[center]BẢN TÍNH NGƯỜI VIỆT
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ PHẬT GIÁO[/center][center]Minh Chi[/center]
[justify]Tôi rất thích thú tên gọi của trung tâm “Trung tâm Nghiên cứu tâm lý học dân tộc và tôn giáo”, vì mấy lý lẽ sau đây:
Thứ nhất, Tâm lý học là một môn khoa học, làm việc trên những dữ kiện thực tế, được quan sát, thu thập từ cuộc sống, rồi được quy nạp thành những nét khái quát có sức thuyết phục. Nói bản tính người Việt tức là tức là những nét tâm lý của người Việt, được khái quát hóa từ những dữ kiện thực tế lặp đi, lặp lại nhiều lần, mà người Việt cũng như người nước ngoài tiếp xúc với người Việt Nam đều có công nhận như vậy.
Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi bên Tây hay bên Tàu rồi tưởng tượng ra bản tính của người Việt. Hay là một số người phương Tây, đi du lịch đến Việt Nam một vài lần, gặp một vài người Việt Nam, rồi khẳng định người Việt hay rung đùi, hay đi giải ngoài đường v.v… nghĩa là họ tìm những cái tân kỳ, cái mới lạ để về kể chuyện là quà cho người bên nước họ mà thôi.
Thứ hai, không phải môn tâm lý học chung là môn tâm lý học dân tộc Tức là một môn tâm lý học liên quan tới hai sự kiện lớn của cuộc sống là dân tộc và tôn giáo. Hiện nay, hầu hết các điểm nóng trên thế giới đều liên quan tới hai sự kiện này. Tướng De Gaulle có câu thời danh “Les traditions passent, la nation reste” (Những truyền thống đều đi qua, nhưng dân tộc vẫn tồn tại). Còn về tôn giáo thì một nhà duy vật như Các Mác cũng thừa nhận là “tình cảm tôn giáo (Sentiment religieux) là cái phân biệt rõ ràng nhất loài người và các loài sinh vật khác”(1)
Sau đây, chúng ta thử điểm qua một vài bản tính của người Việt, vốn được thừa nhận như là tiêu biểu nhất, trong quá khứ cũng như trong hiện nay.
1.Một vài bản tính đặc trưng của người Việt.
Trước hết là bản tính yêu nước bộc lộ rõ nhất trong thái độ cương quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc, cũng như bảo vệ bản sắc văn hóa của dân tộc.
Bản tính này được Hồ Chủ Tịch nói lên với câu thời danh: “Không có gì quý hơn độc lập và tự do.”
Dưới thời Lý nó được nói lên bởi Lý Thường Kiệt.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”
Dưới thời hậu Lê, sau khi quân Minh bị Lê Lợi đánh ra khỏi bờ cõi, nó cũng được nói lên bởi Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo
“Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Đường, Hán, Tống, Nguyên hùng cứ một phương…”
Cái gì cũng có ngoại lệ, bản tính yêu nước của người Việt Nam cũng vậy.
Khi quân Minh xâm chiếm nước ta, vẫn có không ích những người gọi là kẻ sĩ cộng tác với quân xâm lược, và trong “Bình Ngô Đại Cáo”, Nguyễn Trãi đã vạch mặt bọn này như những câu:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”.
Dưới thời Trần, trong khi cả nước đang kháng chiến quyết liệt chống Nguyên Mông thì vẫn có một số quan lại thông đồng với quân địch bằng thư từ. Sau chiến thắng, triều đình đã bắt được cái tráp chứa đựng những thư từ đó. Nhưng Trần Thánh Tông lúc đó là Thượng Hoàng, đã sai đốt cái tráp đó đi, vì cho rằng quân giặc đã rút, việc lớn đã thành, lòng người cần được yên.
Nhớ lại, khi giặc Nguyên mới đến, Nho sĩ Trần Ích Tắc đã vội đầu hàng và viết những câu đáng xấu hổ trong cuốn “An Nam chí lược”:
“Việt Nam tùng tư quốc nãi phế
Trung Hoa giáo hóa biến cửu châu
Tiệm giáo viễn nhân thông lễ nghĩa”
Dịch nghĩa:
“Nước Việt Nam từ nay bị phế bỏ,
Nước Trung Hoa khai hóa khắp chín châu
Dần dần dạy người xa thông lễ nghĩa…”
Đáng tiếc là bản tính yêu nước của người Việt đời Lý, đời Trần, sôi sục lên trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, trong các hội nghị lịch sử Diên Hồng và Bình Than, đến cuối thời Trần thì không còn dấu tích nữa. Quân Chiêm Thành nhiều phen tiến đánh nước ta, vây hãm và chiếm thành Thăng Long mà quân dân ta bó tay, không đối phó được. Có thể hay không kết luận là một bản tính sâu sắc như bản tính yêu nước của người Việt, mà chúng ta không biết cách nuôi dưỡng, giáo dục và tái tạo từ thế hệ này sang thế hệ khác thì cũng mai một dần dần đi.
2.Một số bản tính khác của người Việt.
Những bản tính đặc trưng của người Việt, nếu chỉ kể những bản tính tích cực, như bản tính yêu nước được nêu ra trên đây, cũng không phải tồn tại độc lập rời rạc, cái này biệt lập với cái kia, mà chúng tạo thành một hệ thống những bản tính cùng hổ trợ trong nhau và cùng phát triển.
Thí dụ, như đã yêu nước thì phải có dũng khí kiên quyết chống ngoại xâm, không thể như Trần Ích Tắc, giặc Nguyên mới đến mà đã đầu hàng, về sau tuy được tha tội chết, nhưng phải gọi là ả Trần, để ghi nhớ tính ươn hèn sợ giặc của mình…Trái lại toàn quân dân tưng bừng khí thế đánh giặc. Giặc đến nhà đàn bà phải đánh. Nhỏ tuổi như Trần Quốc Toản cũng xung trận. Toàn dân đều đánh giặc. Cả nước mà chỉ có hai làng đầu hàng giặc mà thôi, đó làng Ba Điểm và làng Bàng Hà. Dân hai làng này về sau bị xử phạt chỉ được làm lính, không bao giờ được làm quan.
Một bản tính nữa có liên quan đến yêu nước là tình đoàn kết của nhân dân Việt Nam trước nạn ngoại xâm, không phân biệt giới tính, dân tộc, địa phương Nam Bắc. Vì kinh nghiệm lịch sử cho thấy, khi nào trong nước lục đục, triều đình phong kiến chia thành năm bè bảy mối, thì lập tức quân giặc ngấp nghé ngoài bờ cõi.
Vì vậy mà khi được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, Thiền sư Pháp Thuận đời Tiền Lê đã trả lời:
“Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình…”
Dịch nghĩa:
Vận nước như dây mây quấn chặt nhau
Có như vậy thì trời Nam mới được thái bình
Từ ý tứ là nhân dân cả nước đoàn kết nhau chặt chẽ như dây mây quấn với nhau, thì giặc ngoại xâm sẽ không làm gì được và nước Nam sẽ có thái bình.
Dưới thời Pháp thuộc, cụ Phan Bội Châu cũng cho rằng, nếu toàn dân ta đoàn kết một lòng thì thực dân Pháp cũng đến phải rút chạy về nước mà thôi. Cụ viết: “Họ chỉ có năm chục ngàn người, trong khi chúng ta là cả một dân tộc 20 triệu người. Chẳng cần gươm súng, chỉ cần đấu tranh tay không, ta cũng đuổi được họ về nước. Điều cần thiết nhất là ta phải một lòng một dạ..”
Cụ nói lại tư tưởng của cụ bằng thơ như sau:
“Thương ôi! Trăm sự tại người
Chữ đồng ai dám ngăn rời chữ tâm
Người trong cho tới người ngoài
Chữ tâm cần phải ai ai cũng đồng…”
“Cốt trong nước người ta một bụng
Nghìn muôn người cũng giống một người
Phòng khi sưu thuế đến nơi.
Bảo nhau không đóng có đòi được không.
Gọi đến lính chẳng thằng nào chịu
Bắt một người ta kéo muôn người.
Bây giờ có lẽ giết ai
Hẳn thời nó cũng chịu lui nước mình”
(Hải Ngoại Huyết Thư-Phan Bội Châu)
Tất nhiên, cụ Phan có cái chủ quan của cụ. Bởi vì nếu không có cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai, và một nước Pháp bị suy yếu nhiều; không có sự kiện Nhật đánh Pháp, rồi Nhật đầu hàng Đồng minh, và không có mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của cụ Nguyễn Ái Quốc phát động toàn dân khởi nghĩa làm cuộc Cách mạng Tháng 8, thì e rằng nước ta không được như ngày nay.
Trong hơn ba mươi năm nhân dân Việt Nam đấu tranh chống Pháp và Mỹ để giành lại nền độc lập, tự do và thống nhất cho tổ quốc, tư tưởng toàn dân đoàn kết lại được Hồ Chủ Tịch nói lên trong những câu thời danh như:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công…”
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi!”
Đáng tiếc là ngay cả bản tính đoàn kết thương yêu nhau của người Việt cũng có ngoại lệ của nó. Khi có ngoại xâm hay thiên tai nặng nề, tinh thần đoàn kết và đồng cảm thương yêu nhau bộc lộ rõ rệt và chân tình (như trong hai lần lụt vừa rồi tại Trung Bộ), làm cho thế giới và kẻ thù nữa phải khâm phục. Nhưng một khi hoà bình đã lập lại, trong nước bình yêu vô sự, thì những chuyện tham nhũng, làm giàu bất chính, mất đoàn kết nội bộ, địa phương, cục bộ lại nổi lên như cồn.
Nói tới một số bản tính khác của người Việt cũng vậy, như bản tính yêu lao động, yêu thiên nhiên, bản tính trào phúng và châm biếm.v..v…Tôi không muốn nói gì thêm, ngoài việc nhấn mạnh hai điều là bản tính tốt đẹp nào cũng có ngoại lệ, và bất cứ một bản tính tốt đẹp và tích cực nào của người Việt cũng phải được tất cả chúng ta-những người đang sống-quý trọng, đề cao, bồi dưỡng, phát triển bằng nếp sống hằng ngày của mình. Nếu không thì ngoại lệ sẽ trở thành phổ biến, những bản tính vốn rất tốt đẹp của người Việt sẽ bị mai một dần, kiểu như bản tính yêu nước sẽ chỉ còn lại cái bóng mờ vào cuối đời nhà Nguyễn, khi mà chỉ vài chục tên lính Pháp cũng đủ chiếm hầu hết các thành trì ở Bắc Kỳ. Khi mà vua cũng như quân hoàn toàn mất hết uy tín trong mắt người dân:
“Sông Hương nước chảy lờ đờ,
Dưới sông có đĩ, trên bờ có vua…
Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình
Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi,
Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma
(Xem Ca Dao Việt Nam Đinh Gia Khánh, các trang 129-130)
Vua quan phong kiến đã như vậy, thì dân có theo giặc cũng không thể trách. Khi còn ở Hà Nội tôi có đọc một quyển sách sưu tầm những thư từ của binh lính Pháp gởi về gia đình họ, trong thời gian quân Pháp đánh chiếm Việt Nam. Có thư viết: “Quân Pháp đi đến đâu, thì nhân dân, nam cũng như nữ, già cũng như trẻ đều chạy theo đến đó, níu lấy áo xin được quân Pháp che chở cho khỏi bọn tham quan ô lại hà hiếp bóc lột”.
Lỗi tại ai? Xin hỏi lại một lần nữa, khi bản tính yêu nước của người Việt sôi sục xưa kia, dưới thời Trần Hưng Đạo, Lê Lợi rồi Quang Trung, vào cuối đời Nguyễn thì biến đi đâu, đến nỗi nhân dân đã không đánh giặc Pháp xâm lược lại còn chạy theo níu áo chúng, mong cầu được che chở?
3. Biện pháp giải quyết
Có lần tôi hỏi chuyện một nhà báo Đức: “Tại sao nhân dân một nước Đức có những nhân vật tầm cỡ như Kant, Hegel, K. Marx, Engels, Schopenhauer, Goethe,…mà lại có thể bái phục và chạy theo Hitler được thì cũng lạ. Tạo sao?” ông ta trả lời:
“Ừ, cũng lạ. Tôi đã từng dự một cuộc nói chuyện của Hitler với phụ nữ Đức. Phải nói Hitler có biệt tài diễn thuyết. Hắn nói ngắn, nhưng với những lời quyết đoán như đinh đóng cột. Hắn và học trò của hắn lại có tài dàn cảnh và đóng kịch. Theo hắn thì phụ nữ Đức nên làm chức năng cái máy đẻ ra những người Aryan thuần chủng. Một quan điểm về phụ nữ Đức như vậy thì làm sao có thể lôi kéo hàng triệu triệu phụ nữ Đức được, kể cũng lạ. Không khí hội trường như có điện giật. Hàng mấy trăm cánh tay giơ lên: Heil Hitler và chính tôi một nhà báo cộng sản nằm vùng, cũng phải giơ tay theo, và cũng gào: Heil Hitler!”
Nhà báo trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Tôi thấy còn có lý do sâu xa nữa, là nhân dân Đức thiếu được bồi dưỡng về tư duy triết học, cho nên họ mới ăn phải bả của Hitler và đồng bọn.”
Chính ý tứ sau cùng của nhà báo Đức làm tôi suy nghĩ rất nhiều, khi nghĩ tới vận mệnh thăng trầm của đất nước và nhân dân Việt Nam. Có đúng hay không, khi có người nói nhân dân Việt Nam có sự minh triết (sagesse), nhưng không có triết học và triết gia. Chúng ta có cán bộ triết học, giáo sư triết học dạy triết Đông, triết Tây, triết Mác xít, nhưng triết gia thì không có.
Nhưng một câu hỏi tiếp theo là tại sao lại có tình hình như vậy? Theo tôi có hai lý do. Một là Việt Nam nằm giữa hai trung tâm văn hóa lớn của cả thế giới là Trung Hoa và Ấn Độ, và từ thời rất xa xưa, đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của hai trung tâm văn hóa lớn này. Đồng thời để tiếp thu, tiêu hóa thành quả của hai trung tâm văn hóa đó, đòi hỏi quá nhiều thời gian và tư duy rồi, còn đâu thời gian nữa để tìm ra cái mới? Hơn nữa, đất nước lại nằm sát cạnh một nước Trung Hoa khổng lồ, luôn luôn muốn xâm lược, thống trị và đồng hóa nước ta. Kháng cự lại, hơn nữa kháng cự thành công áp lực to lớn đó mà không cần có một Vạn lý trường thành như ở biên giới phía Bắc Trung Quốc, đã là một thành tích vẻ vang có một không hai rồi. Còn thời gian đâu nữa, công sức đâu nữa để sáng tạo ra một nền triết học độc đáo của Việt Nam.
Nếu có sáng tạo lớn thì trong vấn đề này Việt Nam đã cung cấp một mô hình độc đáo kết hợp chính trị với triết học, biểu hiện trong sự nghiệp của ông vua kiêm thiền sư đời Lý và đời Trần, như Lý Thái Tông, vị vua thứ hai nhà Lý kiêm thiền sư, thuộc thế hệ thứ hai phái thứ bảy của phái Thiền Vô Ngôn Thông; vua Lý Thánh Tông, vị vua thứ ba triều Lý kiêm thiền sư, thuộc thế hệ thứ hai phái thiền Thảo Đường; Trần Thái Tông, vị vua sáng lập ra triều đại nhà Trần, là tác giả cuốn “Khóa Hư Lục” và được các Thiền sư Trung Hoa như sư Đức Thành bái phục và tham vấn hỏi đạo; và cuối cùng là vua Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba triều Trần, sau cùng với Trần Hưng Đạo, lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi chống Nguyên Mông, đã xuất gia làm tăng và sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử…
Với các vua Lý và Trần trên đây, có thể nói giấc mơ “triết vương” không thành của hai triết gia cổ Hy Lạp là Socrate và Platon đã được thực hiện, như thực hiện không phải bởi người Hy Lạp mà là bởi các ông vua Việt Nam đời Lý và đời Trần. Triết vương, theo chỗ hiểu của Socrate và Platon, là những ông vua kiêm triết gia, hay là triết gia đồng thời là đế vương…
Hiện nay ở nước ta, trong thời đại mở cửa và cơ chế thị trường, trong thời đại nước ta hội nhập vào khu vực và thế giới, sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, làm sao có được những ông vua kiêm thiền sư như dưới hai triều đại Lý và Trần. Chúng ta không phải là triết gia hay tư tưởng gia, nhưng chúng ta đối với bất cứ vấn đề gì, đều tránh cái nhìn hời hợt bên ngoài, dẫn đến nhận định đánh giá hời hợt và quyết định hời hợt. Mà cái nhìn theo chiều sâu chính là cái nhìn triết học. Cái nhìn thấy sự vật là một phức thể, có mâu thuẫn và thống nhất, một cái nhìn bao quát và toàn diện như vậy cũng là cái nhìn triết học. Một tư tưởng, một sự vật hình như đối lập và mâu thuẫn với mình, nhưng trên thực tế lại hỗ trợ cho mình, bổ xung cho mình, giúp cho mình được hoàn thiện hơn. Lối nhìn như vậy có người cho rằng là sở hữu riêng của đạo học phương Đông, thật ra, thì hai tư tưởng gia duy vật tầm cỡ là Mác và Lê nin đều có nhấn mạnh sự vật là “Thể thống nhất của các mặt đối lập” v.v…
Một cái nhìn theo chiều sâu như vậy là rất cần thiết, bởi lẽ, ở cương vị lãnh đạo, chúng ta thường sốt ruột, muốn mọi việc đều làm xong chóng vánh, hơn nữa, lãnh đạo lại có quyền lực cho nên rất dễ dùng quyền lực để giải quyết mọi mâu thuẫn và đối lập, dẫn đến những tác hại không thể lường.
Điều tôi muốn nhấn mạnh trong phần kết luận này là những người lãnh đạo có thể không phải là triết gia, nhưng vì là lãnh đạo, cho nên phải có cái nhìn triết học theo chiều sâu mới có thể tránh khỏi sai lầm. Tức là cái nhìn theo chiều sâu, không dừng ở bề ngoài, cái nhìn không hạn hẹp mà toàn diện đối với mọi sự vật như một tổng thể, và cái tổng thể đó lại chuyển biến không ngừng, không phải tĩnh tại. Nhìn sự vật như vậy, nhìn con người lại phải càng như vậy. Một cán bộ xã, khi còn là trung nông, chưa có chức có quyền có thể tiết kiệm từng đồng, nhưng khi đã trở thành giám đốc một công ty quốc doanh, thì có thể lãng phí hàng triệu, hàng tỷ đồng của Nhà nước.
Con người là như vậy, đâu phải là thánh thần. Cần huy động không phải một sức mạnh, mà nhiều sức mạnh tổng hợp, để ngăn ngừa con người phạm tội, làm điều ác. Tôn giáo là một loại sức mạnh như vậy, nhưng cho đến nay, chúng ta không biết sử dụng. Đó là một thiếu sót rất lớn trong lãnh đạo, một thiếu sót lớn của Ban Tôn giáo Chính phủ, vẫn giữ mãi lối nhìn cũ, coi tôn giáo là thuốc phiện, là mê tín dị đoan, là duy tâm. Trong khi đó thì Các Mác, người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản lại viết:
“Nếu trong trái tim con người, có một tình cảm xa lạ với tất cả số còn lại của các loài động vật, một tình cảm cứ tái sanh mãi, dù cho vị trí của con người ở đâu, phải chăng tình cảm đó là một quy luật cơ bản của bản chất con người? Theo chúng tôi thì đó là tình cảm tôn giáo”.
(Mega. IV/I, p. 42. Xem nguyên văn tiếng Pháp trong phụ lục cuối bài).
Tôn giáo đồng thời là một sự kiện quần chúng (Các Mác-Fait de masse), một tiếng nói của đời sống thực tế (Mác-Hệ tư tưởng Đức), một sự kiện văn hóa toàn cầu (Andre Malraux), một sự kiện tâm linh sâu sắc, hiện nay đang trở thành đối tượng nghiên cứu của môn tâm lý học chiều sâu (psychologie des profondeurs) của Tây phương (C. G. Jung-Psychologie Et Religion- chương I).
Vừa rồi, tôi có dùng từ ngữ “Tâm lý học chiều sâu” của nhà phân tâm học Thụy Sĩ nổi tiếng là C. G. Jung. Nhiều học giả âu Mỹ đang chờ đợi ở môn học này một lối thoát cho con người hiện đại phương Tây, đang bị ngập sâu trong lối sống đầy đủ tiện nghi vật chất nhưng lại rất nghèo nàn về tình cảm và tâm linh. Con người mất thăng bằng, điều đó được một nhà báo Mỹ mô tả như một người có một chân buộc vào máy bay phản lực, một chân nữa buộc vào chiếc xe bò kéo! Một con người như thế có nguy cơ bị xé xác!
Người Việt Nam chúng ta ngày nay may mắn không đến nỗi như vậy. Thế nhưng nguy cơ con người Việt Nam bị tha hóa vẫn hiện hữu. Con số cán bộ phạm tội tham nhũng ngày càng tăng, con số thanh thiếu niên nghiện ma túy, tình hình tệ nạn xã hội lan tràn, báo động cho chúng ta về mối nguy cơ đó. Tôi tin tưởng là môn tâm học Phật giáo (bao gồm các môn Duy Thức, Nhân Minh và Thiền học) sẽ đóng vai trò điều tiết đối với con người Việt Nam đang bị nguy cơ thoái hóa, tương tự như vai trò của môn tâm lý học chiều sâu đối với con người phương Tây hiện đại. Chúng ta tất cả nên ủng hộ cho Phật giáo làm cái công việc có tầm quan trọng lịch sử đó, ngoài những công việc quen thuộc như xây chùa, dựng tượng, lễ bái, cầu siêu, cầu an…
PHỤ LỤC:
1-Câu tiếng Pháp của Mác nói về tình cảm tôn giáo:
“Si donc il y a dans le coeur de I’homme un sentiment qui soit étranger à tout le reste des êtres vivants et qui se reproduise toujours, quelle que soit la position ou I’homme se trouve, n’est il pas vraisemblable que ce sensiment est une loi fondamentale de sa nature? Tel set à notre avis le sesiment religieux”
(Mega IV/I p. 342)
2-Câu của C. G.Jung:
“La religion est sans contredit une des mani festations les plus anciennes es les phus generales de I’ame humaine”
(Psychologie et religion p. 13-14)[/justify]