NGÔI CHÙA Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN DU LỊCH VĂN HÓA
1. Theo phương pháp dịch lý: có thể có các cặp phặm trù sau đây:
- Các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng khác >< Ngôi chùa.
- Vật chất >< Tinh thần.
- Tĩnh >< Động.
- Thiêng >< phàm.
2. Xác định:
a. Tính tương hiện:
- Không chỉ có chùa – đại diện cho Phật giáo tồn tại trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng của cư dân địa phương mà còn có nhà thờ - Công giáo; Thánh đường Hồi giáo; miếu Bà Thiên Hậu; Bà Chúa Xứ và Bà Ponagar hay Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Chăm.
- Ngôi chùa không giống như những công trình kiến trúc khác như những di tích lịch sử mà ngôi chùa còn nằm trong những cảnh quan rất đẹp tạo nên những danh lam. (giá trị vật chất nhưng hưởng lợi lớn về mặt tinh thần).
- Ngôi chùa không chỉ thực hiện chức năng tôn giáo mà còn là chức năng xã hội với những hoạt động trường học, tổ đình cứu tế, tổ chức từ thiện đồng thời là những điểm tham quan du lịch nổi tiếng. (Tĩnh nhưng thực ra là động).
b. Tính tương hóa:
- Dù xuất phát từ những tôn giáo lớn trên thế giới hay tín ngưỡng của những dân tộc khác như Hoa, Chăm, Khmer nhưng khi vào đến Việt Nam cũng đã bị bản địa hóa làm cho phù hợp với văn hóa Việt Nam, thậm chí xuất hiện những hệ phái chỉ có ỡ Việt Nam như Phật giáo Hòa Hảo. Không những thế, những thần cây, thần giếng hay các vị thần thánh Việt Nam cũng được thờ chung với Phật, Bồ Tát, La Hán. Ví dụ như: Phước Hải Tự hay còn gọi chùa Ngọc Hoàng trong đó có cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Phật, Bà Mẹ Sanh thờ chung.
- Trong chùa có rất nhiều tín ngưỡng địa phương được lồng ghép cùng với những tượng Phật như một sự bản địa hóa rất rõ do đó có sắp xỉ 40% dân số Việt Nam tin rằng mình theo đạo Phật. Do đó, không ít cơ sở tín ngưỡng bản địa như miếu bà Thiên hậu của người Hoa cũng được gọi là chùa và cũng là điểm du lịch văn hóa.
- Dù đó là ngôi chùa theo hệ phái nào đi nữa nhưng với cư dân Việt đó là nơi linh thiêng, che chở, phù hộ cho mình nên ra sức trùng tu và bảo vệ, góp phần hưng thịnh Phật pháp nơi đó. Hay các vị thần dù là Phật giáo hay tín ngưỡng cũng đều (thiêng liêng khác với các công trình kiến trúc với ý nghĩa trần tục khác).
c. Tính hướng hòa:
- Dù Phật giáo ở Việt Nam có nhiều hệ phái và tồn tại cùng với nhiều tôn giáo khác nhau hay tín ngưỡng khác nhau nhưng tựu trung không hề có sự phân biệt, kỳ thị mà tất cả đều cho rằng tôn giáo hướng con người ta đến chân thiện mỹ hay có những giá trị rất dung hòa như “kính Chúa yêu nước”, “tốt đẹp, đẹp đạo”, “đạo pháp và dân tộc”, v.v…
- Ngôi chùa dù ở vị trí nào cũng đóng vai trò quan trọng của nó đối với xã hội. Là một điểm tham quan du lịch góp phần tôn tạo cảnh quan môi trường, đóng góp của du khách vào công tác từ thiện xã hội; nơi cưu mang cứu giúp người nghèo khổ, bệnh tật, mồ côi; nơi an ủi về mặt tâm linh cho cư dân. Không những thế có nhiều nhà sư cũng đồng thời là chiến sĩ, là lão thành cách mạng, hi sinh vì đạo pháp và dân tộc. (Dung hòa giữa đạo với đời, tư tưởng nhập thế)
- Các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng khác >< Ngôi chùa.
- Vật chất >< Tinh thần.
- Tĩnh >< Động.
- Thiêng >< phàm.
2. Xác định:
a. Tính tương hiện:
- Không chỉ có chùa – đại diện cho Phật giáo tồn tại trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng của cư dân địa phương mà còn có nhà thờ - Công giáo; Thánh đường Hồi giáo; miếu Bà Thiên Hậu; Bà Chúa Xứ và Bà Ponagar hay Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Chăm.
- Ngôi chùa không giống như những công trình kiến trúc khác như những di tích lịch sử mà ngôi chùa còn nằm trong những cảnh quan rất đẹp tạo nên những danh lam. (giá trị vật chất nhưng hưởng lợi lớn về mặt tinh thần).
- Ngôi chùa không chỉ thực hiện chức năng tôn giáo mà còn là chức năng xã hội với những hoạt động trường học, tổ đình cứu tế, tổ chức từ thiện đồng thời là những điểm tham quan du lịch nổi tiếng. (Tĩnh nhưng thực ra là động).
b. Tính tương hóa:
- Dù xuất phát từ những tôn giáo lớn trên thế giới hay tín ngưỡng của những dân tộc khác như Hoa, Chăm, Khmer nhưng khi vào đến Việt Nam cũng đã bị bản địa hóa làm cho phù hợp với văn hóa Việt Nam, thậm chí xuất hiện những hệ phái chỉ có ỡ Việt Nam như Phật giáo Hòa Hảo. Không những thế, những thần cây, thần giếng hay các vị thần thánh Việt Nam cũng được thờ chung với Phật, Bồ Tát, La Hán. Ví dụ như: Phước Hải Tự hay còn gọi chùa Ngọc Hoàng trong đó có cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Phật, Bà Mẹ Sanh thờ chung.
- Trong chùa có rất nhiều tín ngưỡng địa phương được lồng ghép cùng với những tượng Phật như một sự bản địa hóa rất rõ do đó có sắp xỉ 40% dân số Việt Nam tin rằng mình theo đạo Phật. Do đó, không ít cơ sở tín ngưỡng bản địa như miếu bà Thiên hậu của người Hoa cũng được gọi là chùa và cũng là điểm du lịch văn hóa.
- Dù đó là ngôi chùa theo hệ phái nào đi nữa nhưng với cư dân Việt đó là nơi linh thiêng, che chở, phù hộ cho mình nên ra sức trùng tu và bảo vệ, góp phần hưng thịnh Phật pháp nơi đó. Hay các vị thần dù là Phật giáo hay tín ngưỡng cũng đều (thiêng liêng khác với các công trình kiến trúc với ý nghĩa trần tục khác).
c. Tính hướng hòa:
- Dù Phật giáo ở Việt Nam có nhiều hệ phái và tồn tại cùng với nhiều tôn giáo khác nhau hay tín ngưỡng khác nhau nhưng tựu trung không hề có sự phân biệt, kỳ thị mà tất cả đều cho rằng tôn giáo hướng con người ta đến chân thiện mỹ hay có những giá trị rất dung hòa như “kính Chúa yêu nước”, “tốt đẹp, đẹp đạo”, “đạo pháp và dân tộc”, v.v…
- Ngôi chùa dù ở vị trí nào cũng đóng vai trò quan trọng của nó đối với xã hội. Là một điểm tham quan du lịch góp phần tôn tạo cảnh quan môi trường, đóng góp của du khách vào công tác từ thiện xã hội; nơi cưu mang cứu giúp người nghèo khổ, bệnh tật, mồ côi; nơi an ủi về mặt tâm linh cho cư dân. Không những thế có nhiều nhà sư cũng đồng thời là chiến sĩ, là lão thành cách mạng, hi sinh vì đạo pháp và dân tộc. (Dung hòa giữa đạo với đời, tư tưởng nhập thế)