Lối sống của người Hàn

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về văn hoá Trung Quốc và Đông Bắc Á (Triều Tiên, Nhật Bản...)

Lối sống của người Hàn

Gửi bàigửi bởi katsumi_k2 » Thứ 5 15/01/09 17:57

Có nhiều giả thuyết cho rằng con người ở Thời kỳ đồ đá cũ bắt đầu định cư trên bán đảo Triều Tiên cách đây khoảng từ 40.000 đến 50.000 năm, tuy nhiên vẫn cần phải xác định xem họ có phải là tổ tiên của người Hàn Quốc ngày nay hay không. Một số người Thời kỳ đồ đá cũ sống trong hang động, số khác xây chỗ ở trên mặt đất bằng. Họ sống bằng hoa quả và các loại rễ cây có thể ăn được và bằng săn bắt, câu cá.

Con người ở Thời kỳ đồ đá mới xuất hiện trên bán đảo Triều Tiên khoảng năm 4000 trước Công nguyên. Người ta tìm thấy dấu vết về hoạt động của họ trên khắp bán đảo vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Người ta tin rằng người ở Thời kỳ đồ đá mới đã hình thành nên chủng tộc người Triều Tiên. Người ở Thời kỳ đồ đá mới sống ở gần bờ biển, bờ sông trước khi tiến sâu vào đất liền. Biển là nguồn cung cấp thức ăn chính. Họ sử dụng lưới, móc câu và cần câu để bắt cá và đánh bắt các động vật biển có vỏ. Săn bắt cũng là một cách để có thức ăn. Nhiều đầu mũi tên và giáo mác nhọn đã được tìm thấy ở các khu vực người ở Thời kỳ đồ đá mới sống. Về sau, họ bắt đầu làm việc trồng trọt với cuốc đá, liềm đá và cối xay.

Thu hoạch lúa gạo bắt đầu từ Thời kỳ đồ đồng. Người ta cho rằng thời kì này kéo dài tới năm 400 trước công nguyên. Con người vẫn sống trong các hang hốc, ngoài ra, các mộ đá và các hầm đựng thánh vật đá cũng được sử dụng chủ yếu cho tập tục chôn cất người chết trong suốt thời kỳ này.

Vì nông nghiệp trở thành hoạt động chính, làng mạc được hình thành và người đứng đầu cai trị xuất hiện cùng với các quyền lực tối cao. Luật pháp trở nên cần thiết để cai trị cộng đồng. Ở thời kỳ Gojoseon (từ năm 2333 trước công nguyên đến 194 trước công nguyên), một bộ luật gồm tám điều đã được thực hiện, nhưng chỉ có ba điều luật còn được biết đến cho tới ngày nay. Đó là các luật sau: Thứ nhất, bất kì ai giết hại người khác sẽ bị giết ngay lập tức; Thứ hai, những ai làm tổn thương cơ thể người khác sẽ phải bồi thường tương tự; Thứ ba, những ai lấy trộm tài sản của người khác sẽ trở thành nô lệ cho chính nạn nhân.

Nhà ở truyền thống của người Hàn Quốc vẫn gần như không thay đổi từ thời kỳ Ba Vương quốc cho đến cuối thời đại Joseon (1392- 1910).

Trước đây, nhà của người Hàn Quốc thường có hình chữ nhật với một tầng hình chữ L hoặc hình chữ U và chủ yếu được xây bằng gỗ và đất sét. Nhà truyền thống thường được xây mà không cần sử dụng một chiếc đinh vít nào vì được ghép với nhau bằng các chốt gỗ. Nhà dành cho tầng lớp thượng lưu bao gồm một số kiến trúc tách biệt: một phòng dành cho phụ nữ và trẻ nhỏ, một phòng dành cho những người đàn ông trong gia đình và các vị khách của họ và một phòng khác cho những người giúp việc, tất cả các phòng đều có tường bao quanh khép kín. Điện thờ tổ tiên của gia đình được xây ở phía sau ngôi nhà. Thỉnh thoảng chúng ta có thể gặp một ao sen được xây ở trước ngôi nhà phía ngoài bức tường.

Hình dáng ngôi nhà cũng có thể rất khác biệt giữa miền Bắc lạnh lẽo và miền Nam ấm áp. Những ngôi nhà đơn giản ở miền Nam thường có hình chữ nhật, có một bếp, một phòng ở bên cạnh tạo cho toàn bộ khu nhà có hình chữ L; nhưng ở miền Bắc nhà có hình chữ U hoặc hình vuông với sân ở giữa.

Mái nhà không cao lắm và được lợp bằng rơm rạ. Nhà nào giàu hơn thì lợp bằng mái ngói. Thiết kế đơn giản nhất của một ngôi nhà điển hình của người Hàn Quốc gồm có một phòng khách, một phòng ngủ và một nhà bếp, nhà vệ sinh được xây cách xa nơi ở. Cấu trúc và kích cữ nhà thay đổi tùy theo quy mô, quan hệ xã hội và tình trạng giàu có của gia đình đó. Một ngôi nhà lớn hơn sẽ bao gồm khu sinh hoạt gia đình ở chính giữa, một nhà vệ sinh, một phòng cho người ở, một nhà kho và một nhà vệ sinh ở bên cạnh. Phía trước sân trong là khu vực của chủ nhà và khách nam giới; nối với cổng là một phòng dành cho người ở.

Ngày nay thật khó có thể chỉ ra một ngôi nhà điển hình của người Hàn Quốc vì hầu hết các cấu trúc hiện đại được xây bằng bê tông cốt thép. Mặc dù sự thay đổi từ cấu trúc gỗ sang cấutrúc bê tông không được thừa nhận rộng rãi, nó vẫn kéo theo sự biến đổi nhỏ nhưng lan rộng trong lối sống của người Hàn Quốc.

Nhà của người Hàn Quốc, kể cả cũ hay mới, được xây để bảo vệ chủ nhân của nó khỏi những yếu tố bên ngoài. Nói chung là hơi thấp, các phòng tương đối nhỏ và không có nhiều cửa sổ hay cửa ra vào. Một số phòng có sàn ondol, tức là sàn nhà được sưởi ấm từ bên dưới. Hệ thống sưởi này rất quen thuộc trong đời sống của người Hàn Quốc và thậm chí còn trở thành mốt. Ondol, hệ thống lò sưởi dưới sàn nhà rất độc đáo của người Hàn Quốc đã được sử dụng đầu tiên ở miền bắc. Khói và hơi nóng được dẫn qua các ống xây dưới sàn nhà. Ở miền nam ấm áp hơn, ondol được dùng kết hợp với sàn nhà bằng gỗ. Vật liệu chính dùng để dựng nên những căn nhà truyền thống này là đất sét và gỗ. Giwa, có nghĩa là nhà có lợp mái ngói màu đen được làm từ đất, thường bằng đất sét đỏ. Ngày nay, toà nhà làm việc của Tổng thống gọi là Cheong Wa Dae hay Nhà Xanh, vì ngói lợp lên mái nhà có màu xanh.

Một số các ngôi nhà xây theo kiểu phương Tây trong những năm gần đây có một số phòng được trang bị hệ thống sưới kiểu này. Tương tự như vậy, nhiều người Hàn Quốc vẫn thích ngồi và nằm trên đệm và thảm dầy được trải dưới sàn nhà.

Trong một gia đình Hàn Quốc truyền thống, có rất ít đồ đạc hay ghế ngồi được bày trên sàn nhà. Không có sự phân biệt giữa phòng ngủ và phòng ăn. Phòng của phụ nữ (gọi chung là anbang) được đặt ở phía sau nhà và là nơi tụ họp của cả gia đình. Do vậy không có gì ngạc nhiên nếu ta thấy căn phòng này được trang bị một tủ quần áo, chăn màn và các dồ dùng cá nhân khác. Trong khi đó, người chủ gia đình ở phần phía trước của gian nhà (gọi là sarangbang). Đây cũng là nơi tiếp khách của cả nhà. Nếu người chủ là người có học, phòng của người đó sẽ được trang bị một bàn học, giá sách, sách và một vài cái đệm. Thông thường chủ nhà ngủ ở phòng vợ vào ban đêm.

Từ cuối những năm 1960, kiểu nhà truyền thống Hàn Quốc bắt đầu thay đổi nhanh chóng với việc xây dựng những toà nhà chung cư theo kiểu phương Tây. Những khu nhà chung cư cao tầng mọc lên như nấm trên khắp đất nước Hàn Quốc từ sau thập kỷ 70.

Người Hàn Quốc bắt đầu dệt vải bằng cây gai và cây dong và nuôi tằm để dệt lụa. Trong thời kỳ ba Vương quốc, đàn ông mặc jeogori (áo khoác ngoài), baji (quần dài), và durumagi (áo choàng) cùng với mũ, dây lưng và giày. Phụ nữ mặc jeogori (áo khoác ngắn), với hai dải vải dài được buộc chặt vào nhau để tạo thành cái nơ otgoreum, dài kín chân, mặc với chima - váy thắt eo cao, durumagi với beoseon - tất trắng - và những đôi giày hình thuyền. Những bộ quần áo này, được biết đến như hanbok, đã được lưu truyền từ nhiều năm nay với kiểu dáng hầu như không thay đổi, ngoại trừ chiều dài của jeogori và chima.

Trang phục châu Âu thâm nhập vào Hàn Quốc từ thời kỳ chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Trong thời kỳ công nghiệp hoá mạnh mẽ đất nước những năm 1960 và 1970 người ta coi hanbok không phù hợp với cách ăn mặc thoải mái, nên không thông dụng như trước. Tuy nhiên gần đây, những người yêu thích hanbok đã vận động mặc lại trang phục này và đã tạo ra những kiểu cách mới để thuận tiện hơn khi mặc.

Trang phục truyền thống hanbok thường được mặc vào những ngày lễ đặc biệt như Tết âm lịch và Chuseok - ngày Lễ mùa (Hội mùa rằm trung thu), và các ngày lễ của gia đình như Hwangap, lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 60. Trang phục truyền thống (hanbok) thoải mái và phù hợp hơn cho việc sinh hoạt trên sàn nhà ondol truyền thống. Ngày nay, rất nhiều người Hàn Quốc, đặc biệt là nam giới, mặc trang phục truyền thống này khi họ đi làm về. Quần áo kiểu phương Tây thường được mặc khi đi chơi. Tuy nhiên, trong những ngày nghỉ đặc biệt, những ngày Chusok và ngày Tết, cả gia đình mặc bộ hanbok đẹp nhất của mình.

Trong ba yếu tố cơ bản của cuộc sống - nhà ở, quần áo và thực phẩm - thì những thay đổi trong thói quen ăn uống đã tác động đến người Hàn Quốc rất nhiều. Gạo vẫn là lương thực chính của hầu hết người dân Hàn Quốc, nhưng trong thế hệ trẻ ngày nay, nhiều người lại thích các món ăn phương Tây.

Bữa ăn là lúc gia đình sum họp đông đủ nhất. Món ăn chính là cơm, thường ăn kèm với lúa mạch, hạt kê hoặc với các loại đậu đỗ. Người Hàn Quốc cũng hay ăn súp, còn kim chi- một loại dưa cải muối cay - là món ăn phụ không thể thiếu. Bữa cơm truyền thống của người Hàn Quốc không thể thiếu được món kimchi, món ăn được làm từ nhiều loại rau muối như cải bắp, củ cải, hành xanh và dưa chuột. Một số loại kimchi thường được nêm gia vị bằng cách thêm bột ớt đỏ, còn một số loại khác không được trộn với ớt bột mà được ngâm trong những dung dịch tạo vị khác. Tuy nhiên tỏi luôn được cho vào kimchi để tăng mùi vị cho món này.

Xì dầu, hạt tiêu, tương ớt và toenjang (tương đỗ) được dùng làm gia vị.

Người Hàn Quốc thích rượu gạo truyền thống và họ thường uống trước bữa ăn. Đãi khách bằng rượu truyền thống là một phong tục phổ biến. Trong khi người phương Tây có thể coi những lời đề nghị lặp đi lặp lại rót đầy một cốc rượu đã cạn hoặc cạn một nửa là một sự phiền hà, thì người Hàn Quốc có thể nghĩ là chủ nhà không lịch sự nếungười đó không yêu cầu khách rót đầy cốc. Rót rượu cho nhau trong một bầu không khí vui vẻ có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Hàn Quốc. Trong những buổi tiệc tùng này, thứ bậc về quan hệ xã hội của người tham gia tiệc vẫn được giữ vững. Ngừơi ít tuổi hơn không được phép uống rượu hay hút thuốc lá trước mặt người lớn.

Người Hàn Quốc thường ăn cơm với nhiều thức ăn khác, chủ yếu là các loại rau xanh đã nêm gia vị, canh, các món hầm trong nồi đất và thịt.

Vào cuối tháng Mười Một hoặc đầu tháng Mười Hai, gia đình người Hàn Quốc thường tập trung vào gimjang, nghĩa là chuẩn bị làm kimchi, phục vụ cho cả mùa đông dài. Cho tới vài thập kỉ trước, kimchi chuẩn bị cho mùa đông được để trong những vại to chôn dưới đất để giữ nguyên mùi vị. Với sự phát triển của nhà chung cư hiện nay, các nhà sản xuất đồ điện đã sản xuất những chiếc tủ lạnh đặc dụng dùng để bảo quản kim chi. Ngoài ra, ngày càng có nhiều nhà máy chế biến kimchi, vì ngày càng có nhiều gia đình mua kimchi làm sẵn thay vì tự làm.

Ngoài kimchi, doenjang (món tương đỗ) với tính chất chống ung thư cũng thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà dinh dưỡng hiện đại. Người Hàn Quốc thường làm doenjang ở nhà bằng cách luộc chín hạt đậu vàng rồi phơi chúng trong bóng râm, ngâm trong nước muối và để lên men dưới ánh nắng mặt trời. Tuy nhiên, ngày nay rất ít gia đình thực hiện đầy đủ quy trình này tại nhà, phần lớn các gia đình đều mua doenjang do nhà máy sản xuất chế biến.

Trong số các món thịt, món bulgogi (thường làm bằng thịt bò) và galbi (sườn bò hoặc lợn) tẩm gia vị được người Hàn Quốc và khách nước ngoài ưa thích nhất
Hình đại diện của thành viên
katsumi_k2
 
Bài viết: 80
Ngày tham gia: Thứ 4 19/11/08 19:03
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 2 lần

Quay về Văn hóa Trung Quốc và Đông Bắc Á

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến29 khách

cron