[justify]Cấm kỵ là những hành vi bị cấm, phá hoại cấm kỵ tất nhiên sẽ bị trả giá. Cấm kỵ là một quan niệm thuộc phong tục tập quán, được xây dựng trên cơ sở của cộng đồng xã hội.
1. Nguồn gốc và sự ra đời của cấm kỵ
Cấm kỵ ra đời từ xã hội nguyên thủy, khi mà năng lực tư duy của con người còn thấp. Mặc dù vậy cấm kỵ không biến mất khi năng lực và trí tuệ của con người càng ngày càng được nâng cao, và cấm kỵ vẫn tiếp tục phát triển. Có thể nói, chỗ nào có con người, chỗ ấy có cấm kỵ.
Cấm kỵ ra đời sớm nhất vào thời mông muội của loài người, tức là khi nhân loại chưa có một ngôn ngữ rõ ràng, chưa thể mượn ngôn ngữ để tư duy.
Những ghi chép trong văn tự Trung Hoa cho thấy những chứng cứ trực tiếp về hiện tượng cấm kỵ từ trong tản văn thời Chiến Quốc, dân ca thời Xuân Thu, giáp cốt văn trước sau thời Thương. Trong sách Lễ ký - một điển tịch về lễ tục của các triều đại từ Hán về trước – đã có ghi lại việc này. Thiên tăng tử lập sự trong sách Đại đới lễ ký viết: “Người quân tử khi vào nước khác, không hỏi những điều nước người ta kiêng, không phạm những điều nước người ta cấm”, đó gọi là “nhập gia tùy tục”. Như vậy, rõ ràng từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, cấm kỵ dân tục đã hình thành.
2. Nguyên nhân ra đời những cấm kỵ
Con người thường đặt niềm hy vọng vào những hiện tượng tự nhiên đem lại những lợi ích vật chất, mà sinh ra sợ hãi các hiện tượng tự nhiên mang đến cho họ những tai họa. Bởi vì, đương thời năng lực nhận thức về tự nhiên của con người còn nhiều hạn chế, sức sản xuất ở trình độ thấp; cho nên ngoài việc cố gắng chinh phục tự nhiên, chủ yếu người ta vẫn lấy sự thích ứng và phục tùng tự nhiên làm phương thức sinh tồn cơ bản.
Khả năng nhận thức thấp kém của loài người là nguyên nhân ra đời của quan niệm cấm kỵ. Người nguyên thủy dần dần có nhu cầu bức thiết muốn tìm hiểu giới tự nhiên giới tự nhiên có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Họ muốn biết thuộc tính của các vật trong tự nhiên như động vật, thực vật và các loại thiên thể có quan hệ mật thiết với con người. Nhưng toàn bộ giới tự nhiên khiến người nguyên thủy cảm thấy bí hiểm, không thể giải thích được, do vậy sinh ra ý thức sùng bái tự nhiên.
3. Sợ hãi, mê tín và cấm kỵ
Nguyên nhân của cấm kỵ ban đầu là vì người ta không thoát khỏi sự sợ hãi ngây muội và mê tín đối với tự nhiên bao la. Những thiên tai, nhân họa như dịch bệnh, chết chóc, động đất, chiến tranh… không biết khi nào sẽ giáng xuống đầu người ta. Do đó, tâm lý sợ hãi của con người khó có thể bị tiêu trừ, trên thực tế, lại có thể trừng phạt người ta. Điều này khiến cho cấm kỵ có động lực khách quan để truyền lại đời sau.
Nhưng, nguyên nhân chủ yếu của các cấm kỵ còn ở phương diện chủ quan của con người. Đó là, qua mấy nghìn năm, văn hoá phong kiến Trung Quốc đã hạn chế sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Đặc biệt là những người lao động ở giai cấp dưới rất khó xâm nhập, nắm bắt và phân tích chính xác những chân lý khoa học tồn tại trong giới tự nhiên và xã hội con người. Họ cho rằng sức mạnh siêu nhiên của quỷ thần đã khống chế tự nhiên. Rất nhiều nhà có dán năm chữ lớn “Thiên Địa Quân Thân Sư” trên khám thờ thần giữa nhà. Cùng với tranh tượng Quan Âm, thần Tài và bài vị của tổ tiên, còn có thần cửa, thần bếp, thần thổ địa. Mỗi khi có lễ Tết, người ta đều cúng tế, nhang khói lễ bái tổ tiên và thần thánh. Sau khi chết, họ còn làm rất nhiều nghi thức mai tang. Đó là vì kính sợ quỷ thần, tổ tiên mà sinh ra những cấm kỵ mê tín.[/justify]./.
Mong các anh chị, các bạn tham gia góp ý kiến. Chân thành cám ơn.