TCTTrang K8
Bổ sung
Cũng giống như ngôn ngữ, những điệu múa Trung Quốc được xem là hình thái "độc nhất vô nhị" kể cả về ngôn ngữ thể hiện, chủ đề, kết cấu... Chỉ qua một điệu múa, người xem có thể hiểu được cảm giác, tâm trạng hay những gì mà các vũ công muốn thể hiện, và có thể cảm thấy tâm hồn mình thư thái, nhẹ nhàng hơn. Nghệ thuật múa Trung Quốc có lịch sử gần 5.000 năm, có thể chia thành những loại chính như: Nghi lễ (cảm ơn và cầu nguyện cho mùa màng bội thu); Kịch (tái hiện hoặc bình luận những sự kiện lịch sử); Múa võ (phần lớn là biểu diễn vũ thuật ); Nông nghiệp (mô phỏng công việc đồng áng hay các hiện tượng tự nhiên).
Ở xã hội phong kiến Trung Quốc, vũ công phần lớn thuộc tầng lớp "dưới đáy", chỉ những người cực kỳ giỏi giang mới được hoàng triều hay những gia đình quý tộc mời vào biểu diễn. Bắt đầu từ thời nhà Đường (618-906 SCN), khi "con đường tơ lụa" thiết lập thì những điệu múa và cả phần nhạc đệm đã ít nhiều mang dấu ấn nước ngoài (đặc biệt là Ấn Độ, Ba Tư).
Vũ đạo nhà Đường phân làm hai loại “Kiếm vũ” và “Nhiễm vũ”. “Nhiễm vũ” đòi hỏi phải dũng mãnh, có lực, “Kiếm vũ” nhẹ nhàng, mềm mại. Những vũ khúc nổi tiếng lúc bấy giờ là: Hồ Toàn, Tây Lương, Hồ Đằng, Thúy Bàn… Tuyệt tác là “Nghê thường vũ y vũ khúc” của Dương Ngọc Hoàn kết hợp hòa quyện vũ đạo truyền thống trung nguyên vốn nhu mì điển nhã cùng nét trong sáng tú lệ của vùng Tây vực. Chính Dương Quý Phi cũng đã nói “Nghê thường vũ khúc có thể lấp trước đậy sau”.
Vũ đạo Trung Quốc thời Thương - Chu chia thành hai nhánh chính gồm "dân sự" và "quân sự". Ở vũ đạo "dân sự", nghệ sĩ múa thường cầm trên tay những ngọn cờ bằng lông chim - thể hiện cuộc sống săn bắt, hái lượm. Những vũ đạo "dân sự" này về sau phát triển thành các điệu múa (kèm theo nhạc) sử dụng trong những lễ hội cầu may, trừ tà tổ chức ở những vùng ngoài kinh thành. Trong những nhóm vũ đạo "quân sự" với nhiều người tham gia, nghệ sĩ múa thường mang vũ khí trên tay, di chuyển nhịp nhàng. Hàng loạt bài tập sau này áp dụng cho binh lính luyện tập có nguồn gốc từ đây. Người Trung Quốc thông qua các động tác phối hợp tay và chân tạo nên điệu múa thể hiện sự biết ơn với Đấng Tối cao cho họ sức khoẻ, hạnh phúc, cuộc sống bình yên, đồng thời tái hiện nét sinh hoạt đời thường, cảm giác vui thích hay đau khổ.
Một vài điệu múa chính:
1. Múa sư tử
Điệu múa này thường thấy trong những dịp lễ hội của người Trung Quốc, bởi người ta tin rằng, nó mang lại hạnh phúc và may mắn. Múa sư tử do hai hoặc một nhóm vũ công thể hiện. Những nghệ sĩ múa chuyển dịch đầu sư tử theo tiếng nhạc rộn rã. Có hai cách thức chính trong múa sư tử là múa của người phương Bắc và múa của người phương Nam. Phân biệt hai loại này dựa vào những động tác thể hiện hay vẻ ngoài của sư tử. Sư tử phương Bắc có bộ lông màu vàng, động tác miệng không nhiều trong khi sư tử phương Nam lại có bộ lông nhiều màu và miệng thể hiện rất sinh động. Trong những điệu múa truyền thống Trung Quốc, không có điệu nào náo nhiệt với thanh la não bạt như múa sư tử. Mỗi dịp tết Nguyên đán, người dân phương Nam thường thích tham gia múa hay xem biểu diễn từ sáng sớm đến tối khuya, trong khi người phương Bắc tổ chức lễ hội lớn rất công phu, màn múa sư tử xuất hiện lúc kết thúc. Múa sư tử không thể thiếu bộ gõ hay những nhạc cụ phụ trợ khác.
2. Múa rồng
Rồng - theo quan niệm của người phương Đông nói chung - là loại động vật lưỡng cư, vừa sống trên cạn, lại có thể bay trong không khí hay bơi trên biển cả. Rồng là biểu tượng của sức mạnh tự nhiên, tính hào hiệp, phẩm cách cao thượng lại rất cẩn trọng. Mặc dù hình tượng rồng trông khá dữ tợn, nó là con vật 'tổng hợp" từ nhiều loài khác: sừng hươu, đầu lạc đà, tai trâu, mắt thỏ, vẩy cá... Múa rồng thể hiện sự kính trọng của người dân (đặc biệt là nông dân) Trung Quốc với thế giới tự nhiên, họ tin rằng có một số con vật đại diện cho sức mạnh thánh thần. Quan niệm này cũng xuất hiện ở một vài dân tộc châu Á khác. Múa rồng thể hiện ước mơ một vụ mùa may mắn, đời sống thịnh vượng trên trái đất. Kích cỡ và độ dài của con rồng múa phụ thuộc vào vật liệu cấu tạo, vào khả năng vũ công, diện tích sân khấu, và cả mức độ "đầu tư tài chính". Thông thường một con rồng được chia làm 7-13 khúc, đôi khi có thể lên tới 46 khúc. Rồng có thể làm bằng nhiều màu khác nhau, phổ biến là màu xanh (tượng trưng cho mùa màng bội thu) cùng một số màu khác như vàng (quyền lực của hoàng đế), màu bạc (sự thịnh vượng) hay màu đỏ (nhộn nhịp náo nhiệt)...
Tuy nhiên, dù là rồng Nam hay rồng Bắc thì đuôi và vảy rồng vẫn dùng màu ánh bạc là chủ yếu (tượng trưng cho những vì tinh tú lấp lánh, đem lại cảm giác vui vẻ, thư thái). Sự phối hợp nhịp nhàng, uyển chuyển theo từng khúc dọc thân rồng là yếu tố quyết định đến việc thành công trong múa rồng. Chỉ xảy ra sơ suất nhỏ nào đó trong đoàn vũ công, lập tức con rồng đang "vờn mây" có thể bị "đứt khúc".
Tiếng trống là âm thanh không thể thiếu trong múa rồng. Đầu rồng thường nặng tới 6kg, bởi vậy vũ công phần đầu phải là người mạnh khoẻ, khả năng chịu đựng cao và nhuần nhuyễn các điệu nhảy. Cả một đội nghệ sĩ tham gia múa rồng phải "nhìn trước ngó sau", không nhảy nhanh quá, không bước chậm quá và phải tự mình né vòng, dâng lên hạ xuống. Thông thường một "con rồng lớn" cần tới khoảng 68 người, mỗi khúc rồng cần 4 nghệ sĩ thể hiện. Điệu múa này thường xuất hiện trong những dịp lễ tết quan trọng, thu hút rất nhiều người tham gia.
3. Múa Tây Tạng
Hầu hết người dân Tây Tạng đều có thể hát và múa. Họ hát mọi nơi mọi lúc, trong những ngày hội, hay những sự kiện hoặc nghi lễ tôn giáo, họ nhảy trong đám cưới, thậm chí chỉ là trước đám đông tụ tập mỗi lúc rảnh rỗi. Lịch sử của những ca từ, điệu múa Tây Tạng có từ cách đây hàng ngàn năm, trong đó múa hát tôn giáo hoặc mang tính thần bí phù phép là quan trọng nhất. Trang phục của người múa phần lớn là áo truyền thống tay dài, hoạ tiết rực rỡ. Nội dung những bài hát và điệu nhảy phản ánh cuộc sống hạnh phúc, bình an, đầy ắp tiếng cười. Từ em nhỏ tới người già Tây Tạng, bất kể ai cũng có thể biểu diễn rất thành thục các điệu chính như: điệu múa của người chăn bò, vũ điệu chú hươu nhỏ, múa chim công, múa đàn sếu bay...
4. Múa trống
Vào cuối mùa đông, thanh niên trong các ngôi làng nông thôn Trung Quốc bắt đầu tập múa trống, biểu diễn trống chuẩn bị đón chào Tết Nguyên đán. Một vũ công mang bên mình chiếc trống sơn đỏ treo bằng dải lụa nhỏ ngang người, dùi trống cũng gắn dải lụa đỏ, vỗ hoặc đánh trống nhịp nhàng theo bước chân hay điệu đánh tay điêu luyện. Nhịp trống rộn rã với điệu nhảy mạnh mẽ dứt khoát thể hiện ước mơ một cuộc sống phóng khoáng, khát vọng tự do với cảm xúc nồng nàn, tha thiết.
Múa trống ở An Sai và Lạc Xuyên (phía bắc tỉnh Sơn Tây) được xem là mẫu mực với những nét phân biệt rõ ràng. Động tác múa An Sai sôi nổi, phần vũ điệu phụ thuộc nhiều vào nhịp trống. Lên tới cao trào của điệu múa, vũ công vừa đánh trống vừa nhảy, miệng hét vang "hei hei" nghe rất phấn khích, hào hứng. Múa trống Lạc Xuyên lại theo "chỉ đạo chung" của trống lớn (gọi là trống cái). Dùi trống cái dài và mảnh. Vũ công mặc y phục kiểu chiến binh màu trắng, với chiếc khăn bịt đầu và cờ giắt sau lưng. Dù quay sau hay tiến lên phía trước, toàn bộ vũ công đều hướng theo hiệu lệnh của người chỉ huy như binh lính tập trận thời xưa.
Ngoài ra còn có múa quạt, múa lụa, múa trong Kinh kịch…