” là cuốn sách sử xưa nhất chép tiểu sư các cao tăng Việt Nam có ghi chép chuyện một số nhà sư ngồi nhập định như vậy mà ung dung qua đời. Ở chùa Đậu, cách Hà Nội khoảng 15km về phía huyện Thường Tín, có tượng hai vị sư đã qua đời trong tư thế ngồi như vậy. Học trò hai vị đã dùng sơn đen phủ lên nhục thân của hai ông, cách đây vài năm, các giáo sư, [tr.60] bác sĩ của bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) đã khám nghiệm hai bức tượng “nhục thân” và xác quyết đó không phải là tượng bình thường mà là hai xác chết, phủ lên trên một lớp sơn đen dày.
Nói tóm lại, chết không phải là hết tất cả, chết là bắt đầu cuộc sống mới tốt đẹp hay là không tốt đẹp, là tùy theo nghiệp được tạo ra trong đời sống này. Cuộc sống thiện lành sẽ đem đến một cái chết êm ả, bình tĩnh và một cuộc sống đời sau cũng tốt đẹp hạnh phúc.

III. CÕI TRUNG ẤM HAY TRUNG HỮU THEO PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ CÕI ÂM HAY KHÔNG?

Theo đạo Phật, một số người không phải là tất cả, sau khi chết có thể trải qua một cuộc sống trung gian–gọi là trung hữu hay trung ấm–trước khi tái sanh vào một cõi sống mới, với một thân phận mới.
Tôi nói một số chứ không phải là tất cả mọi người là vì có những người chết thì lập tức tái sanh ngay qua một cuộc sống khác với một thân phận khác. Hai loại ví dụ thường được sách Phật dẫn chứng nhất là người sống cực ác, thì khi chết lập tức hóa sanh xuống địa ngục, cõi quỷ đói hay [tr.61] là súc sanh. Hai là những người trong đời sống rất thiện lành, khi chết cũng hóa sanh lên các cõi Trời, chỉ có nhưng người sống cuộc sống thiện ác xen lẫn, thì thường chết rồi, không tái sanh ngay mà trải qua một cuộc sống trung gian tạm thời, được tin là nhiều nhất cũng không quá 7 tuần, tức 49 ngày.
Người chết trút bỏ cái thân làm bằng loại vật chất thô nặng mang một cái thân khác, làm bằng loại vật chất tế nhị, với những giác quan đầy đủ như giác quan của người sống, nhưng cũng tạo bằng loại vật chất tế nhị (mà sách Phật gọi là tịnh sắc, hay sắc thanh tịnh). Do đó mà giác quan của thân trung hữu hay trung ấm tinh tế và nhạy bén hơn giác quan của Người sống rất nhiều. Họ thấy chúng ta được nhưng chúng ta không thấy họ được. Họ có thể đi bình thường hay là bay qua hay đi qua các vật cản, không bị trở ngại. Do đó mà khi cha mẹ tương lai của thân trung ấm hay trung hữu giao hợp, nếu đủ nhân duyên tương xứng thì thân trung hữu hay trung ấm đến nơi trong nháy mắt và chui vào bụng mẹ, kết thành bào thai một cách dễ dàng. Mặc dù họ thấy chúng ta, nhưng họ không thể giao tiếp với chúng ta như người sống này với người sống khác. Họ có một cảm giác bất lực rất là bức xúc, khi họ muốn tiếp xúc với những [tr.62] người sống, thường là bà con thân thiết với họ. Cảm giác bất lực đó đi đôi với những quyền năng đặc biệt mà họ có được nhờ cái thân thể tạo ra bằng loại vật chất tế nhị của họ. Họ nghĩ đến chỗ nào thì họ có thể đến chỗ ấy trong nháy mắt. Bay lượn, đi hay là bay qua vật cản, thấy, nghe được ở tầm xa v.v...cũng là quyền năng thần thông, nhưng quyền năng này không phải được thành tựu do tu tập Thiền định, mà là do nghiệp, do mang thân trung hữu hay trung ấm làm bằng loại vật chất tế nhị, cho nên bộ câu Xá Luận của Hữu Bộ gọi là nghiệp thông, nghĩa là quyền năng thần thông do nghiệp mà có.
Vì thân trung hữu hay trung ấm còn lưu luyến gia đình cũ với bà con, với thân thuộc, bạn bè nên họ hay quanh quẩn nơi nhà cũ, và nuôi dưỡng thân bằng mùi, mà sách Phật gọi là hương. Nghĩa là thân trung ấm không phải ăn những thức ăn bày trên bàn thờ mà chỉ ăn cái mùi của thức ăn đó mà thôi.
Tôi nghĩ rằng, cõi âm mà chúng ta nói là cõi âm của người chết chính là cõi trung hữu hay trung ấm của Phật giáo. Cần nói thêm rằng, xung quanh vấn đề thân trung ấm đã có tranh luận trong giới Phật học, ngay từ trước công nguyên trong thời [tr.63] gian mà lịch sử Phật giáo Ấn Độ gọi là Phật giáo Bộ phái khoảng một trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, thì Giáo hội Tăng già Ấn Độ không còn là một tổ chức thống nhất nữa. Lúc đầu tách ra làm hai bộ phái là Thượng Tọa bộ (Theravada), chuyên gồm những tăng sĩ lớn tuổi, là chức sắc trong giáo hội cho nên bộ phái này mang cái tên “Bộ phái của các Trưởng Lão, tức Thượng Tọa”. Bộ phái thứ hai gọi là Đại chúng bộ, tên chữ Sanskrit là Mahasanghikas, bao gồm số đông tăng sĩ trẻ cấp tiến. Sau đó, từ hai bộ phái lớn trên, dần dần tách ra nhiều bộ phai khác, cuối cùng con số lên tới 18 bộ phái, cộng với hai bộ phái gốc, thành ra có đến 20 bộ phái. Nói chung, Thượng Tọa bộ có tính bảo thủ hơn, nặng về bảo tồn giáo lý nguyên thủy của đạo, đúng như lời Phật còn tại thế. Còn Đại chúng bộ thì có tư tưởng cấp tiến hơn, chủ trương phát triển giáo lý nguyên thủy theo yêu cầu của thời gian và không gian. Các bộ phái tranh luận với nhau về hàng loạt vấn đề, trong đó có vấn đề trung ấm. Thí dụ, Thượng Tọa bộ cho rằng người chết lập tức tái sanh ngay, cũng như ngọn đèn này tắt châm sang ngọn đèn khác lại cháy ngay. Đó là quan điểm của Thượng Tọa bộ, thấy rõ trong bộ luân cơ bản và danh tiếng “Thanh Tịnh Đạo Luận” (Visudhimagga). Nhưng, trái lại bộ phái [tr.64] rất có thế lực, tách khỏi Thượng Tọa bộ tức là Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) thì khẳng định là có thân trung ấm, trong bộ luận nổi tiếng “Câu Xá”, mà tác giả là vị luận sư Đại thừa xuất sắc Vasubandhu (Thế Thân)...Những mô tả về thân trung ấm được Vasubandhu ghi lại khá cụ thể trong bộ Luận Câu Xá (Phẩm Về Nghiệp).
Gần đây, ở Mỹ có bộ phim mang đầu đề “The Ghost” (con ma) thực ra là một bộ phim về thân trung ấm. Người bị chết sau khi thành thân trung ấm, cứ ngỡ là mình vẫn còn sống nhưng cảm thấy hoàn toàn bất lực không thể giao tiếp, nói chuyện với người yêu cũ của mình, cũng như với các bà con, bạn bè thân thuộc mà mình vẫn gặp hàng ngày như khi mình còn sống vậy. Tuy vẫn thấy, vẫn gặp những người quen cũ, người yêu cũ, bạn bè nhưng không tài nào giao tiếp hay nói chuyện với họ được.
Nói tóm lại, Thân trung ấm dù tồn tại tạm thời trong khi chờ đợi tái sanh, cũng chỉ là một dạng sống như muôn vàn dạng sống khác, cho nên, chụp cho nó cái tên là con ma như cuốn phim Mỹ là không thích đáng, chúng ta chờ đợi khoa học phát minh các phương pháp công cụ để có thể giao tiếp với các thân trung ấm, và chắc là lúc ấy, [tr.65] nhiều vụ án hình sự sẽ được phanh phui dễ dàng. Trong khi chờ đợi khoa học phát minh ra được công cụ và phương pháp giao tiếp với các thân trung ấm trong cõi trung hữu, thì mọi thông tin về sự giao tiếp giữa con người sống với thân trung ấm chỉ có thể là sự kiện rất cá biệt, hiếm có, có thể do những điều kiện như sau:
1. Bản thân người đương sự đã tu tập Thiền định đến trình độ đạt được một số quyền năng thần thông, trong đó có Thiên nhãn thông và Thiên nhĩ thông, tạm dịch là Mắt loài Trời và Tai loài Trời. Có học giả đã ví con mắt thịt của loài người như mắt một người ngồi trong nhà xung quanh là bốn bức tường kín mít, chỉ trừ một lỗ nhỏ để cho con người ấy nhìn qua nó. Và mắt loài Trời được tác giả ví như mắt một người ngồi trên một tảng đá ở bờ biển, có thể nhìn ra xa tận chân trời. Nhưng trong cuộc sống hiện đại rộn rịp hiện nay, đạt tới trình độ Thiền định như vậy không phải là chuyện dễ. Vả chăng, nếu có người tu định đạt tới trình độ như vậy, thì họ lại không nói ra.
2. Có nhân duyên tiền kiếp đặc biệt khiến cho có sự giao cảm giữa người sống cõi người [tr.66] với những người đã chết, nhưng hiện nay đang sống ở một cõi sống khác, cao cấp hơn cõi người, vì là thuộc một cõi sống cao cấp hơn, có nhiều quyền năng hơn chúng ta rất nhiều, cho nên họ có thể đến với chúng ta nhưng chúng ta không thể đến với họ được. Họ có thể bày cho ta phương pháp tiếp xúc với họ, nhưng đây là những trường hợp rất đặc biệt, giữa hai bên phải có những ẩn tình sâu sắc. Thí dụ, giáo sư Hoàng Phương ở Hà Nội thường nói giáo sư đã nhiều lần nói chuyện với người vợ đã khuất bóng từ lâu. Hay là PTS Phạm Minh Thảo cũng nói với tôi là anh đã nhiều lần gặp những nhân vật ở thế giới bên kia. Cả hai anh Phương và Thảo đều là bạn quen cũ đã lâu, tôi không bao giờ nghi ngờ các anh đã nói lời không thật. Nhưng có thể là trường hợp của hai anh thuộc trường hợp giao cảm đặc biệt giữa các anh và một nhân vật ở các cõi sống khác chăng?
Tôi tin là hai anh đã nói thật, nhưng không thể tin là có một cõi sống đặc biệt dành riêng cho những người đã chết. Nghĩa là có các cõi sống khác nhau nhưng không có một cõi nào của người chết cả. Không thể có cõi sống dành [tr.67] cho những người chết, đó là một mâu thuẫn ngay trong bản thân từ ngữ, một chuyện tưởng tượng, hoang đường. Đạo Phật có cõi sống trung ấm, nhưng đó là một cõi sống tạm thời, trung gian. Thân trung ấm cũng là một loại thân vật chất tuy đó là loại vật chất đặc biệt mà con mắt thịt của cõi người không thể thấy được, nhưng đã nói là thân vật chất thì không thể tồn tại lâu được, nó cũng phải biến đổi và hoại diệt.
Khi mà khoa học chưa phát minh ra được những phương pháp và công cụ thích hợp để cho chúng ta có thể giao tiếp được với cõi trung ấm, thì chúng ta hãy chờ đợi. Mọi thông tin về cõi trung ấm, cũng như về các cõi sống khác, chúng ta không vội bác bỏ, cũng không vội cả tin. Phải chăng đó là thái độ khoa học nhất hiện nay.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 3 24/05/11 22:54

(tt)
[tr.68] B. TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI VỀ CHỨNG CỚ TÁI SANH:

[justify]Giáo sư Nguyễn Chung Tú có hỏi tôi về những chứng cớ khoa học của sự tái sanh.
Xin phép được trả lời như sau:
Chủ đề của bài tôi nói là Phật giáo có thừa nhận có cõi âm hay không, nghĩa là có một cõi sống riêng dành cho người chết hay không? Chủ đề không phải là thuyết tái sanh, do đó mà không nói gì nhiều về tái sanh. Nhưng nhân đây, tôi muốn cung cấp một số thống kê của Viện Gallup, theo một cuộc điều tra trên toàn nước Mỹ năn 1982 về tỉ lệ người Mỹ tin ở thuyết tái sanh. Con số Viện Gallup đưa ra có thể nói là một con số bất ngờ. Một phần tư người Mỹ tin ở thuyết tái sanh. Một phần tư trên tổng dân số khoảng 250 triệu là bao nhiêu? Người Mỹ vốn nổi tiếng trên thế giới là thế tục, thực dụng và tôn trọng vật chất!
Như vậy là trên 60 triệu người Mỹ tin có thuyết tái sanh không kém dân số của cả nước ta bao nhiêu.
[tr.69] Nhà văn hào Pháp Voltaire (thời kỷ 18) nói là “Nếu nói thuyết tái sanh làm người ta kinh ngạc thì thuyết nói con người chỉ sanh ra một lần cũng làm kinh ngạc không kém”
Lý do chủ yếu khiến người ta không tin có tái sanh, có một đời sống trước là vì người ta không nhớ những chuyện gì đã xảy ra trong đời sống trước đó. Nhưng hãy hỏi, ngay đối với những chuyện xảy ra hồi nhỏ, hay thậm chí mới xảy ra ngày hôm qua, chúng ta còn quên kia mà! Bao nhiêu điều chúng ta không trực tiếp biết hay là không nhớ nhưng chúng vẫn tồn tại.
Túc mạng minh hay là khả năng nhớ lại các đời sống trước:
Trong văn chương Phật giáo, có từ và khái niệm Túc mạng minh, là khả năng của các bậc Thánh trong Phật giáo nhớ lại rõ ràng các kiếp sống trước của mình. Phật Thích Ca trong canh đầu đêm Ngài thành Phật dã nói như sau:
“Ta nhớ lại nhiều, rất nhiều đời sống trước mà ta đã trải qua. Một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, năm mươi đời, trăm nghìn đời trong các kiếp vũ trụ khác nhau...”
Các bậc A La Hán đều nói chứng được ba minh, tức là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và [tr.70] Lậu tận minh. Thiên nhãn minh là khả năng nhìn xa, nhìn qua vật cản, nhìn tận những cõi sống khác nhau không phải cõi người. Lậu tận minh là sự sáng suốt đã xóa sạch mọi mê lầm và phiền não. Tất nhiên, trình độ Túc mạng minh của A La Hán còn kém nhiều so với Phật.
Tính lô gíc của thuyết tái sanh đã khiến cho có nhiều trí thức phương Tây, kể cả những tín đồ Thiên Chúa giáo chấp nhận thuyết tái sanh. Trong cuốn “Exploring Reincarnation” (Nghiên cứu thuyết tái sanh), tác giả Hans Tendam, dẫn chứng lời nói của Henry Ford, nhà công nghiệp và là nhà từ thiện Mỹ nổi tiếng viết về thuyết tái sanh như sau:
“Tôi chấp nhận thuyết tái sanh từ năm tôi 26 tuổi. Tôn giáo không cung cấp được cái gì thích hợp. Ngay công việc cũng không làm cho tôi được thỏa mãn đầy đủ. Công việc làm sẽ là vô ích nếu chúng ta không lợi dụng được kinh nghiệm của đời này để dùng cho đời sau. Khi tôi phát hiện được thuyết tái sanh, thì thời gian không còn bị hạn chế nữa. Tôi không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa. Tôi muốn truyền lại cho những người khác sự bình thản mà một quan điểm lâu dài về cuộc sống đã đem lại cho tôi”.
(Hans Tendam, “Exploring Reincarnation”, London Adams. 1990, trg. 877)
[tr.71] Trong lời phát biểu của Henry Ford, có câu “Tôn giáo không cung cấp được gì thích hợp”. Câu này không phải chỉ cho tôn giáo nói chung mà là cho Thiên Chúa giáo, một tôn giáo thần quyền chủ trương người ta chỉ sống và chết một lần. Còn các tôn giáo phát sinh từ Ấn Độ, dù là Phật giáo hay Ấn Độ giáo đều khẳng định có tái sanh.
Chúng ta thấy rõ bức xúc tâm lý của những con người như Henry Ford, cuộc sống con người quá ngắn ngủi, không đủ để hoàn thành sự nghiệp lớn, do đó mà thuyết tái sanh đã mở rộng cho Ford tầm cỡ thời gian của một cuộc sống, làm cho ông ta cảm thấy như không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa.
Vài câu chuyện tái sanh có sức thuyết phục:
Trong cuốn “The Tibetan Book Of Living And Dying” (cuốn sách Tây Tạng của sống và chết, tác giả là Thiền sư Tây Tạng Sogyal Rinpoche ghi câu chuyện của một người Anh sinh trưởng ở Norfolk, tên là Arthur Flowerdew từ 12 tuổi trở đi, anh ta thường xuyên mơ thấy hiển hiện rõ nét trong trí nhớ hình ảnh một thành phố lớn, bao quanh bởi sa mạc. Một hình ảnh đậm nét nữa là một ngôi đền tạc lõm sâu vào sườn núi. Những hình ảnh đó trở đi trở lại luôn trong đầu óc cậu bé, đặc biệt khi [tr.72] cậu chơi với những hòn sỏi màu hồng và màu vàng dọc bờ biển gần nhà cậu ta. Càng lớn lên, Flowerdew càng thấy hiện rõ những chi tiết của thành phố đó, với mô hình các đường phố, các binh lính đi qua lại, và con đường hẻm hẹp từ ngoài dẫn vào thành phố. Về sau, anh ta tình cờ xem được một cuốn phim video về thành phố cổ Petra ở Jordan. Anh ta vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy quảng trường trong thành phố cổ Petra này hoàn toàn giống hệt quảng trường anh ta từng thấy hiển hiện trong trí nhớ trước đây của anh ta. Qua trung gian đài BBC, chính phủ Jordan biết được tin này và sẵn sàng đài thọ một chuyến bay chở Arthur Flowerdew và một đoàn làm phim của đài BBC đến Jordan. Trước chuyến đi Arthur được giới thiệu với một nhà khảo cổ học đã từng nghiên cứu thành phố cổ Petra và có viết một cuốn sách về Petra. Nhà khảo cổ rất ngạc nhiên về kiến thức của Arthur về Petra và tuyên bố kiến thức này chỉ có thể là của một chuyên gia khảo cổ học lâu đời. Arthur nêu ra ba đặc điểm đặc biệt của Patra: một tảng đá lớn, có dạng núi lửa, một ngôi đền nơi Arthur tin là mình bị giết vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Cuối cùng là một cấu trúc có dạng kỳ lạ, các nhà khảo cổ đều biết tới cấu trúc này nhưng lại không rõ chức năng của nó là gì.
[tr.73] Nhà khảo cổ đã gặp Arthur và nghi ngờ là các tảng đá dạng núi lửa ở ngoại ô Petra không tồn tại. Khi nhà khảo cổ đưa cho Arthur xem ảnh của thành phố Petra nơi có ngôi đền thì Arthur chỉ rõ khá chính xác vị trí của ngôi đền, và nơi trạm gác, giải thích cách thức kiểm tra của các trạm gác. Đó là trạm gác mà hai nghìn năm trước đây anh ta đã từng phục vụ.
Sau khi đoàn đến Jordan, và đi thăm Petra, khi tiến đến gần thành phố, Arthur từ xa chỉ rõ các tảng đá dạng núi lửa ở ngoại ô, và khi vào thành, Arthur đã không do dự, không cần tới bản đồ, đã đi thẳng đến vị trí trạm gác cũ nơi anh từng phục vụ. Anh còn đi đến nơi mà anh nói đã bị kẻ thù đâm chết bằng một ngọn giáo.
Nhà khảo cổ đi theo Arthur không thể nào hiểu nổi sao một công dân Anh bình thường lại có thể biết rõ thành phố cổ Petra đến như vậy...
Ngoài thuyết tái sanh, thật không có lý lẽ gì có thể giải thích được kiến thức kỳ lạ của Arthur Flowerdew về thành phố cổ Petra. Có thể nghi ngờ là Arthur là một tay bịp hay không? Không thể vì Arthur đã nói ra nhiều điều mà các nhà khảo cổ học cũng không biết về Petra.
[tr.74] Truyện một cô bé gái nhớ lại đời sống trước của mình:
Bác sĩ Ian Stevenson, thuộc trường Đại Học Virginia (Mỹ) đã thu thập nhiều truyện của trẻ con nhớ lại đời sống trước của chúng (xem Stevenson–Twenty cases suggestive of reincarnation Clarlottes-villes. Universty Press of Virginia. 1974).
Stevenson kể chuyện một em gái nhỏ tên là Kamalgit Kour, con một thầy giáo ở Punjab-Ấn Độ, thuộc bộ tộc người Sikh. Em dẫn cha mình đến một làng, và nói với cha là em cùng với một người bạn đồng học đã bị xe chẹt chết ở đây. Người bạn bị chết ngay lập tức, em dẫn người cha đến đúng xóm nhà nơi em từng ở trước đây với gia đình. Hỏi thăm hàng xóm người cha biết là đúng như vậy. Một gia đình có một người con gái tên là Rishma, bị xe buýt đâm phải khi em 16 tuổi, và đã chết trong khi xe chở đi nhà thương. Khi ông nội và hai người bác của em trở về nhà gặp em thì em nhận ra ngay đó là ông nội và người bác của em. Vào nhà, em không do dự đi thẳng vào phòng xưa vốn là phòng của em.
Câu chuyện nói trên được kể lại với giáo chủ Tây Tạng là Đạt Lai Lạt Ma, và ông gửi một đặc [tr.75] phái viên đến tận nơi để tìm hiểu rõ mọi đầu đuôi câu chuyện.
Năm phương pháp giúp tin có tái sanh:
1. Thứ nhất là suy nghĩ đúng đắn về sự khác biệt nhân cách và năng khiếu giữa những người con cùng một gia đình. Tại sao, người cùng một gia đình được hưởng một sự giáo dục gần giống nhau lại có thể khác biệt rất nhiều về nhân cách và năng khiếu. Có người con thì tánh tình rất tốt, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, trái lại có người con thì tánh tình hung dữ, chỉ muốn hại người.
Sự khác biệt giữa các người lớn có thể thấy trong thái độ của họ đối với tôn giáo. Có người rất ghét tôn giáo, nhưng có những người rất thích nghe giảng kinh sách tôn giáo dù đó là Thiên Chúa giáo hay Phật giáo. Ghét và không yêu tôn giáo đối với họ như thành bản năng. Phải chăng đó là do những người đó trong một đời sống trước cũng đã từng căm ghét và yêu thích tôn giáo như bây giờ. Có người học một ngoại ngữ rất dễ dàng, nhưng có người khác lại thấy đó là một công việc vô cùng khó khăn.
Người đời này học ngoại ngữ dễ dàng phải chăng trong một đời sống trước đã từng học ngoại ngữ rồi, và đời này nói học ngoại ngữ chỉ là học [tr.76] lại mà thôi. Còn người học ngoại ngữ rất khó khăn là vì anh ta trong đời sống trước chưa từng được học ngoại ngữ bao giờ.
2. Chứng cớ thứ hai giúp chúng ta suy đoán có tái sanh là tính liên tục của tâm thức. Tâm thức chúng ta là một dòng liên tục của niệm sanh diệt không ngừng, niệm trước diệt là cái nhân trực tiếp giúp cho niệm sau sanh khởi. Không có niệm trước diệt thì niệm sau không sanh khởi được. Niệm đầu tiên sanh khởi của thai nhi cũng phải là do niệm trước diệt thì mới sanh khởi được. Và niệm trước đó, chỉ có thể là thuộc đời sống trước, hay là thuộc Thân trung ấm của một đời sống trước, trong trường hợp có Thân trung ấm.
3. Chứng cớ từ mộng: có 3 loại mộng. Một loại mộng có liên quan đến những sự việc ở đời này. Thí dụ, nằm mơ thấy lại những sự việc của thời thơ ấu. Một loại mộng khác liên quan đến những sự việc sẽ xảy ra cũng trong đời này. Loại mộng thứ ba có liên quan tới những cuộc sống quá khứ, như các giấc mơ đã nói ở trên của Arthur Flowerdew.
Sự việc thuộc loại mộng thứ ba không thể xảy ra ở đời này được. Ví dụ, chúng ta nằm mơ [tr.77] thấy mình đang bay. Nếu loại mộng này xảy ra thường xuyên, thì rất có thể trong một đời sống trước, chúng ta đã đạt tới một trình độ Thiền định khiến chúng ta bay được. Hiện tượng người bay được nhờ Thiền định là chuyện có thực, quan sát được. Hiện tượng này tiếng Pháp hay tiếng Anh đều gọi là levitation.
Nội dung sự việc có thể không thuộc một đời sống quá khứ mà thuộc một đời sống tương lai. Thí dụ: Kẻ sống ác có thể nằm mơ thấy mình bị thiêu cháy trong lửa địa ngục, hay là cảm thấy lạnh giá như trong địa ngục lạnh, đến nỗi đắp bao nhiêu chăn trên người cũng không chịu được. Trái lại, người sống thiện lành có thể có những giấc mơ đẹp như là sống trong cảnh Bồng lai, hay trong cung điện nhà Trời. Qua những loại mộng như vậy, có thể suy đoán là phải có các cuộc sống khác với cuộc sống hiện tại, tức là có tái sanh.
4. Chứng cớ thứ tư là thế giới đã thu thập rất nhiều truyện của những người hoặc trẻ con, hoặc người lớn đã nhớ lại các kiếp sống trước của mình. Ở đầu bài này tôi đã nhắc lại các truyện được ghi trong cuốn “Exploring Reincarnation” (Nghiên cứu thuyết tái sanh) của Tendam, hay là trong cuốn sách của giáo sư Stevenson (sách đã dẫn).
[tr.78] 5. Đối với những Phật tử thuần thành, những lời Phật nói về các cuộc sống trước của Ngài là đủ để khẳng định có tái sanh. Tất nhiên đối với những người không phải là Phật tử thì câu chuyện về các kiếp sống trước của Phật không đủ sức thuyết phục.
Để kết luận có thể nói có những điều chúng ta tuy không thấy, nhưng có thể suy đoán bằng lập luận lô gíc, như tuy không thấy lửa nhưng vẫn suy đoán là có lửa vì thấy có khói bốc lên. Cũng như vậy, tuy không chứng kiến sự tái sanh, nhưng vẫn có thể dựa vào bốn loại chứng cớ nói trên mà suy đoán có sự tái sanh.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 3 24/05/11 22:57

[center][tr.79] C. PHỤ LỤC: VẤN ĐỀ TRUNG HỮU[/center]

Vấn đề trung hữu hay trung ấm tức là vấn đề tồn tại của con người (trong bài này chỉ bàn loài người, đối với các loài khác thì cũng tương tự, tuy không phải giống hẳn) sau khi chết. Con người đó sau khi chết thì tái sanh ngay, hay là kinh qua một thời kỳ nhất định mà sự tồn tại gọi là trung hữu hay trung ấm, mang một cái thân đặc biệt gọi là Thân trung ấm?
Nếu có một thời kỳ như vậy, thì trong thời kỳ đó, Thân trung ấm có hình dạng như thế nào, hoạt động ra sao, vì sao mắt người không thấy được? Trong kinh sách Phật Bắc và Nam tông nói về vấn đề này như thế nào, các bộ phái Phật giáo bàn về vấn đề này như thế nào?
Sau đây là những bộ phái nói không có Thân trung hữu: Đại Chúng Bộ, Hóa Địa Bộ, Phân Biệt Thuyết Bộ, cuốn Thành Thực Luận (quyển 3), Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm Luận, Thượng Tọa Bộ Nam Truyền.
[tr.80] Còn chấp nhận có Thân trung hữu là Đông Sơn Bộ, Chánh Lượng Bộ và đặc biệt là Hữu Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ–Câu Xá Luận), (xem bài “Sanh hữu chi nghiên cứu” của Dương Bá Y trong tập “Phật giáo căn bổn vấn đề nghiên cứu”-Quyển II, trg. 375, bản Hán).
Học giả người Anh Martin Wilson, trong cuốn “Rebirth and the Western Buddhist” (Tái sanh và người Phật tử Tây phương, trang 69-70) thì liệt kê về các bộ phái tán thành hay chống đối thuyết trung hữu như sau: “Các Bộ phái chống đối gồm có Mahasanghikas (Đại Chúng Bộ) với các bộ nhánh của nó là Ekavyaharikas, Kukkutikas, Vibhiyavadins, Mahisasakas, Dharmaguptas, Theravadas.” Cuốn “Thanh tịnh đạo luận” (Visudhimagga), nhiều tác phẩm của Nagarjuna (Long Thọ) và Candrakirti (Nguyệt Xứng) đều cho rằng thân ngũ ấm đời trước diệt, thì thân ngũ ấm đời sau sinh ra ngay, không có giai đoạn chuyển tiếp. Cũng như ngọn đèn này châm vào ngọn đèn kia rồi sáng ngay, Bộ luận Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật của Long Thọ cũng khẳng định điều này, và phủ nhận không có một cái thân “vi tế” nào xuất hiện, sau khi người chết trút hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên, các bộ phái như Sammityas (Tam Di Đề Bộ), Sarvastivadas (Nhất Thiết Hữu Bộ), [tr.81] Purvasailas (Đông Sơn Bộ) và cả tới bộ phái Mahissasakas, ở giai đoạn phát triển cuối của nó, cũng đều khẳng định có Trung ấm thân, và Vasubandhu (Thế Thân) đã mô tả Thân trung ấm khá cụ thể trong Bộ Câu Xá Luận, Asanga (Vô Trước) trong cuốn “Abhidharma Samuccaya” cũng khẳng định điều mô tả của Vasubandhu (xem tên chữ Hán của các Bộ phái trong phụ lục).
Như vậy thì ai đúng, ai sai? Bên khẳng định đúng hay bên phủ định là đúng?
Kinh Niết Bàn của Bắc tông đã trả lời như sau: “Không nhất định có cũng không nhất định không có Thân trung hữu. Nếu là nghiệp cực ác (thí dụ đọa địa ngục) hay nghiệp cực thiện như sanh thiên (các cõi Trời) thì không có Thân trung hữu (nghĩa là hóa sanh). Còn đối với các loại nghiệp khác, thì có Thân trung hữu”.
Như vậy là theo Kinh Niết Bàn của Đại thừa, thì trong đa số trường hợp, nghiệp ác thiện xen lẫn, không phải cực ác hay cực thiện thì có Thân trung hữu, tức là một giai đoạn ngắn hoặc dài, chúng sanh chết rồi nhưng chưa tái sanh. Và trong giai đoạn trung gian, chết rồi mà chưa có tái sanh đó, chúng sanh mang một cái thân đặc biệt gọi là Thân trung hữu hay Thân trung ấm.
[tr.82] Thân trung ấm tồn tại trong thời gian bao lâu?
Luận Tỳ bà sa khẳng định thời gian tồn tại của Thân trung ấm phải rất ngắn. Nhưng bao lâu? Thế Hữu nói tối đa là 7 ngày. Thiết Ma Đạt Đa nói tối đa là 49 ngày. Còn Pháp Cứu thì nói bao nhiêu ngày là tùy có đủ nhân duyên hay không, nếu chưa đầy đủ nhân duyên thì Thân trung ấm vẫn tồn tại, không hạn chế thời gian. Thí dụ, nhân duyên có một Chuyển Luân Vương tái sanh không phải là dễ. Thời gian chờ đợi có thể lâu.
Đặc điểm của Thân trung ấm:
Luận Câu Xá mô tả khá cụ thể. Thân trung ấm cũng có một dạng với thân bổn hữu. Thân bổn hữu là thân sẽ tái sanh. Nếu do nghiệp mà sẽ tái sanh làm người thì Thân trung ấm là thân của con người bé khoảng 5, 6 tuổi, có 5 giác quan đầy đủ, nhưng những cảm quan đó được cấu tạo bằng sắc pháp vi tế nhỏ nhiệm cho nên mắt người không trông thấy được.
Nếu Thân trung ấm là thân người thì nó có tầm vóc một đứa bé lúc năm hay sáu tuổi. Do có 5 giác quan đầy đủ, làm bằng chất liệu vi tế, cho nên công năng thấy, nghe v.v...của nó nhạy bén hơn là công năng thấy, nghe của thân người sống, [tr.83] có giác quan được cấu tạo bằng những chất liệu thô nặng hơn. Nói cách khác, họ (tức là Thân trung ấm) thấy chúng ta được, nhưng chúng ta không thấy họ được. Thân trung ấm không đi đứng như chúng ta bình thường mà có thể đi ngang qua vật cản, bay liệng trên không để chờ cơ hội tái sanh. Và khi đã có chỗ thích đáng cho họ tái sanh, thì không có gì ngăn cản được họ. Nhưng năng lực thần thông này không do rèn luyện Thiền định mà có cho nên sách Câu Xá gọi là nghiệp thông. Ý nói thần thông không phải do rèn luyện hay Thiền định mà là do nghiệp của Thân trung ấm là như vậy.
Thân trung ấm được nuôi dưỡng bằng mùi (sách Trung Quốc gọi là hương). Nghĩa là không phải ăn thức ăn như chúng ta mà là ăn cái mùi vị mà thôi. Thí dụ đĩa thịt, Thân trung ấm chỉ ngửi mùi thịt, chứ không phải ăn thịt thật sự. Vì vậy mà sách Phật cũng gọi Thân trung ấm là hương ấm (gandharva). Thực ra, hướng tái sanh đã được quyết định khi người mới chết, vừa tắt thở, cho nên nếu hướng tái sanh là cõi người, thì lập tức thân trung ấm là thân người, như một cậu bé độ 5, 6 tuổi với năm giác quan nhạy bén hơn là giác quan của người sống, và di chuyển [tr.84] không có gì cản được. Với Thiên nhãn, nó thấy được nơi sanh tương lai của nó, nơi giao hợp của cha mẹ. Lúc ấy, nếu Thân trung ấm là nam, thì tự cảm thấy muốn giao hợp với mẹ và có cảm giác oán giận đối với người cha. Nhưng nếu Thân trung ấm là nữ, thì lại có cảm giác ngược lại. Đồng thời cũng tưởng tượng là mình cũng đang giao hợp với người mẹ hay người cha tương lai của mình, và sau đó cảm thấy mình ở trong bụng mẹ, dưới hình thức bào thai.
Đại sư Tsong Khapa, người Tây Tạng cho rằng, cảnh giao hợp chỉ là huyễn tượng, hay cảnh tưởng tượng, nhưng một khi đã nảy sinh lòng thèm khát giao hợp, thì lập tức có tái sanh và Thân trung ấm vào bụng mẹ.
Cảm giác của Thân trung ấm trước cảnh tượng giao hợp giữa người cha và mẹ tương lai của mình là một cảm giác vừa thèm muốn vừa oán giận xen lẫn, và chỉ cảm giác ấy thôi cũng đủ làm cho Thân trung ấm tái sanh.
Như đã nói trên, thời gian tồn tại của Thân trung ấm là vấn đề còn bàn cãi, nhưng người Tây Tạng cho rằng, thời gian tồn tại tối đa của Thân trung ấm là bảy tuần, và cứ sau mỗi tuần thì Thân trung ấm có biến đổi.
[tr.85] Con người có thể nhớ lại Thân trung ấm mình trước đây của mình hay không. Học giả Francis Story, qua thu thập và nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan, đã tổng kết kinh nghiệm đó thành những điểm sau:

1. Khi con người mới chết, Thân trung ấm tách khỏi cái thân chết bất động, nhưng lại không có cảm giác là mình vừa chết, mà là mình vẫn sống...Cảm giác này rất giống cảm giác của những người nhờ thôi miên hay bị uống thuốc mê mà xuất thần.
2. Thân trung ấm thấy xuất hiện một người khác hướng dẫn mình.
3. Thân trung ấm di chuyển không bị trở ngại bởi bất cứ vật cản gì, có thể thấy những Thân trung ấm khác. Giác quan của Thân trung ấm bén nhạy.
4. Cõi sống của các Thân trung ấm là cõi sống riêng biệt, khác với các cõi sống khác như cõi người, cõi súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục và cõi trời là những cõi sống thường được mô tả trong các sách Phật.
5. Francis Story kể lại chuyện một người Thái Lan tên là Kawn, chết vì bệnh thương hàn thấy các sư cầu nguyện bên cạnh giường [tr.86] nằm của mình, sau đó thấy các sư đi ra, và mình cũng theo ra, và khi đó anh ta mới biết là mình đã chết. Anh ta thấy mọi vật chung quanh anh không có gì thay đổi, không khác gì lúc anh còn sống. Anh thấy mình đi ngang qua nhiều người khác như là đi vào chỗ không người. Và khi anh nghĩ tới bất cứ một nơi nào thì lập tức anh thấy mình xuất hiện ngay tại nơi đó.
Anh ta không có cảm giác đói, cũng không thấy sợ hãi khi thấy một gã say rượu và một cậu bé chạy thẳng vào phía anh ta. Anh ta có cảm giác mình trở nên bé nhỏ. Anh ta không cảm thấy giận dữ khi gặp những người sống ném đá vào mình, nhưng anh thấy các trung ấm khác tỏ ra giận dữ trong cảnh ngộ tương tự, nhưng anh cũng sợ là mình bị thương nếu bị ném phải.
6. Đại sư Tsong Khapa Tây Tạng dẫn chứng cuốn “Du già sư địa luận” (Yogacara bhumi), khẳng định là Thân trung ấm không có hối tiếc lại thân phận mình khi còn sống.
7. Trung ấm thân giống như một đứa bé 5, 6 tuổi ở trần hay không thì còn là vấn đề bàn cãi. Có tư liệu nói trung ấm thân mặc quần áo giống như khi lâm chung.
[tr.87] 8. Thân trung ấm thường tham dự tang lễ của mình và quan sát bà con thân thích mà mình vốn yêu mến.
9. Thân trung ấm không cảm thấy đói và mệt, nhưng phạm vi hoạt đông và giao tiếp bị hạn chế. Trung ấm thân không còn chịu cái khổ của cuộc sống thế gian, với cái thân vật chất thô nặng thường phải chịu những đau đớn vật chất.
10. Thân trung ấm mất ý thức về thời gian; vài chục năm đối với Thân trung ấm như trôi qua trong nháy mắt.
Những điều ghi trên đây được thu thập trong quá trình đọc các sách có liên quan tới vấn đề chết và Thân trung ấm. Chủ yếu là các sách Phật bằng chữ Hán, và các sách do các học giả Anh và Mỹ viết trên cơ sở các tài liệu Tây Tạng. Tôi không bình luận, nghĩa là chờ các độc giả và các bạn cùng bình luận.

[tr.88] TƯ LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:
1. Kinh Pháp Cú bản dịch Thích Minh Châu.
2.Thiền Uyển Tập Anh, bản Hán và các bản dịch.
3. Luận Câu Xá, bản Hán.
(Các phần về giới và nghiệp)
4. The Tibetan Book Of Life And Death (Sogyal Rinpoche).
Cuốn sách Tây tạng về sống và chết–Bản Anh.
5. The Five Eyes (năm con mắt)–C.T.Shen.
6. Rebirth And The Western Buddhist –Martin Wilson
(Tái sanh và người Phật tử Phương Tây) bản Anh.
7. Trung Bộ Kinh III, Bài Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt–Bản dịch Thích Minh Châu.
8. Phật Giáo Căn Bổn Vấn Đề Nghiên Cứu, tập 2
(Dương Bá Y–bản Hán), bài “Sanh Hữu Chi Nghiên Cứu”.
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi nguyenga » Thứ 6 27/05/11 8:34

Thế giới tâm linh tôi tin là có thật nhưng giải thích như thế nào thật là khó. Có nhiều nhà ngoại cảm như Năm Chiến, Bích Hằng, Nguyễn Văn Thương... đã tìm ra mộ liệt sĩ và "nhìn thấy" như thể họ đang sống. Đọc bài viết của bạn phân tích, tôi vô cùng ngưỡng mộ. Bạn thật là có tư duy phân tích khoa học, hy vọng bạn viết nhiều bài về đề tài này.
RANDOM_AVATAR
nguyenga
 
Bài viết: 218
Ngày tham gia: Thứ 7 29/11/08 9:40
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 2 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 7 28/05/11 18:18

[center][tr.89] GIẢI NGHỆP VÀ GIẢI OAN
Minh Chi
Học viện Phật giáo Việt Nam[/center]

[justify][tr.90] Thuyết nhân quả và thuyết nghiệp của đạo Phật là những thuyết rất là khoa học, rất công bằng; nghe qua thì đơn giản và dễ hiểu, nhưng thực ra lại rất phức tạp hơn là chúng ta tưởng.
Có người nói: Quả nào nhân ấy, nhân nào quả ấy; quy luật nhân quả là quy luật công bằng không sai lệch được. Thế nhưng chính câu nói trên chỉ đúng có một nửa. Đúng là quả nào nhân ấy. Thí dụ, một người gặp cảnh ngộ bất hạnh như mất tiền, hay là gặp tai nạn giao thông, phải què chân hay thậm chí mất mạng. Đứng trên quan điểm nhân quả của đạo Phật mà xét, thì sự kiện bất hạnh xảy ra cho người đó, hoàn toàn phù hợp với những nghiệp bất thiện mà người này đã làm trong quá khứ. Quy luật quả nào nhân ấy đúng là không bao giờ sai lệch. Nhưng nếu nói nhân nào quả ấy thì lại không đúng, vì sao? Đó là điều mà tất cả Phật tử cần nhận thức cho rõ, vì nhận thức đúng đắn trang bị cho con người một niềm tin vô hạn là chúng ta không phải lệ thuộc quá khứ, mà con người có thể tác động trở lại quá khứ, dù đó là một quá khứ đầy tội lỗi, bằng những nghiệp thiện và cực thiện mà người đó làm trong hiện tại và [tr.91] tương lai. Đồng thời, con người đó lại biết thường xuyên tu tập tâm, khiến cho tâm mình trước đây nhỏ hẹp, vị kỷ trở thành rộng lớn và vị tha; tâm mình vốn tán loạn, nay trở thành định tĩnh và tập trung, tâm mình vốn hay nghĩ ác, nay hoàn toàn chỉ suy nghĩ thiện và hướng thiên...
Kinh Hạt Muối trong Tăng Chi I, đức Phật đã đưa ra một ảnh dụ rất lý thú. Một ít hạt muối bỏ vào một ly nước nhỏ, khiến cho ly nước đó không thể uống được. Nhưng cũng một ít muối như thế bỏ vào sông Hằng, thì nước sông Hằng vẫn không bị mặn. Cũng như vậy, một số người có tâm nhỏ hẹp như ly nước, thì dù anh ta có phạm một lỗi nho nhỏ, anh ta cũng cảm thọ khổ tới mức không chịu đựng được nổi. Trái lại, một người có tâm rộng lớn như sông Hằng, thì một lỗi nhỏ như vậy cũng làm cho anh ta khổ đau, nhưng anh ta vẫn chịu đựng được. Như vậy là tùy người có tâm rộng hay hẹp mà một nghiệp ác được tạo ra, đem lại quả báo khổ thọ khác nhau, nhưng lý do căn bản nhất khiến cho thuyết nhân nào quả ấy trở thành không đúng, là do sự kiện một nghiệp nhân được tạo ra, phải kinh qua một thời gian, và có đủ điều kiện (tức là nhân duyên), thì mới chín muồi thành quả. Đó là thuyết Dị thục mà sách Duy Thức của đạo Phật thường nói đến. Di thục là chín muồi mà đổi [tr.92] khác. Do thời gian khác nhau, do nhân duyên khác nhau mà nhân đổi khác, biến dị thành quả.
Chúng ta thử nghiên cứu xem, do những nhân duyên gì mà nghiệp nhân đổi khác khi biến thành quả. Trước hết và chủ yếu, có một nhân duyên thường xuyên tác động và tác động rất mạnh là cái tâm của người đương sự. Cái tâm đó có thể tác động rất mạnh, rất có hiệu quả nếu đó là cái tâm rộng lớn như sông Hằng (xem Kinh Hạt Muối-Tăng Chi I).
Ở đây, không có vấn đề giải oan hay giải nghiệp mà người bình thường hay nói một cách sai lầm. Khi tâm chuyển thì nghiệp chuyển. Khi phạm tội, chúng ta chân thành sám hối, tâm chúng ta được an tịnh và chuyển sang hướng thiện. Chính cái tâm sám hối và hướng thiện giúp cho chúng ta chuyển nghiệp. Nếu tâm không chuyển sang hướng thiện, nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, thì mọi sự gia hộ từ bên ngoài, dù là từ Phật, Bồ tát hay là từ Chúng tăng thanh tịnh, như trong trường hợp lễ Vu lan, sẽ không có hiệu quả. Nói như vậy phải chăng, có nghĩa là chúng ta không cần đến sự gia hộ của chư Phật, Bồ Tát và chúng Tăng. Vẫn rất cần, nhưng cần như là phương tiện xúc tác, giúp cho tâm ta chuyển sang hướng thiện mà [tr.93] thôi. Cho nên, vấn đề căn bổn ở đây là tâm. Nếu tâm chúng ta không bỏ ác, theo thiện, cứ tiếp tục nghĩ ác, nói ác và làm ác, thì mọi lễ cầu siêu hay cầu an đều vô ích, mọi sự gia hộ của Phật, Bồ tát và Thánh chúng đều vô hiệu. Chính vì vậy mà Kinh Pháp Cú viết:

[center]“Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.”
(Kệ 42)
“Điều mẹ, cha, bà, con,
Không có thể làm được.
Tâm hướng thiện làm được,
Làm được tốt đẹp hơn”
(Kệ 43–Phẩm tâm)[/center]

Như vậy tức là đức Phật khẳng định tâm hướng chánh, hướng thiện có sức mạnh rất lớn, nó che chở, gia hộ, giúp ích cho chúng ta nhiều hơn là những thân thích với chúng ta nhất như cha mẹ, bà con có thể giúp ích cho chúng ta. Trái lại, nếu tâm hướng ác, hướng tà, thì tâm ấy còn làm hại chúng ta hơn là kẻ thù hại chúng ta nữa. Tâm là một sức mạnh lớn tạo nghiệp và có [tr.94] năng lực chuyển nghiệp. Dù trước đây, chúng ta có thể tạo ra nhiều tội ác như tướng cướp Angulimala, hay là sống quá nửa cuộc đời đồi trụy và hưởng lạc như kỹ nữ Ambapali, hay là sống với nhiều tà kiến ngoại đạo nặng nề như Subhada...nhưng nếu gặp được duyên lành, gặp được thiện tri thức, (cả ba người này đều gặp Phật Thích Ca và nghe Phật nói Pháp), khi tâm của họ tỉnh ngộ và chuyển hướng mạnh mẽ theo con đường thiện, con đường giác ngộ và giải thoát, thì những tội ác và sai lầm đã phạm được chuyển hóa, họ đều trở thành A La Hán. Chánh pháp là như vậy, đức Phật đã đích thân dạy như vậy, thực ra không có con đường giải oan hay giải nghiệp nào khác. Mọi sự cúng bái, lễ lạc, dù có tổ chức cầu kỳ với sự tham gia của Tăng chúng thanh tịnh cũng chỉ có tác dụng ngoại hộ và phương tiện mà thôi. Nghĩa là giúp cho tâm chúng ta chuyển hướng bỏ ác theo thiện, và một khi tâm đã hướng thiện, thì nghiệp chúng ta cũng chuyển hướng, lánh xa cõi dữ tiếp cận cõi lành. Nếu chúng ta không hiểu được vấn đề căn bản này, nếu tự tâm chúng ta không hướng thiện, nghiệp ác sẽ càng chồng chất nhiều lần, quả báo ác sẽ không thể nào tránh khỏi được. Kinh Pháp Cú có viết:

[center][tr.95] “Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp”
(Kệ 127-Phẩm ác).[/center]

Đúng như vậy, những người sống ác, làm ác mà tâm không biết xấu hổ, không hối hận, không chuyển tâm từ ác sang thiện, không nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, thì như Phật dạy, dù anh ta có trốn ở trên trời, dưới biển, lánh vào hang sâu cũng không tránh được quả báo, nó đeo theo mình như hình với bóng. Đối với những người sống ác thành thói quen, thành cố tật thì tình hình là như vậy, quy luật nghiệp báo nhân quả tác động không sai lệch một ly tấc. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng, loại người sống ác thành thói quen, thành cố tật không phải là nhiều. Đại đa số người bình thường thì không như vậy. Ban ngày có thể làm ác, nhưng ban đêm nằm vắt tay lên trán, không ngủ được và hối hận những việc sai trái mình đã làm trong ngày. Đặc biệt là trong những trường hợp bản thân mình hay là người thân ốm nặng, hay là gia đình gặp chuyện rủi ro, hao tài tốn của, và đặc biệt hơn nữa là khi bản thân mình sắp chết, hay là có người thân sắp chết. Trong những trường hợp như vậy, [tr.96] tâm người ác dễ sinh sợ hãi, dao động, và có thể chuyển sang hướng thiện, dù là muộn màng nhưng còn hơn không.
Những điều trên đây hoàn toàn không phủ nhận tác dụng lớn của các lễ cầu an, cầu siêu hay là các buổi lễ kèm theo trai Tăng, trong đó có mời Tăng sĩ đến tụng kinh hộ niệm cho gia chủ, được tai qua nạn khỏi hay là chết được siêu thoát, được sanh lên các cõi lành. Nhưng cần nhắc lại là tác dụng lớn đó phải thông qua sự chuyển biến trong tâm người gia chủ hay là thân nhân người gia chủ. Trong những cảnh ngộ đặc biệt như vậy, tâm người gia chủ thường rất ăn năn hối hận, sợ hãi dễ cảm xúc và nhạy bén; do đó, mà dễ dàng chuyển biến từ hướng ác sang hướng thiện. Tâm hướng thiện, đó là điểm căn bản quyết định tác động lớn của các buổi lễ. Nếu tâm không chuyển thì nghiệp không thể chuyển được. Điều khó khăn là người sống ác, lúc gần chết thường bị hôn mê, gia đình thân nhân vì không hiểu đạo nên bối rối, la hét, than vãn ồn ào, khiến cho tâm người sắp chết đã rối loạn và hôn mê lại càng rối loạn và hôn mê thêm. Nếu người sắp chết, trước khi hôn mê mà được Tăng sĩ và thiện tri thức hiểu đạo hộ niệm, trong một khung cảnh trang nghiêm, không ồn ào, người sắp chết được nhắc nhở về những việc [tr.97] thiện mình đã làm, được nghe vài bài kinh đọc bằng tiếng Việt, ngắn và dễ hiểu, bỏ tà kiến, thì tâm của anh ta có thể chuyển biến, và nghiệp cũng chuyển theo. Anh ta đáng lẽ sanh vào cảnh giới xấu, thì lại được sanh vào cõi tốt đẹp hơn.
Đó là sức mạnh của cái mà sách Phật gọi là nghiệp gần chết (Cận tử nghiệp). Người chết không đủ sức để hành động bằng thân, thậm chí cũng không nói được, mà chỉ tạo ra ý nghiệp mà thôi. Ý nghiệp đó rất mạnh, có thể quyết định hướng tái sanh, dù là hướng thiện hay hướng ác, cũng đều rất mạnh. Do đó, vấn đề là nếu là gia đình Phật tử, hiểu đạo, thì phải bày trí một khung cảnh thật sự yên tĩnh và trang nghiêm, để cho con người sắp chết có thể chết trong thanh thản, yên ổn với tiếng chuông, mõ và hộ niệm của chư Tăng và các bạn lành. Người sắp chết được thân nhân và bạn lành nhắn nhủ về những điều thiện mà anh ta đã từng làm, tốt hơn nữa là thân nhân tiếp tục làm nhiều công đức như bố thí, phóng sanh và hồi hướng những công đức đó cho người sắp chết có được một cái chết yên ổn, và có được một đời sống kiếp sau tốt đẹp. Trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, có truyện Hoàng đế Asoka (A dục) thực đáng cho chúng ta suy ngẫm. Công đức của Asoka đối với Phật pháp thì mọi người học Phật đều rõ. Có thể nói đây là vị [tr.98] Hoàng đế mộ Phật, và cống hiến cho đạo Phật nhiều nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử không phải của riêng Ấn Độ mà của toàn thế giới. Đối với một người như vậy, chết rồi sanh lên cảnh giới tốt đẹp phải là chuyện bình thường, ấy thế mà vì lúc lâm chung, vì ác duyên cho nên phát sanh ra một cơn thịnh nộ, khiến vua chết rồi tái sanh làm con mãng xà. Điều may mắn là con vua, A La Hán Mahinda, biết được chuyện này, lập tức đến cạnh nhà vua, lúc bấy giờ đã biến thành con mãn xà, nói lời vỗ về an ủi và nói pháp, khiến Asoka phút chốc tỉnh ngộ, tâm chuyển nên nghiệp cũng chuyển, nó lột xác, chết rồi lập tức tái sanh lên cõi Trời. Vấn đề “Cận tử nghiệp” tức nghiệp gần chết là một chủ đề lớn, không phải trong một bài viết ngắn mà có thể giải quyết hết được. Chủ đề chính của bài này là tâm có chuyển thì nghiệp mới chuyển. Mọi cuộc lễ bái, cầu siêu, cầu an, nói cho cùng có tác dụng làm cho tâm người đương sự chuyển mà thôi, thực ra, không có người nào khác, mà chính mình phải giải oan và giải nghiệp cho mình.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Thế giới tâm linh - tin hay không?

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 7 28/05/11 18:23

[center]THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI SỰ SỐNG-CHẾT
Minh Chi
(Học Viện Phật Giáo Việt Nam)[/center]


[justify][tr.100] Có bốn thái độ khác nhau đối với sự “sống-chết”
1. Thái độ của các nhà duy vật cổ đại và hiện đại:
Các nhà duy vật cổ và hiện đại đều cho rằng chết là hết. Không có chuyện gì xảy ra đối với con người đã chết. Thân xác trở về với cát bụi, cái gọi là “linh hồn tồn tại” chỉ là chuyện tưởng tượng hoang đường.
2. Thái độ bất khả tri luận của một số triết gia:
Khổng Tử nói: Sống còn chưa biết, thì biết chết để làm gì? Còn Epicuya, một triết gia Hy Lạp thời cổ đại, thì nói: “Khi còn sống, thì làm sao biết được chết là gì, và khi đã chết rồi, lại càng không thể biết chết là gì.”
3. Thái độ của một vài tôn giáo thần quyền:
Một vài tôn giáo thần quyền cho rằng, con người ta chỉ sống và chết có một lần. Nếu sống có đạo đức, được Thượng Đế ban ơn, thì khi chết được lên Thiên đàng sống với Thượng Đế, nếu sống phi đạo đức, không được Thượng Đế ban ơn, thì khi chết sẽ xuống địa ngục sống với quỷ.
[tr.101] 4. Thái độ của Phật giáo:
Con người không phải chỉ sống và chết một lần. Sống và chết, sinh ra rồi chết đi là hai mắt xích của một chuỗi sống chết dài vô tận, cứ lặp đi lặp lại mãi từ ngày vô thủy cho tới ngày giác ngộ và giải thoát tối hậu. Quan niệm này của Phật giáo đối với vấn đề sống chết có một giá trị rất tích cực đối với nhân sinh, đối với cuộc sống của chúng ta. Những giá trị tích cực đó như sau:

1. KHÔNG CÒN LO ÂU VỀ CÁI CHẾT NỮA

Sống rồi chết. Chết rồi lại tái sanh ở một cõi sống mới, với một thân phận mới, do chính chúng ta quyết định trong cuộc sống hiện nay của chúng ta. Như vậy, chết không phải là về nơi yên nghỉ cuối cùng mà là tiến vào một cuộc sống mới. Do đó, người Phật tử hiểu đạo không có gì phải lo âu, ray rứt, bức xúc.
Thiền sư Trì Bát đời Lý có bài thơ nói về đạo lẽ sống chết rất tỏ tường:

[center]“Hữu tử tất hữu sinh
Hữu sinh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sinh vi thế sở hỷ
Bi hỷ lưỡng vô cùng
[tr.102] Hổ nhiên thành bỉ thử
Ư chư sinh tử bất quan hoài...”
Dịch nghĩa:
Có chết tất sẽ có sinh ra.
Có sinh tất có chết.
Chết thì người đời buồn.
Sinh thì người đời vui.
Buồn vui là một chuỗi vô cùng (lập đi lập lại).
Vì đối đãi nhau cho nên có cái này cái kia.
Đối với sống và chết không còn quan tâm lo âu gì...[/center]

2. CHỦ ĐỘNG VỚI CÁI CHẾT.

Cái chết là điều không tránh được. Cũng như ngọn đèn không thể sáng mãi, hết dầu hay hết tim thì ngọn đèn phải tắt. Dầu hết ví như nghiệp lực cạn và con người sẽ chết. Còn tim đèn có thể ví với thọ mạng của loài người. Thọ mạng của loài người hiện xê xích trên dưới một trăm tuổi. Thọ mạng hết thì con người cũng phải chết. Có trường hợp nghiệp lực chưa hết, thọ mạng cũng chưa hết, nhưng sự chết vẫn xảy ra. Thí dụ, trong các trường hợp chết bất đắc kỳ tử, như tai nạn xe cộ, bị giết [tr.103] v.v... đó là do người bất hạnh, trong cuộc sống quá khứ hay trong cuộc sống hiện tại đã tạo ra một nghiệp lực rất nặng, gọi là “Phá hoại nghiệp” (sách Anh ngữ gọi là Destructive Karma), tác động như một ngọn gió mạnh làm tắt ngọn đèn, dù là bình dầu chưa cạn và tim đèn còn dài.
Tôi nghĩ rằng, đa số Phật tử chúng ta, sống trong sáng và đạo đức, sẽ khó gặp cái chết bất đắc kỳ tử. Tất nhiên đây là nói tình hình chung. Có thể có ngoại lệ, có sai số một phần nghìn hay một phần vạn. Nói chung, theo các sách Phật thường nói, những người sống cuộc sống đạo đức trong sáng có thể biết trước ngày chết của mình trong vòng một tuần, hay thậm chí còn sớm hơn nữa, còn đủ thì giờ để dặn dò gia đình, bà con thân thuộc. Khi lâm chung, vẫn còn minh mẫn, sáng suốt, không đau đớn, và nhất là không hôn mê. Chết đối với họ như lá rụng mùa thu. Thiền sư Từ Đạo Hạnh, khi sắp tịch, đã có thái độ chủ động, bình tỉnh như vậy. Điều này có thể thấy qua bài thơ của sư:

[center]Thu lai bất báo nhạn lai quy,
Lãnh tiếu nhân gian động phát bi,
Vị báo môn nhân hưu luyến trước.
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
[tr.104] Dịch:
Mùa thu đến không báo trước mà chim
nhạn cũng bay về.
Cười nhạt người đời hay bi thương.
Nay ta bảo cho học trò chớ có thương tiếc nữa.
Trước đây ta đã làm sư, và nhiều lần nay, ta lại làm sư.[/center]

Thiền sư Từ Đạo Hạnh nói thọ mạng người hết cũng như mùa thu đến, và người chết cũng như chim nhạn bay về. Sư cười thế gian không hiểu đạo lý của sống, chết nên mới tỏ ra bi thương khi thấy người chết. Sống thì phải chết, chết rồi lại tái sanh, sống nữa. Điều mà Phật tử quan tâm là sống như thế nào để cho mỗi lần sống, mỗi lần tái sanh là mỗi bước tiến bộ trên con đường giác ngộ và giải thoát, trên con đường hướng thượng về tâm linh. Đồng thời cũng sống như thế nào để có được cái chết bình thản, vui vẻ. Vì chết không phải là về nơi an nghỉ cuối cùng như người ta thường nói, mà chết là tiến tới một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Trang trướcTrang kế tiếp

Quay về Văn hoá tôn giáo - tín ngưỡng

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến1 khách

cron