Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về văn hoá Trung Quốc và Đông Bắc Á (Triều Tiên, Nhật Bản...)

Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi Lovevietnam_vn » Thứ 4 30/09/09 18:01

Trong suốt quá trình lịch sử của Trung Hoa không chỉ vang tên các bậc anh hùng ''đầu đội trời, chân đạp đất'' mà song song đó hình ảnh các đại mĩ nhân vẫn sống động không kém. Ngoài các tên tuổi mĩ nhân vốn quen thuộc như: ''Trầm ngư''- Tây Thi, ''Bế nguyệt''- Điêu Thuyền, ''Hoa nhượng''- Dương Ngọc Hoàn, ''Lạc nhạn''- Vương Chiêu Quân... Nay dù không biết hoặc các bạn cũng đã xem qua, xin gữi đến các bạn một danh sách các tài nữ khác cũng không kém phần tài năng đã được ghi vào sử sách Trung Hoa..
[center]Triệu Cơ[/center]
[center]Hình ảnh[/center]
Triệu Cơ người Hàm Đan nước Triệu cuối thời Chiến Quốc, là mẹ của Tần Thủy Hoàng. Triệu Cơ đóng vai trò quan trọng trong âm mưu đưa Tần Thủy Hoàng lên ngôi của Lã Bất Vi.

Triệu Cơ vốn là thiếp của Lã Bất Vi, người tuyệt đẹp, múa giỏi đàn hay. Khi đó Tần công tử, Tử Sở, làm con tin ở nước Triệu nghèo khó khốn cung. Lã Bất Vi ra tay cứu giúp, xin Hoa Dương phu nhân nhận Tử Sở làm con nuôi, trở thành người thừa tử của thái tử An Quốc Quân.

Một lần Tử Sở sang nhà Bất Vi, nhìn thấy Triệu Cơ đem lòng say mê. Lã Bất Vi đem nàng dâng cho Tử Sở, khi đó Triệu Cơ đang mang thai. Tử Sở bèn lập nàng làm phu nhân, đến kỳ Triệu Cơ sinh con đặt là Chính.

Năm thứ 50, đời vua Chiêu Vương nước Tần, Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan rất gấp. Nước Triệu muốn giết Tử Sở. Tử Sở cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên trốn thoát về Tần. Triệu muốn giết Triệu Cơ và Chính, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được vì thế mẹ con đều sống.

Năm thứ năm 56, Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân lên làm vua, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Sau thời gian khốn khó ở Triệu, Triệu Cơ cùng Chính về Tần. Vua Tần lên ngôi được một năm thì mất, thái tử Tử Sở lên thay, tức là Trang Tương Vương.

Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất, thái tử tên là Chính lên ngôi Tần Vương, tức Tần Thủy Hoàng, Triệu Cơ trở thành Thái hậu. Khi Tần Vương còn nhỏ tuổi, thái hậu Triệu Cơ thường lén lút tư thông với Lã Bất Vi. Về sau Tần Thủy Hoàng đã lớn, Lã Bất Vi sợ lộ sẽ mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Lã Bất Vi sai Lao Ái làm trò vui, lấy dương vật của mình tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi. Thái hậu Triệu Cơ nghe thấy muốn được Lao Ái cho riêng mình, Lã Bất Vi bèn cho Lao Ái giả làm hoạn quan rồi đem dâng cho thái hậu. Từ đó Triệu Cơ cùng Lao Ái thông dâm, sinh được hai con. Lao Ái đem hai đứa con đi dấu, định lập mưu đợi Tần Thủy Hoàng chết thì lập con hắn làm vua.

Năm thứ 9 đời Thủy Hoàng, có kẻ phát giác Lao Ái thực không phải là hoạn quan và thường thông dâm với thái hậu. Tần Thủy Hoàng liền giao cho pháp đình xét, biết rõ sự tình. Tháng 9 năm đó Tần Thủy Hoàng giết cả ba họ nhà Lao Ái. Lại giết hai con do thái hậu đẻ ra và đày thái hậu Triệu Cơ sang đất Ung. Tháng 10 năm thứ 10, sau khi cách chức Lã Bất Vi, Tần Thủy Hoàng mới sang Ung đón thái hậu Triệu Cơ về Hàm Dương.
[center]Đát Kỉ[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Đát Kỷ , hay còn gọi là Đắc Kỷ, là một cung phi được sủng ái của Trụ Vương nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Bà cũng là người thân với hoàng hậu của Trụ Vương. Bà không được học chữ, nhưng được nhận định là thông minh và gian xảo

Đát Kỷ trước khi làm cung phi cho Trụ Vương đã từng bị đày ở lãnh cung. Rồi bằng cách nào đó được Trụ vương đưa về cung và rất cưng chiều.

Trụ vương nổi tiếng là một ông vua *** đãng. Ông mê Đát Kỷ đến quên việc triều chính. Ông và Đát Kỷ là một cặp được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc với sự phẫn nộ của nhiều người.


Đát KỷTương truyền, trong cung Trụ có một nơi phục vụ cho thú vui của vua Trụ. Đát Kỷ và vua, cùng nhiều cung tần mỹ nữ khác thường xuyên vui chơi trụy lạc tại đây. Họ ra lệnh dùng roi đánh khắp thân thể những con vật thật đau, để hằn lên vết đỏ, rướm máu, sau đó nướng chúng lên để thưởng thức. Chỗ này được thiết kế với những hồ nhỏ, vua cho đổ rượu vào đầy hồ và xuống tắm rượu cùng các mỹ nhân và Đát Kỷ.

Có lần Đát Kỷ bất hòa với thân thuộc của vua là Tỷ Can, bắt ông này phải moi tim ra cho bà xem. Một vị quan giỏi xem tinh tượng, bói toán cũng vì bất hòa mà bị bà cho dựa lưng vào cột vừa nung đỏ, cháy cả lưng.

Đát Kỷ bị dân gian nghi vấn là hồ ly hóa thành, vì được biết bà rất rậm lông chân.

Các sử gia đời sau thường cho rằng, vì việc quá yêu Đát Kỷ, Trụ vương đã làm nhiều điều thất đức, trượt theo vết xe đổ của vua Kiệt nhà Hạ say đắm nàng Muội Hỷ đến nỗi làm hỏng chính sự và mất nước về tay nhà Chu. Sau nay cuối thời Tây Chu lại có chuyện Chu U vương si mê nàng Bao Tự mà cũng lặp lại bi kịch như Trụ vương làm nhà Tây Chu mất.

Như vậy xét về nép đẹp, Đát Kỷ cũng thuộc hàng đại mỹ nhân của Trung Hoa, nhưng không được kính nể trọng vọng như Tứ Đại Mỹ Nhân và người đời gọi bà là yêu cơ.
[center]Hạ Cơ[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Hạ Cơ là một người con gái thời Xuân Thu (722 TCN - 480 TCN), tương truyền rằng nàng có thuật "hoàn tân".

Hạ Cơ vốn là gái nước Trịnh, sau về làm dâu nước Trần. Nàng là cô gái ăn chơi rất lịch lãm, sử sách nói sau khi ăn nằm với ai rồi, nàng trở lại "hoàn tân" như cũ. Điều đặc biệt là hễ ai đã ân ái với nàng thì thường gặp phải tai vạ và chết. Người ta nghi nàng có thuật "Hấp tinh đại pháp".

Người tình đầu tiên của nàng là công tử Trần Man, tư thông với nàng vài năm rồi qua đời. Sau đó nàng có chồng là Tư mã Hạ Ngự Thúc, hai vợ chồng có một con trai là Hạ Trưng Thư, rồi Ngự Thúc cũng chết.

Hạ Cơ lại tiếp tục dan díu với hai quan trong triều là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, hai quan này làm việc ô uế công khai. Một hôm Khổng Ninh lấy trộm cùa nàng cái "Cẩm dương" (quần lót bằng gấm) về khoe. Nghi Hàng Phủ thấy vậy nổi cơn ghen, cố nài xin cho được chiếc "Bích la nhu" (áo lót bằng lụa màu xanh) để trêu lại. Khổng Ninh cả giận liền tiết lộ cho vua Trần Linh Công biết. Trần Linh Công nghe kể thích quá liền nhập cuộc chơi, Hạ Cơ liền tặng vua chiếc áo lót nữa.

Từ đó, sau mỗi lần bãi triều, cả ba thường đem "bảo vật" ra khoe với nhau. Trong triều có quan Đại phu Tiết Giả là bầy tôi trung, thấy vậy liền can vua và chỉ trích hai tên quan kia. Nhà vua ngoài miệng hứa chừa, nhưng âm mưu với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, giết Tiết Giả. Tiết Giả chết rồi không còn có ai dám can ngăn nữa, cả ba mặc sức tung hoành trác táng đến nỗi dân nước Trần đã đặt bài vè "Châu Lâm" (Châu Lâm là nơi Hạ Cơ đang ở) để chê trách Linh Công.

Hạ Cơ cho Trưng Thư về kinh đô để học, cũng mong cho con ngày sau nối nghiệp cha. Trưng Thư lớn lên, có tài võ nghệ, Linh Công cho Thư nối chức cha làm Tư mã, ở lại kinh. Từ đó Hạ Cơ một mình tiếp luôn ba người không biết mệt mỏi.

Một hôm Hạ Trưng Thư ở kinh về Châu Lâm trông thấy vua Trần Linh Công và Khổng Ninh, Hàng Phủ cùng Hạ Cơ đang vầy cuộc ái ân, ăn nói suồng sã bỉ ổi *** loạn, lập tức Hạ Trưng Thư cho quân vây quanh nhà và giết được Trần Linh Công còn hai tên kia chạy thoát qua nước Sở, vào kêu với Sở Trang Vương rằng Hạ Trưng Thư giết vua để cướp ngôi.

Trang Vương đem binh đánh Trần, giết Hạ Trưng Thư. Thấy Hạ Cơ xinh đẹp ý muốn thu dùng, nhưng một bầy tôi là Khuất Vu, một tướng lãnh tài ba, trẻ tuổi, đẹp trai, lại luyện được phép "Bí thuật phòng trung", bấy lâu đã nghe tiếng Hạ Cơ có ngón ăn chơi trác tuyệt muốn thử lửa một phen bèn ra sức can Sở Trang Vương đừng thu dùng nàng. Trang Vương lại muốn gả cho người khác, Khuất Vu cũng lại can, cuối cùng vua gả cho một vị tướng già là Tương Lão. Hạ Cơ lại thông *** với con Tương Lão, việc đổ bể Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, còn con của Tương Lão bị hành hình.

Khuất Vu đi sứ sang Trịnh, nhân cơ hội đó Khuất Vu tư thông với Hạ Cơ, rồi đưa nàng trốn sang Tấn "xây mộng uyên ương". Mấy năm sau Khuất Vu đem nàng sang nước Ngô và ở hẳn nơi này. Từ đấy về sau không còn ai biết Hạ Cơ ra sao nữa.
[center]Võ Tắc Thiên[/center]
[center]Hình ảnh[/center]
Võ Tắc Thiên (武則天) (625 - 16 tháng 12, 705), tên riêng Võ Chiếu (武曌), là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế ((聖神皇帝) từ 690 đến 705. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.

Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (文水), thuộc quận Tinh Châu (幷州) (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu (吕梁地區) nằm cách Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (楊氏) (579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.

Bà được đưa vào hậu cung vua Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là: 636) và là một Tài Nhân (才人), tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị (媚), có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương. (武媚娘).

Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung đình và để vào chùa Phật giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao Tông, người họ Vương (王), đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một người thiếp họ Tiêu (蕭) và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người thiếp kia. Các nhà sử học hiện nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và bà được gọi là Chiêu Nghi (昭儀), mức cao nhất trong chín cấp bậc của những người thiếp thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong những người thiếp của cha mình, và lại từng là một bà sư như các nhà sử học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng giáo.

Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống người thiếp họ Tiêu khỏi ngáng đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ Tắc Thiên bị giết. Hoàng hậu họ Vương bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình. Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi (宸妃), ở thứ bậc cao hơn bốn người thiếp cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng Mười Một năm 655, hoàng hậu họ Vương bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng người thiếp họ Tiêu một cách tàn bạo - họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.

Sau khi Cao Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi (上官儀) và Lý Trung (李忠) vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn quyền lực vào 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên theo tên thái ấp của Cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu (曌), cùng với 11 chữ khác để trưng ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của mình, sau đó nó thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ "minh" 明 ở bên trên có nghĩa là "ánh sáng" hay "sự sáng suốt"; chữ "không" 空 ở dưới có nghĩa là "bầu trời". Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ "chiếu" trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức "hoàng đế" (皇帝) vốn đã được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 của triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.

Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em Trương Dịch Chi 張易之, và Trương Xương Tông 張昌宗 ủng hộ. Bà lấy lòng dân bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế (天冊金輪聖神皇帝), một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối thời cai trị của bà.

Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư (武三思), con người em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.

Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà Đường tiếp sau nó.

Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, và cai trị bằng cách điều khiển từ phía hậu trường.

Một tác giả nổi tiếng người Pháp là Shan Sa, sinh tại Bắc Kinh, đã viết một cuốn tiểu thuyết mang tính tiểu sử tên là "Impératrice" (Hoàng hậu theo tiếng Pháp) dựa trên cuộc đời của Võ hậu.
[center]Bao Tự[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Bao Tự (?-771 TCN) là người đẹp Trung Quốc thời nhà Chu. Truyền thuyết kể rằng Chu U Vương mê say nàng nhưng chưa bao giờ thấy nàng cười nên ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng.

Để làm nàng cười, nhà vua đã làm mọi cách. Một hôm, Bao Tự cùng vua đi dạo trong vườn thượng uyển thì bỗng có một tiếng động vang lên, và nhà vua thấy được nụ cười đẹp tuyệt của nàng. Sau khi hỏi nàng về điều này, nàng nói do tiếng vải lụa bị xé làm nàng nhớ đến những ngày tháng êm đềm khi sống với cha trên núi.

Sau khi biết được điều này, U vương cho hàng ngàn người ngày đêm xé những mảnh vải lụa đó cho đến khi nàng cười mới thôi. Nhưng ngờ đâu nụ cười vẫn không đến với nàng.

Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thành, có một hoạn quan là Quắc công Kỵ Phủ tâu với vua là mình có cách làm cho nàng cười. Quanh đất nhà Chu cai trị vốn xây nhiều tháp dầu để khi có giặc kéo đến thì đốt các cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Quắc Công khuyên Chu U vương đốt lửa cho chư hầu đến để cho Bao Tự cười. U vương làm theo.

Quân chư hầu mấy nước lân cận trông thấy các cột lửa cháy, ngỡ là có giặc bèn hớt hải mang quân đến cứu. Đến kinh thành, thấy mọi người vẫn đi lại bình thường, không có giặc giã gì cả. Các chư hầu ngơ ngác nhìn nhau. Bao Tự ở trên đài trông thấy bật tiếng cười lớn. U vương vô cùng hoan hỉ vì làm được cho nàng cười. Xong U vương lệnh cho các trấn chư hầu rút quân về vì không có giặc.

Đến một thời gian sau, vua Chu lại sai đốt lửa lần nữa và các chư hầu lại bị lừa để Bao Tự có được tiếng cười.

U vương say mê Bao Tự, xa lánh hoàng hậu họ Thân. Bao Tự sinh được một hoàng tử, U vương rất yêu quý, định lập làm thái tử và muốn phế truất thái tử Nghi Cữu. Cha Thân hậu bèn liên hệ với quân Khuyển Nhung bên ngoài kéo vào đánh úp Cảo Kinh. U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng các chư hầu bị lừa vài lần nên tưởng vua đùa, không tới nữa. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.

Quân Khuyển Nhung cướp phá giết người kinh thành. Thân Hầu ân hận mang họa cho dân Cảo Kinh bèn viết thư triệu các nước chư hầu Tấn, Tần, Trịnh đến đánh quân Khuyển Nhung. Quân ba nước kéo đến đánh tan quân Nhung. Vua Nhung bỏ chạy. Bao Tự thấy quân các nước kéo vào cung bèn thắt cổ tự vẫn.

Con trưởng U vương là Nghi Cữu được lập lên ngôi, tức là Chu Bình vương.

Nhà thơ Lý Bạch có câu:

Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim

Tạm dịch:

Người đẹp nở một nụ cười đáng đổi lấy nghìn lạng vàng
[center]Ngu Cơ[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Ngu Cơ thường xuyên đi cùng Hạng Vũ ra chiến trận, sát cánh cùng Sở Bá vương trong suốt nhiều năm chinh chiến. Đoạn tiễn biệt giữa hai người trong thành Cai Hạ là một đoạn bi tráng rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc được Sử ký của Tư Mã Thiên nhắc tới.

Hạng Vũ và Lưu Bang vốn đã giảng hoà ở Hồng Câu để chia đôi thiên hạ. Nhưng sau đó Lưu Bang bội ước đánh úp Hạng vương khiến Hạng vương phải chạy vào thành Cai Hạ.

Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương kinh hoàng, nói:

Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?
Đêm hôm đó Hạng vương uống rượu trong trướng cùng Ngu Cơ. Hạng vương đau đớn cảm khái làm bài thơ, được đời sau gọi là bài "Cai Hạ ca":

Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, Chuy bất thệ
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà.

Dịch:

Sức nhổ núi, khí trùm đời,
Ngựa Chuy chùn lại bởi thời không may!
Ngựa sao chùn lại thế này?
Nàng Ngu, biết tính sao đây hỡi nàng?

Hạng vương ca mấy lần, Ngu Cơ múa kiếm, hát hòa theo, lời ca rằng:

Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh.

Dịch:

Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.

Rồi Ngu Cơ lấy gươm tự vẫn để "tránh làm vướng bận" Hạng Vũ. Hạng Vương thấy Ngu Cơ chết, khóc chảy nước mắt, tả hữu đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn.

Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ có rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là "Ngu mỹ nhân thảo". Lại có thuyết cho rằng hương hồn bà không tan, hóa thành 2 khóm cỏ trên mộ, ngày đêm cứ quấn quít vào nhau, người ta gọi là Cỏ ngu.
[center]Trương Lệ Hoa[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Trương Lệ Hoa xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khó ở Giang Nam. Tuy là con nhà nông, phải phụ cha mẹ làm những công việc đồng áng nặng nhọc nhưng Lệ Hoa đang ở độ tuổi đôi mươi có nét đẹp khác lạ: "da trắng như tuyết, mắt đen láy, thân hình toát lên vẻ thanh tú", những vẻ đẹp theo nàng từ lúc mới sinh nên tên Lệ Hoa cũng do cha mẹ đặt từ các đặc điểm trên.

Người con trai của Trần Văn Đế là Trần Thúc Bảo cũng mới gần hai mươi tuổi khi ấy được phong là Trần Nhu Tuyên đế. Trần Nhu trong một dịp ra ngoài cung dạo chơi đã gặp và phải lòng Trương Lệ Hoa khi thấy nàng đang bán hoa sen ngoài phố. Trần Nhu đã đưa một số tiền lớn cho cha mẹ Lệ Hoa để mua nàng về làm thiếp.

Khi vua Trần Văn Đế băng hà thì Trần Nhu lên làm hoàng đế, hiệu là Chí Đức, nhưng gọi là Trần Hậu Chủ. Ngay khi nắm một quyền lực lớn nhất trong tay, Hậu Chủ đã cho rước Trương Lệ Hoa về cung và suốt ngày đắm đuối bên nàng, bỏ mặc Thẩm Hoàng Hậu và những lời can ngăn của quần thần "Lệ Hoa chỉ là con của tầng lớp dân dã".


Vì xuất thân từ tầng lớp nghèo khó trong xã hội nên khi vào cung, Lệ Hoa hết sức choáng ngợp trước cảnh vàng son nhung lụa. Mặc dù được vua chu cấp đầy đủ nhưng ở ngôi vị quý phi, nàng vẫn chưa thỏa mãn. Lệ Hoa sai tâm phúc bí mật liên lạc với các tầng lớp quý tộc bên ngoài để thực hiện việc "mua quan bán chức", hễ ai muốn có chức tước gì trong triều chỉ cần đưa cho nàng một số vàng bạc nào đó tương xứng với giá trị của chức ấy thì sẽ toại nguyện nhờ tài nâng đỡ và mồm miệng của Lệ Hoa thuyết phục nhà vua.

Thái tử Trần Dân bất mãn trước việc hoàng hậu Thẩm mẹ mình không được sủng ái cùng với việc Trương Quý Phi công khai ăn hối lộ nên tỏ ý chống đối, Lệ Hoa cầu cứu với Hậu Chủ và từ đó vua càng phớt lờ những lời can gián của Thái Tử cũng như quần thần rồi ngày càng ăn chơi sa đọa cùng Trương mỹ nhân.


Năm 588, nhà Tùy dẫn quân tấn công Nam triều, Tấn Vương Dương Quảng bao vây kinh đô Nam Trần. Hậu Chủ bước đường cùng phải dẫn Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Tân nhảy xuống một cái giếng cạn ở vườn Ngự Uyển để trốn quân Tùy. Cuối cùng bị bắt gọn, Dương Quảng cũng suýt bị mỹ nhân hớp hồn, toan đưa nàng về nhưng sau khi nghe quan quân can ngăn đã hạ lệnh xử tử Trương Lệ Hoa, còn Hậu Chủ và hoàng tử Thâm bị bắt làm tù nhân. Trương Lệ Hoa chết rất trẻ, chỉ vừa sắp bước qua tuổi 30
Hết phần một nghen, vẫn còn rất nhiều...( Sưu tầm )
[center]Thực tắc hư chi, hư tắc thực chi, hư thực tương sinh[/center]
[center]...¹ş†·Åģαιη....[/center]
Hình đại diện của thành viên
Lovevietnam_vn
 
Bài viết: 84
Ngày tham gia: Thứ 6 25/09/09 12:49
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi the yun » Chủ nhật 13/12/09 22:45

Có lẽ là do đất rộng người đông nên Trung Hoa có rất nhiều mỹ nữ như Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Ngọc Hoàn, Vương Chiêu Quân,... Mỗi người đều có vẻ đẹp khuynh nước khuynh thành, làm điên đảo cả triều cương và gây ra biết bao cuộc chiến.
Quả là Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu...
nếu bạn thích cầu vồng thì hãy kiên nhẫn trước những cơn mưa
Hình đại diện của thành viên
the yun
 
Bài viết: 66
Ngày tham gia: Chủ nhật 18/01/09 22:07
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi binbinbas » Thứ 6 02/04/10 14:54

Bạn ơi,bạn bàn về những người đẹp này,bạn có cơ sở nào chính xác không hay chỉ là qua truyện?Qua truyện người ta đã hư cấu ít nhiều rồi đó.Theo mình biết thì những đại mỹ nhân của Trung Quốc gồm 4 người:Chiêu Quân-Điêu Thuyền-Tây Thi và Dương Quý Phi.Nếu có thể,mong bạn giúp mình tìm hiểu về "tứ đại mỹ nhân" này.
" " Fear no bitch,trust no dick" "
Hình đại diện của thành viên
binbinbas
 
Bài viết: 31
Ngày tham gia: Thứ 4 19/11/08 21:47
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi ngoc_nu » Thứ 7 17/04/10 5:41

Nói về mỹ nhân Trung Quốc mà thiếu Dương Quý Phi quả là một thiếu sót vô cùng lớn ;)
Đã có không biết bao nhiêu bộ phim Trung Quốc về Dương Quý Phi, tớ mới tìm được mấy hình ảnh đẹp của các diễn viên đóng nhân vật này, post mọi người xem để có thể "tạm tưởng tượng" Dương Quý Phi đẹp cỡ nào :D (mới tìm qua mà đã 10 bộ phim về Dương Quý Phi rồi cơ đấy! :roll: )

Hình ảnh
Ân Đào trong “Dương Quý Phi bí sử” năm 2010.
Hình ảnh
Phạm Băng Băng trong “Đại Đường phù dung viên” năm 2004
Hình ảnh
Vương Lộ Dao trong “Đại Đường ca phi” năm 2003.
Hình ảnh
Hướng Hải Lam trong “Dương Quý Phi” năm 2000
Hình ảnh
Hầu Tuấn Kiệt trong “Dương Quý Phi hậu truyện” năm 1996.
Hình ảnh
Điềm Nữu trong “Thiên sử Dương Quý Phi” năm 1994
Hình ảnh
Chu Khiết Lý trong “Dương Quý Phi” năm 1992.
Hình ảnh
Lâm Phương Binh trong “Đường Minh Hoàng” năm 1990.
Hình ảnh
Phùng Bảo Bảo trong “Dương Quý Phi” năm 1986
Hình ảnh
Lý Lệ Hoa trong “Dương Quý Phi” năm 1962

nguồn: http://www.vnexpress.net
Hãy vươn đến bầu trời*dù không hái được những vì sao*nhưng bạn có thể đứng cùng các vì tinh tú*
ngoc_nu
 
Bài viết: 180
Ngày tham gia: Chủ nhật 19/04/09 9:42
Đến từ: AL-BD
Cảm ơn: 3 lần
Được cám ơn: 6 lần

Re: Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi Lovevietnam_vn » Thứ 3 14/09/10 21:00

Vì các bạn đã biết rõ về tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa cổ đại là: Tây Thi, Điêu Thuyền, Vương Chiêu Quân và Dương Ngọc Hoàn nên mình mới không đề cập đến. Mong các bạn tha lỗi...^^
Lâu lắm rồi mình mới sưu tập tiếp các mỹ nhân của Trung Hoa và lần này mình giới thiệu đến các bạn 4 người đẹp không chỉ nổi tiếng về sắc đẹp mà còn nổi tiếng về tài hoa hơn người.


[center]Trác Văn Quân[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Trác Văn Quân là tài nữ người Lâm Cùng đời Tây Hán (nay thuộc Cùng Lai, Tứ Xuyên), giỏi đàn, thiện âm luật. Nàng xuất thân phú quý, là con của đại phú thương thời đó là Trác Vương Tôn, lấy chồng nhưng sớm thành quả phụ.
Tư Mã Tương Như đến uống rượu nhà họ Trác, biết trong nhà có quả phụ trẻ, gảy khúc "Phượng cầu hoàng" do chàng sáng tác. Văn Quân nửa đêm bỏ nhà theo Tương Như, hai người tới Thành Đô sống một thời gian nhưng nhà nghèo nên lại trở về Lâm Cùng, mở quán bán rượu.

Tương truyền Tư Mã Tương Như sau khi làm bài "Trường Môn phú" nói lên nỗi lòng A Kiều, giúp nàng lấy lại được sủng ái của quân vương thì chàng cũng trở thành người trong mộng của bao nhiêu tiểu thư mệnh phụ chốn kinh thành, chàng quên mất Trác Văn Quân tài hoa đa tình đang mỏi mắt chờ chàng ở chốn Thành Đô. Rồi một hôm nàng đang ngồi tựa cửa, chợt có người dâng đến một phong thư của chàng, mở bức lụa trắng tinh mà lòng những xốn xang. Nào ngờ trên mảnh lụa chỉ vỏn vẹn vài chữ "Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười trăm ngàn vạn". Thưa thớt như bước chân người trở về, lạt lẽo như lòng kẻ phụ phàng. Người đưa thư còn bảo chàng dặn lấy hồi âm ngay. Tâm cuồng ý loạn, vừa hận vừa đau nàng cầm bút đề luôn một mạch:

Nhất biệt chi hậu, nhị địa tương huyền,
Chỉ thuyết thị tam tứ nguyệt, hựu thùy tri ngũ lục niên,
Thất huyền cầm vô tâm đàn, bát hành thư vô khả truyền,
Cửu liên hoàn tòng trung chiết đoạn,
Thập lý trường đình vọng nhãn dục xuyên,
Bách tư tưởng, thiên hệ niệm, vạn ban vô nại bả quân oán.
Vạn ngữ thiên ngôn thuyết bất hoàn,
Bách vô liêu lại thập y lan,
Trùng cửu đăng cao khán cô nhạn,
Bát nguyệt trung thu nguyệt viên nhân bất viên,
Thất nguyệt bán thiêu hương bỉnh chúc vấn thương thiên,
Lục nguyệt phục thiên nhân nhân dao phiến ngã tâm hàn.
Ngũ nguyệt thạch lưu như hoả thiên ngộ trận trận lãnh vũ kiêu hoa đoan,
Tứ nguyệt tì bà vị hoàng ngã dục đối cảnh tâm ý loạn.
Hốt thông thông, tam nguyệt đào hoa tùy thủy chuyển.
Phiêu linh linh, nhị nguyệt phong tranh tuyến nhi đoạn,
Ai ! Lang a lang, ba bất đắc hạ thế nhĩ vi nữ lai ngã vi nam.

Dịch là : "Sau khi một biệt, lòng gởi hai nơi, chỉ hẹn rằng ba bốn tháng, nào ngờ lại năm sáu năm, bảy dây trống trải đàn cầm, tám hàng thư không thể gởi, chín mối bội hoàn dang dở, mười dặm trường đình mỏi mắt ngóng trông, trăm tương tư, ngàn dằn vặt, muôn chung nào nỡ oán chàng. Vạn lời ngàn tiếng nói sao đang, trăm cô liêu tựa mười hiên vắng, mùng chín tháng chín lên cao trông lẻ nhạn, tháng tám trung thu tròn trăng chẳng thấy người, tháng bảy nửa vầng hương cầm đuốc hỏi ông trời, tháng sáu phục hiên ai ai lay quạt lạnh lòng ai, tháng năm lửa lựu lập loè sầm sập mưa dầm hoa tả tơi, tháng tư tỳ bà lạnh vắng người toan soi gương tâm ý loạn, chợt hối hả tháng ba hoa đào theo nước trôi, tháng hai gió gảy tiếng rã rời. Ôi! chàng, chàng ơi, nguyện cho được sau một kiếp, chàng hoá gái để em làm trai."

Tư Mã Tương Như nhận thư giật mình, chiều hôm ấy xe ngựa cao quý nhằm hướng Thành Đô mà trở về.


[center]Ban Chiêu[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Ban Chiêu tự Huệ Cơ, con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố đời Đông Hán (25-196). Sinh trong gia đình Nho họ, cha anh đều học thức tài giỏi. Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi cặp kê, Ban Chiêu sánh duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà nho lỗi lạc. Được 10 năm, Thế Thức chết, nàng thủ tiết thờ chồng. Nhà vua nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho vời vào cung dạy các hoàng tử, cung phi. Ai cũng tôn trọng là bậc thầy.
Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được vua cử soạn bộ Hán Thư, bộ sử nối tiếp Sử Ký của Tư Mã Thiên. Nhưng làm chưa xong, Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lịnh kế nghiệp cha, nhưng công việc chưa xong thì bị Lạc Dương Lệnh hãm hại mà chết. Thấy cha và anh bỏ dở công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà vua cho nàng được tiếp tục biên soạn bộ Hán Thư. Vua Hòa Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư.

Ban Chiêu đã hoàn tất phần “Thiên Văn Chí” trong Hán Thư, hoàn thành tác phẩm vào năm 111 và là người soạn thảo những tập nhỏ từ 13-20 (tám biểu biên niên) và tập 26 (thiên văn chí) được gộp trong tác phẩm đó.

Cuốn sách đã vạch ra các khuôn khổ cho những văn bản ở các triều đại Trung Quốc sau này, và hiện được dùng tham khảo khi nghiên cứu về giai đoạn nhà Hán. Nó cũng thường được coi là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử, cùng với cuốn Sử ký, Tam Quốc chí và Hậu Hán thư.


[center]Thái Diễm[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Thái Diễm còn gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là quan Nghị Lang Thái Ung thời Đông Hán, có tài thẩm âm vào bậc nhất cổ kim. Tương truyền, thấy một người chụm củi, ông bảo: “Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là củi tốt, sao đem chụm cho uổng”. Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn, tiếng rất trong.
Nàng Thái Diễm lên tám đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn, nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở đất Hung Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót, mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về.

Vua đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ.

Khi về nước, nàng Thái Diễm có làm bài “Bi phẫn thi” dài 540 chữ, tả nỗi long đong của nàng, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ.

Dục tử bất năng đắc,
Dục sinh vô nhứt khả.
Bỉ sương giả ha cô?
Nãi lao thử ách họa!

Nghĩa:

Muốn chết mà không được,
Muốn sống thêm vất vả.
Hỡi trời xanh tội gì?
Bắt ta gặp tai họa!


Hồ phong xuân hạ khởi,
Phiên phiên suy ngã y,
Túc túc nhập ngã nhĩ.
Cảm thời niệm phụ mẫu,
Ai thán vô cùng dĩ!

Nghĩa:

Xuân hạ, gió Hồ nổi,
Phất phất tà áo ta.
Ào ào bên tai thổi,
Cảm xúc sinh nhớ nhà,
Cùng khổ thay nông nỗi.

[center]Thượng Quan Uyển Nhi[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Thượng Quan Uyển Nhi là cháu gái Thượng Quan Nghi, hiệu xưng Cân Quốc Thủ Tướng. Ông phò Đường Cao Tông, đã thất bại trong nỗ lực phế truất Võ Tắc Thiên và bị hành hình. Cha của Uyển Nhi cũng bị ép phải tự vẫn. Uyển Nhi và mẹ là Trịnh phu nhân trở thành nô lệ trong cung điện hoàng đế.
Thượng Quan Uyển Nhi xinh đẹp, thông minh mẫn tiệp lạ thường, nàng thông thuộc thi thư, ngâm thơ, viết văn, thấu hiểu chuyện xưa nay. Hoàng đế Võ Tắc Thiên rất ấn tượng với nàng, sau khi lên ngôi liền phong cho Uyển Nhi một chức quan văn chuyên thảo những chỉ dụ, sắc lệnh. Uyển Nhi đem lòng thương yêu một trong những người tình của Võ Tắc Thiên, và khi nữ hoàng họ Võ phát hiện sự việc, bà đã trừng phạt nàng bằng cách khắc hình bông hoa lên trán Uyển Nhi. Tuy nhiên, điều này lại càng làm cho Uyển Nhi thêm quyến rũ hơn.

Uyển Nhi cũng bắt đầu quan hệ tình cảm với Võ Tam Tư, cháu trai Võ Tắc Thiên - sau này trở thành người có quyền lực và ảnh hưởng lớn. Sau khi Võ Tắc Thiên buộc phải thoái vị vì tuổi đã cao, con trai thứ ba của bà là Đường Trung Tông trở thành hoàng đế, khôi phục lại triều Đường, chấm dứt triều đại nhà Chu ngắn ngủi.

Vợ của Đường Trung Tông là Vi Hậu cũng dan díu với Võ Tam Tư. Để tránh những rắc rối, Võ Tam Tư đã quyết định tiến cử Thượng Quan Uyển Nhi với Trung Tông.
Trung Tông đã có thời gian dài tiếp xúc với Uyển Nhi, hiểu rõ sắc đẹp và tài năng của nàng, và rất sủng ái Uyển Nhi, nàng trở thành một trong những ái phi của Trung Tông. Quyền lực của Uyển Nhi ngày một lớn ở chốn hậu cung, nhưng vẫn duy trì chức quan văn trong hoàng cung - một sự nghiệp chưa từng có với một phi tần. Thượng Quan Uyển Nhi và Vi Hậu vẫn duy trì cuộc tình tay ba cùng Võ Tam Tư.

Trung Tông là một người đàn ông bạc nhược, không dám đối mặt với vợ và chỉ im lặng trước mọi lời đồn đại. Vi Hậu ngày càng khao khát được tiếp bước Võ Tắc Thiên. Mong muốn của Vi Hậu được con gái là công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi khuyến khích. Trở ngại chính của họ lúc này là Thái tử Lý Trùng Tuấn. Cả ba người bấy giờ đều khẳng định quyết tâm loại bỏ Trùng Tuấn, thành lập triều đại riêng dưới sự trị vì của Vi Hậu.

Công chúa An Lạc rất được Trung Tông cưng chiều vì xinh đẹp và khéo ăn nói. An Lạc bắt đầu dèm pha Lý Trùng Tuấn và muốn trở thành người nối ngôi vua cha. Trung Tông lưỡng lự nhưng rồi rốt cuộc đã từ chối An Lạc vì nghe theo lời khuyên của Tể tướng đầu triều. An Lạc sau đó bắt đầu thù ghét cha. Lý Trùng Tuấn nhận thấy rõ tình thế nguy hiểm của mình, đã thực hiện cuộc binh biến năm 707 với sự giúp đỡ của tể tướng và một số đại thần.

Lý Trùng Tuấn tuyên bố nhận được mật lệnh của vua Trung Tông rằng, Võ Tam Tư và Thượng Quan Uyển Nhi âm mưu giết vua, đem theo 300 lính ngự lâm quân tới nơi ở của Võ Tam Tư, giết chết Võ Tam Tư và hơn 10 kẻ hầu người hạ khác. Công chúa An Lạc may mắn thoát thân vì đang ở cung hoàng đế. Nhưng Trùng Tuấn đã tự mình dẫn theo lính tới cung vua, tìm Vi hậu và An Lạc. Công chúa An Lạc được Trung Tông che chở an toàn ở Cửa Huyền Vũ, khi Trùng Tuấn đến nơi thấy Trung Tông ngồi ở trên thành cùng Thượng Quan Uyển Nhi. Uyển Nhi sợ vua nghe theo lời con bèn nói: "Thiếp tin là đầu tiên hắn muốn bắt thiếp, sau đó là hoàng hậu và cuối cùng là cả hoàng đế’’.

Trung Tông tin theo, bèn ra lệnh ngăn chặn cuộc binh biến của Lý Trùng Tuấn. Một hoạn quan khá nổi tiếng về lòng dũng cảm đã dẫn đầu đội ngự lâm quan tấn công Trùng Tuấn, giết chết tướng chỉ huy. Lính tham gia binh biến bắt đầu nao núng. Vua Trung Tông bấy giờ ban chỉ dụ thu phục quân lính tham gia đội binh biến. Bấy giờ, ngự lâm mới biết không phải Trung Tông ra lệnh giết Võ Tam Tư cùng bè đảng, bèn quay giáo giết các tướng chỉ huy. Trùng Tuấn trốn khỏi Trường An với vài trăm người thân tín, nhưng rồi bị một kẻ dưới quyền giết chết khi đang ngủ.

Vi Hậu bấy giờ quyết định gia tăng thanh thế của mình, phong tước vị cho rất nhiều con cháu thân thuộc với âm mưu thay thế triều Đường bằng một triều đại của riêng mình. Công chúa An Lạc, sau cái chết của chồng ở vụ binh biến, đã tái hôn, và dan díu với con chồng cùng nhiều người khác như một nhà sư, một thái y, một đầu bếp hoàng gia...

Trung Tông bắt đầu không thể chịu nổi cuộc sống phóng đãng của vợ và con gái, năm 710 quyết định phế truất Vi Hậu. Khi biết điều này, Vi Hậu và công chúa An Lạc âm mưu giết vua. Thái y chuẩn bị thuốc độc, đầu bếp trộn thuốc vào những chiếc bánh bao chế biến hấp dẫn, công chúa tự mình dâng vua món ăn. Hoàng đế Trung Tông sau khi ăn bánh bao đã qua đời.

Thượng Quan Uyển Nhi đã ép Trung Tông lập chiếu nhường ngôi cho con thứ tư của một phi tần là Lý Trọng Mậu (Thiếu Đế) tuổi còn nhỏ. Vi Hậu trở thành người nắm giữ triều chính với tư cách Hoàng Thái Hậu nhiếp chính.

Sau này, Lý Đán lên ngôi, phế truất Lý Trọng Mậu. Vi Hậu, công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi bị giết chết.

Cuộc đời của Thượng Quan Uyển Nhi, theo những sử gia Nho giáo, là ví dụ nổi trội cho một hình mẫu phụ nữ tài năng nhưng phóng đãng. Mối quan hệ phức tạp của Thượng Quan Nhân với Võ Tam Tư (người tình), Vi Hậu (đồng minh và tình địch), Trung Tâm (hoàng đế và chồng) có lẽ luôn bị coi là trái luân thường đạo lý, là đầy rẫy âm mưu. Nhưng cũng cần đề cập tới một thực tế là, mọi điều có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu Vi Hậu và công chúa An Lạc bắt đầu một triều đại mới kiểu ’’gia đình trị’’ họ Vi mà không có sự can thiệp của nhiều thế lực khác, trong đó có Thượng Quan Uyển Nhi.

[right]Sưu tầm[/right]
[center]Thực tắc hư chi, hư tắc thực chi, hư thực tương sinh[/center]
[center]...¹ş†·Åģαιη....[/center]
Hình đại diện của thành viên
Lovevietnam_vn
 
Bài viết: 84
Ngày tham gia: Thứ 6 25/09/09 12:49
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi Lovevietnam_vn » Thứ 2 11/10/10 20:39

Hôm trước đã nói về các mĩ nhân có sắc có tài rồi. Hôm nay xin tiếp tục với các mĩ nhân có sắc nhưng lại sinh ra vào giai đoạn đất nước loạn lạc. Số phận của họ thật đáng thương.

[center]CHÂN HOÀNG HẬU[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Sau khi Tào Phi xưng đế, sủng hạnh Quách hoàng hậu, Quách hậu cậy đắc sủng nên gièm pha Chân hoàng hậu, từ đó Chân hoàng hậu thất sủng. Sau khi bị vua bỏ lơ không nói đến, từ “Đường Thượng Hành” có thể đọc thấy được lòng tương tư cực chí của một người vợ đối với trượng phu, một lòng thâm tình vô hối. Sự chờ đợi của Chân hoàng hậu đáng thương cuối cùng chỉ là một tờ giấy chết của Tào Phi. Thậm chí sau khi chết, thi thể phải lấy tóc che mặt, lấy trấu lấp miệng, chịu nỗi khổ vũ nhục và lăng ngược.

Đường Thượng Hành
Bồ sinh ngã trì trung, kỳ diệp hà li li.
Bàng năng hành nhân nghĩa, mạc nhược tiếp tự tri.
Chúng khẩu thước hoàng kim, sử quân sinh biệt li.
Niệm quân khứ ngã thời, độc sầu thường khổ bi.
Tưởng kiến quân nhan sắc, cảm kết thương tâm ti.
Niệm quân thường khổ bi, dạ dạ bất năng mị.

[center]HOA NHỊ PHU NHÂN[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từng ngưỡng mộ tài danh của Hoa Nhị Phu Nhân. Hoa Nhị Phu Nhân là Phí Quý Phi của Hậu Thục Hậu Chủ - Mạnh Xưởng, xuất thân là 1 ca kỹ ở Thanh Thành (nay ở phía Đông Nam thành phố Giang Yển). Tương truyền “Hoa Nhị Phu Nhân Cung Từ” có hơn 100 biến, trong đó thật ra chỉ có hơn 90 biến. Khi Tống diệt Hậu Thục, chỉ dùng có 1 vạn quân, 14 vạn quân Hậu Thục không chiến mà hàng, Hoa Nhị Phu Nhân theo Mạnh Xưởng lưu vong về phương bắc, đêm nghỉ ở Gia Minh dịch trạm, cảm hoài nỗi buồn nước mất nhà tan, đề lên vách quán bài “Thái Tang Tử”. Nhưng vì quân kỵ thôi thúc nên bị mất hết một nửa, cứ viết được 1 chữ lại rơi lệ.

Thái Tang Tử
Sơ li thục đạo tâm tướng toái,
Li hận miên miên.
Xuân nhật như niên,
Mã thượng thời thời văn đỗ quyên.

[center]HẦU PHU NHÂN[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Tùy Dạng Ðế Dương Quảng tại vị, bắt hàng ngàn thiên hạ mỹ nữ nhốt vào trong Hậu cung, Hầu Phu Nhân chính là 1 trong số hàng ngàn cung nữ đó mà suốt cả cuộc đời cũng chưa hề gặp được Tùy Dạng Ðế, cuối cùng tự tử mà chết.

[center]TRẦN VIÊN VIÊN[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Trần Viên Viên là mỹ nhân đã gián tiếp khiến giang sơn Trung Hoa rơi vào tay giặc Thanh từ quan ngoại.
Tương truyền do Ngô Tam Quế hận không lấy được nàng, đã dẫn quân Thanh vào cửa quan, để giành lại người đẹp. Vì vậy không phải do nàng trực tiếp gây ra cảnh sinh linh đồ thán đó, nhưng vẫn bị người của mấy đời sau phỉ nhổ

[center]ĐỔNG NGẠC PHI[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Người thân yêu nhất của Thuận Trị Ðế, cái chết của bà đến nay vẫn là một kì án của triều Đại Thanh ko có lời giải đáp. Sau khi bà mất Thuận Trị bỏ đi tu, để lại đất nước cho Khang Hi và cũng mở ra một trong những trang sử huy hoàng nhất của Đại Thanh.

[right]Sưu tầm[/right]
[center]Thực tắc hư chi, hư tắc thực chi, hư thực tương sinh[/center]
[center]...¹ş†·Åģαιη....[/center]
Hình đại diện của thành viên
Lovevietnam_vn
 
Bài viết: 84
Ngày tham gia: Thứ 6 25/09/09 12:49
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Mĩ nhân Trung Hoa cổ đại....

Gửi bàigửi bởi Lovevietnam_vn » Thứ 6 11/03/11 11:46

Xin giới thiệu với mọi người về 8 người con gái nức tiếng Giang Nam - "Kim Lăng bát diễm" hay còn gọi là "Tần Hoài bát diễm" cuối thời Minh mạt.
[center]TRẦN VIÊN VIÊN[/center]
[center]Hình ảnh[/center]

Cô này đã nói một lần nhưng không chi tiết lắm nay xin nhắc lại thêm một lần nữa.

Trần Viên Viên được xem là mỹ nhân tuyệt sắc ở Triều nhà Minh đời Tư Tông tức Sùng Trinh Đế, nàng cũng là người đẹp cuối cùng trong mười phụ nữ xinh đẹp nhất của Trung Quốc.
Khởi đầu của Trần Viên Viên khá giống mỹ nhân Trương Lệ Hoa đời Nam Bắc triều, Trần Viên Viên cũng xuất thân từ một gia đình lao động nghèo hèn tại thôn Thái Nguyên. Viên Viên lẽ ra mang họ Hình, nhưng là con nuôi của gia đình họ Trần nên lấy họ cha mẹ nuôi và trở thành dưỡng nữ của họ, rồi sau đó đến Tô Châu làm ca kỹ. Viên Viên vốn có sắc đẹp hơn người, xinh đẹp hơn cả hai cô công chúa Trường Bình và công chúa Chiêu Ân con vua Sùng Trinh lúc bấy giờ, thông thạo đàn hát nên có rất nhiều nam nhân đến xem nàng biểu diễn. Trong số đó có Điền Văn là một phú hộ có thế lực rất lớn do con của ông ta là quý phi được Sùng Trinh sủng ái. Điền Văn trong một dịp tình cờ thưởng thức tài nghệ của Viên Viên và bỏ ra một số tiền lớn để mua nàng về.

Trần Viên Viên từ khi gặp được Ngô Tam Quế, một danh tướng của Sùng Trinh tại phủ của Điền Văn thì cả hai đã phải lòng nhau. Có thể nói nguyên nhân khiến Ngô Tam Quế phản quốc khiến cho sụp đổ cả một vương triều Đại Minh phần lớn đều do Trần Viên Viên mà ra. Sự chuyển biến quan trọng đó là việc Trần Viên Viên bị Lý Tự Thành bắt giữ khiến Ngô Tam Quế sau nhiều lần suy tính, cuối cùng thỏa hiệp với Đa Nhĩ Cổn mở đường cho quân Thanh vào Sơn Hải quan thẳng tiến đến Bắc Kinh. Toàn bộ sự việc như sau:
• Ngô Tam Quế vốn yêu thích Trần Viên Viên khi nàng đang là ái thiếp của Điền Văn, nhân cơ hội Điền Văn lo sợ nghĩa quân Lý Tự Thành vây đánh cướp bóc gia trang của mình nên ông hứa sẽ bảo vệ Điền Văn, của cải và gia quyến được an toàn, đổi lại ông muốn Viên Viên thuộc về mình.
• Khi đã có Trần Viên Viên, Ngô Tam Quế lại phải tiếp nhận thánh chỉ dẫn quân ra quan ải chặn đường quân Thanh. Lý Tự Thành thừa cơ hội bắt giữ gia quyến của Ngô Tam Quế và luôn cả nàng Viên Viên mang đi. Trong khi đó vua Sùng Trinh chỉ còn biết cách dối gạt ông và bịa chuyện Viên Viên đang dưỡng bệnh tại hậu viên tránh tiếp xúc người ngoài.
• Lý Tự Thành khi ấy đã tự phong mình là Đại Thuận Đế, tiến quân đến Sơn Hải quan và dùng gia quyến của Ngô Tam Quế làm điều kiện buộc ông quy hàng. Tuy nhiên, sau khi lật đổ nhà Minh, Lý Tự Thành sau đó lại cố chấp không thả người còn giết hết cả nhà Ngô Tam Quế gồm cha mẹ và anh chị em hơn ba mươi người (nhưng trong đó không có Trần Viên Viên). Việc làm này khiến Ngô Tam Quế căm giận và về quy hàng nhà Thanh.
Liên minh Ngô Tam Quế – Đa Nhĩ Cổn nhà Thanh tổ chức nhiều đợt tấn công, đẩy lùi nghĩa quân Lý Tự Thành về Cửu Cung Sơn, Lý Tự Thành trúng tên bị thương nặng và qua đời.

Khi nhà Thanh chiếm được Trung Nguyên thì Trần Viên Viên gửi mật thư cho Ngô Tam Quế để ông đến đón nàng tại một thôn làng xa xôi nơi nàng lánh nạn. Tiếc thay hạnh phúc không được bao lâu thì Ngô Tam Quế rắp tâm làm phản mặc cho Viên Viên hết lời can ngăn. Ông lui quân về Hồ Nam, nơi mình được phong vương rồi chiêu binh mãi mã, tự đế lấy hiệu Chiêu Võ. Viên Viên quá bất mãn xuất gia đi tu và chết trong lúc Ngô Tam Quế lập quốc xưng vua. Lúc bấy giờ Khang Hy đã lên ngôi, thông minh sáng suốt, nhờ nhiều mưu thần người Mãn và các quan người Hán đã qui thuận tiếp sức, một mặt vừa lo đối phó với gian thần Ngao Bái, mặt khác tăng cường nhiều trận đánh khiến quân Ngô Tam Quế kinh hoàng. Quân Thanh vây kín thành Nhạc Châu, Ngô Tam Quế khi ấy thất thế chỉ biết rượu chè say sưa rồi một hôm trúng gió qua đời, nhà Thanh đại thắng.

Trần Viên Viên vốn là ca kỹ ở Côn Sơn, từng sống ở Tần Hoài, bởi nàng sắc nghệ siêu quần, lại liên quan đến sự kiện lịch sự trọng đại, nên người đời liệt nàng vào “Tần Hoài bát diễm” và gọi nàng là “Tiền triều Kim Lăng xướng gia nữ”.
Trần Viên Viên vốn họ Hình, tên Nguyên, tự Viên Viên, còn có tự Uyển Phương, lúc nhỏ theo dưỡng mẫu họ Trần nên đổi theo họ Trần. Nàng dung mạo xinh đẹp, hoa minh tuyết diễm, hát hay múa đẹp, sắc nghệ quán thế.

Những năm cuối thời Sùng Trinh, khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành uy chấn triều đình, Sùng Trinh đế ngày đêm không yên. Gia Định bá Chu Khuê muốn tìm tuyệt sắc mĩ nữ để giải tâm tư ưu phiền của hoàng đế, bèn nhờ anh trai của Điền phi là Điền Uyển hạ giang nam tìm người đẹp.
Sau khi Điền Uyển chọn được Trần Viên Viên, bị say mê bởi sắc đẹp của nàng, bèn này ý nghĩ chiếm làm của riêng. Không lâu sau quân của Lý Tự Thành đánh đến kinh sư, Sùng Trinh đế vội triệu Ngô Tam Quế trấn Sơn Hải Quan. Điền Uyển đối với quân khởi nghĩa nông dân ngày nào cũng lo lắng hoang mang, nhân vậy bèn mở thịnh tiệc tiễn Ngô Tam Quế, Viên Viên cũng ở trong đội ca múa biểu diễn trên đại sảnh. Ngô Tam Quế gặp được Viên Viên, thần trì tâm đãng, cao hứng ôm ấp Viên Viên bồi rượu. Rượu được ba tuần thì đột nhiên có báo động, Điền Uyển sợ hãi chạy tới hỏi: “Giặc tới, làm thế nào?”. Ngô Tam Quế nói: “Nếu có thể tặng Viên Viên, tôi sẽ bảo hộ nhà ông bình yên”. Không chờ Điền Uyển trả lời, Ngô Tam Quế lập tức mang Viên Viên ra đi.

Ngô Tam Quế trong doanh đô đốc được phụ thân thuyết phục, để Viên Viên lại trong phủ đệ ở kinh thành tránh thị phi cũng như tránh hoàng đế biết chuyện.
Sau khi Lý Tự Thành đánh tới Bắc Kinh, phụ thân của Ngô Tam Quế đầu hàng quân khởi nghĩa, Trần Viên Viên cũng bị bộ hạ của Lý Tự Thành cướp lấy. Đúng vào lúc Ngô Tam Quế đồng ý đầu hàng Lý Tự Thành thì nghe tin Viên Viên bị chiếm mất rồi, đại nộ xung thiên, kêu lớn: “Đại trượng phu không bảo vệ được vợ thì còn sống làm gì nữa?” bèn đầu hàng quân Thanh và khai chiến với quân nông dân. Điều này đã được Ngô Mai Thôn viết trong “Viên Viên khúc” như sau:
[center]“Đổng khốc lục quân câu cảo tố,
Xung quan nhất nộ vi hồng nhan”.[/center]

Lý Tự Thành về sau thất bại, bèn giết toàn bộ Ngô gia 38 người, xong vội vã rút quân khỏi Bắc Kinh. Ngô Tam Quế ôm mối thù sát phụ đoạt thê, ngày đêm truy đuổi quân nông dân đến Sơn Tây.
Lúc này bộ tướng của Ngô Tam Quế ở kinh thành tìm thấy Trần Viên Viên, phi ngựa mang tới, Ngô Tam Quế bèn dẫn Trần Viên Viên vào Thục, độc chiếm Vân Nam.

Dưới triều Thuận Trị, họ Ngô được thăng làm Vân Nam Vương, muốn lập Viên Viên làm chính phi nhưng Viên Viên cố gắng từ chối, Ngô Tam Quế đành lập người khác. Bị chính phi của Ngô Tam Quế đố kỵ ghen ghét, nhiều lần muốn hãm hại, Viên Viên bèn chuyển đến độc cư ở biệt viện. Dần dần Viên Viên bị họ Ngô thất sủng, thậm chí từng có ý định giết nàng, sau Viên Viên biết được, bèn cắt tóc làm ni tại Hoa Quốc tự ở Ngũ Hoa Sơn.
Sau này Ngô Tam Quế tuyên bố độc lập ở Vân Nam, Khang Hy đế xuất quân bình Vân Nam, năm 1681 phá thành Côn Minh, Ngô Tam Quế chết đi, Trần Viên Viên cũng tự vẫn dưới ao hoa sen, sau được táng bên bờ ao. Đến cuối thời nhà Thanh, trong chùa còn lưu giữ hai bức tranh nhỏ của nàng, bờ ao vẫn còn phiến đá khắc thơ.

[center]MÃ TƯƠNG LAN[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Mã Tương Lan (1548 – 1604) có thể coi là nữ thi nhân, nữ hoạ gia thời nhà Minh. Theo “Tần Hoài nghiễm kí” nàng tên Chân, tự Tương Lan, tiểu tự Huyền Nhân, lại có tự là Nguyệt Kiều, vì con thứ 4 trong nhà tên còn được gọi là Tứ nương.

Mã thị bản tính linh lợi, lại xinh xắn, thơ hay vẽ đẹp, sở trường vẽ lan trúc, bởi thế mới gọi là Tương Lan. Nàng sinh trưởng ở Nam Kinh, từ nhỏ đã bất hạnh luân lạc phong trần, nhưng nàng tính tình khoáng đạt, hiệp nghĩa, thường dùng tiền bạc để cứu giúp trẻ em. Nàng sống ở Tần Hoài có rất nhiều người hâm mộ, có giao tình rất hậu với Giang Nam tài tử Vương Trĩ Đăng, thư từ của nàng với Vương Trĩ Đăng được tập hợp trong Lịch đại danh viện thư giản.

Tướng mạo của nàng tuy không xuất chúng, dáng dấp như người thường nhưng đầu óc thông minh, sáng sủa như xuân liễu tảo oanh, từ ngữ nói ra toàn lời hay ý đẹp, khéo vừa lòng người.

Tài nghệ hội hoạ của Mã thị rất cao, năm đó tổ phụ của Tào Tuyết Cần là Tào Dần từng liên tiếp ba lần đề thơ thành “Mã Tương Lan hoạ lan trường quyển”, tộng cổng 72 câu, được ghi lại trong Đống Đình Tập của Tào Dần.

Trong “Lịch đại hoạ sử hối truyện” đánh giá kỹ thuật vẽ tranh của nàng “Lan phảng tử cố, trúc pháp trọng cơ, câu năng tập kì vận”.
“Thư hoạ tinh phẩm” trong Cố Cung ở Bắc Kinh cũng có một gian lưu giữ quyển sách về hoa lan của Mã thị, tranh của nàng ở hải ngoại ngày càng được coi là trân phẩm. Trong văn học Mã thị cũng rất tài hoa, từng viết thành cuốn thơ “Tương Lan tử” tập gồm hai quyển và kịch bản “Tam sinh truyện”. Mã thị đa tài đa nghệ, không những tinh thông âm luật, ca vũ lại còn biết dàn dựng hí kịch. Ở giáo phường nàng từng học về hí kịch, lại vừa biểu diễn “Tây Sương Kí toàn bản”, tuy học như thế nhưng cũng được chân truyền.

Trong đại thọ 70 tuổi của Vương Trĩ Đăng, Mã thị tự mua thuyền chở mười hai ca kĩ đến Tô Châu chúc thọ, “yến ẩm luy nguyệt, ca vũ đạt đán”, sau này mắc bệnh không khỏi, cuối cùng mất năm 57 tuổi.

Nàng chết đi được táng ở trạch đệ, tức gần Bích Phong tự của công viên Lộ Châu ngày nay.

Thơ của Mã Tương Lan:

[center]ĐOẠN NHAI ĐẢO THÙY LAN.
“Tuyệt bích huyền nhai phún dị hương,
Thuỳ dịch không nhạ lộ nhân mang.
Nhược phi vị trí cao thiên nhận,
Nan miễn chu môn bạn vãn trang.”
Dịch:
“Vách đá cheo leo hương ngát bay
Khiến người thèm khát mỗi qua đây
Nếu không ở chỗ cao nghìn nhận
Khó tránh lầu son sớm tối bay.”[/center]

[center]LÝ HƯƠNG QUÂN[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Danh kỹ trên sông Tần Hoài là Lý Hương Quân, bên mình lúc nào cũng mang một chiếc quạt lụa, mặt quạt làm bằng tơ lụa trắng tinh, trên mặt vẽ một bức vẽ hoa đào, sắc thái đậm đà đẹp đẽ, do đó gọi là “Quạt hoa đào” (Đào hoa phiến). Bức vẽ trên chiếc quạt ấy tuyệt nhiên không phải do tay danh gia nào vẽ, vậy vì sao Lý Hương Quân lại xem đó như một vật quý giá vô cùng? Vốn là hoa đào vẽ trên mặt quạt ấy, không phải vẽ bằng chất liệu vẽ bình thường, mà là máu tươi của Lý Hương Quân đổ ra vẽ thành, ngưng kết trên mặt quạt ấy là câu chuyện tình ai diễm triền miên giữa nàng và tình lang Hầu Phương Vực, và cũng là toàn bộ ước nguyện của nàng ở kiếp này.

Lý Hương Quân là kỹ nữ trong Mỵ Hương Lâu bên bờ sông Tần Hoài. Mỵ Hương Lâu được xây dựng cực kỳ tinh xảo, đứng soi bóng xuống dòng nước, đứng trên lầu tựa lan can nhìn ngắm, thấy khói nước xanh biếc, thâu vào tầm mắt bao nhiêu là họa thuyền rực rỡ như dệt lụa trên sông Tần Hoài. Chủ nhân của Mỵ Hương Lâu là Lý Đại Nương, thuở còn trẻ bà cũng là kỹ nữ bên sông Tần Hoài, sau khi lớn tuổi, liền dùng tài sản tích góp được xây dựng nên tòa Mỵ Hương Lâu này, thu nhận và nuôi dưỡng bao nhiêu là con gái, dùng thơ rượu ca múa để tiếp khách, trong thành Nam Kinh cũng có một chút danh tiếng. Gương mặt đáng kể nhất chống giữ cho Mỵ Hương Lâu chính là Lý Hương Quân. Cô nương này từ nhỏ đã lớn lên bên cạnh Lý Đại Nương, làm thơ, đọc sách, gảy đàn, vẽ tranh, ca múa, đều được Lý Đại Nương dạy bảo kỹ lưỡng rành rẽ, về tính tình cũng học được nét hào sảng hiệp nghĩa của Lý Đại Nương, thật là khiến cho mọi người đều thương mến. Nhưng nói khi Lý Hương Quân lớn lên rồi, lại có nét riêng của nàng, dáng người nàng xinh tươi nhỏ nhắn, mềm mại lung linh, đầu mày cuối mắt đều xinh đẹp diễm lệ, miệng nhỏ môi nhạt, vẻ bề ngoài biết bao xinh đẹp, từng ly từng tí đều đáng là kiểu mẫu. Nhân nàng yêu kiều nhỏ nhắn mà xinh đẹp thơm tho, nên trong tên mới mang một chữ “hương”, do đó các khách khứa đều gọi đùa nàng là “hương phiến trụy” (tua quạt thơm), lại đúng hợp với phong thái và mùi thơm của nàng.

Mỵ Hương Lâu tiếp liền với các kỹ lâu cao cấp cùng hạng khác bên bờ sông Tần Hoài. Trong các kỹ lâu loại này kỹ nữ đa phần là bán nghề để mua vui chứ không bán thân. Lý Hương Quân cũng là điển hình của loại này. Nhân vì Lý Đại Nương trượng nghĩa hào sảng lại hiểu biết phong nhã, do đó khách đến Mỵ Hương Lâu quá nửa là kẻ văn nhân tao nhã cùng với các quan lại chính trực trung trinh. Chịu ảnh hưởng từ đó, Lý Hương Quân từ khi tuổi còn nhỏ đã hiểu biết phân biệt được tốt xấu trung gian. Lần thứ nhất gặp Hầu Phương Vực, một ánh mắt đã xiêu lòng, khi ấy Lý Hương Quân mới vừa mười sáu tuổi.

Hầu Phương Vực, tự Triều Tông, người ở Thương Khâu, Hà Nam, tổ phụ Hầu Chấp Bồ là quan thái thường khanh triều Minh, phụ thân là Hầu Tuân, từng làm qua chức Hộ bộ thượng thư, đều là bậc trung thần cương trực thẳng thắn. Hầu Phương Vực từ nhỏ theo học thi thư với bậc danh sĩ ở quê là Nghê Nguyên Lộ, tỏ ra mẫn tuệ đa tài, tiến bộ rất nhanh. Năm Sùng Trinh thứ mười sáu, Hầu Phương Vực hai mươi hai tuổi liền đến Nam Kinh tham gia kỳ thi Hội về Lễ. Tự cậy mình tài học giỏi giang, Hầu Phương Vực trẻ tuổi bồng bột tuyệt không coi việc ứng thí khi đó là chuyện quan trọng, lại đến đất cũ Lục triều phồn hoa, đèn hồng rượu lục, lưu thắm tràn hương, chàng không khỏi có ý muốn bước chân vào chốn gió trăng. Hôm ấy, có lời giới thiệu của bạn là Dương Long Hữu, chàng hâm mộ danh tiếng đến chơi Mỵ Hương Lâu, để nhìn xem phong thái của “tua quạt thơm” Lý Hương Quân. Vừa bước vào phòng Lý Hương Quân, chỉ thấy trong nhà trưng bày đầy các thứ thư họa cổ ngoạn, không hề có một chút ý tứ thanh tân nào, thật khác xa với những hạng lầu xanh khác. Lý Hương Quân mỉm cười yểu điệu, thi lễ mời khách ngồi, lập tức có thị tỳ đưa đến trà thanh và các thức trái cây, khi đó Hầu Phương Vực lại bị một bức tranh treo trên vách tường ngay trước mặt hấp dẫn, đó là một bức “Hàn sơn hiểu phiếm đồ” (buổi sớm chèo thuyền qua núi Hàn), trên dòng sông xanh phủ tràn tuyết lạnh, một chiếc thuyền côi lơ lửng giữa dòng, trời xanh xanh, đất mênh mang, thật là một cảnh ý xa vời đạm bạc, trên tranh có đề một bài thơ:
[center]“Sắt sắt tây phong tịnh viễn thiên,
Giang sơn như họa kính trung huyền.
Bất tri hà xứ hạc ba tẩu,
Nhật xuất hô nhi phiếm điếu thuyền.”[/center]
Dịch nghĩa:
[center]“Gió tây thổi san sát, trời xa trong trẻo,
Sông núi như vẽ còn lại trong gương.
Chẳng biết sóng nhỏ chạy về nơi nào,
Mặt trời mọc, gọi nhà thuyền chèo chiếc thuyền câu.”[/center]

Trên tranh chưa có lạc khoản, có lẽ không phải là của tay danh gia nào, Hầu Phương Vực hỏi rằng: “Bức tranh này là ai vẽ thế?” Lý Hương Quân thấy chàng ngắm bức tranh chăm chú như thế, hơi có vẻ xấu hổ khẽ nói: “Là do tiểu nữ vẽ chơi thôi, không đáng nhắc đến.” “Là do nàng vẽ?” Hầu Phương Vực không dám tin ngay cô gái lầu xanh xinh đẹp nhỏ nhắn non nớt bẽn lẽn đó lại có thể sáng tác được những thư họa thần tình đến vậy, thật khiến người ta phải lau mắt xem lại. Bắt đầu là chuyện về bức họa đó, tiếp theo hai người càng nói chuyện càng hợp ý, đôi bên cảm thấy như đã quen biết từ trước. Trước khi rời đi, Hầu Phương Vực cũng cầm bút làm một bài thơ, đưa cho Lý Hương Quân làm lễ vật nhân lần đầu gặp nhau, thơ rằng:
[center]“Xước ước tiểu thiên tiên
Sinh lại thập lục niên
Ngọc sơn bán phong tuyết
Dao trì nhất chi liên
Vãn viện hương lưu khách
Xuân tiêu nguyệt bạn miên
Lâm hành kiều vô ngữ
A mẫu tại bàng biên.”[/center]
Dịch nghĩa:
[center]“Vị tiên nhỏ trên trời ẻo lả, sinh ra đã mười sáu năm
Núi ngọc nửa ngọn phủ tuyết, Dao trì một cành sen
Viện buổi chiều mùi thơm lưu giữ khách, đêm xuân trăng kề trong giấc ngủ
Lúc ra đi (nàng) nũng nịu mà không dám nói (vì) có mẹ ở bên cạnh.”[/center]

Một mối tình hoài mừng vui kính mến đều đã biểu lộ ra trong thơ, một người là thiếu niên văn nhã, phong lưu lỗi lạc, một người là ngọc nữ lầu xanh yểu điệu đa tình, huệ chất lan tâm, sau mấy lần gặp nhau, đã cùng chung đôi rơi vào biển tình, triền miên khôn gỡ.

Lại nói phong tục thuở ấy, khi người khách nào để ý một người kỹ nữ, thì có thể xuất tiền của ra sắp đặt lễ nghi long trọng, lại đưa một khoản tiền lớn cho kỹ viện, rồi người kỹ nữ ấy mới có thể chuyên tâm hầu hạ một người khách ấy thôi, lề tục ấy gọi là “sơ lộng”. Tùy theo danh vị người sơ lộng cao thấp khác nhau mà tài vật sơ lộng cũng không giống nhau, như Lý Hương Quân ấy vốn là một kỹ nữ nổi tiếng, lễ sơ lộng tất phải mời kẻ nhã sĩ phong lưu giàu có thể diện, mức độ tiệc tùng tự nhiên cũng phải cao, tiền lễ cho mụ dầu phải hậu, tuyệt không thể đến lượt kẻ không có mặt mũi gì. Khi ấy Hầu Phương Vực là kẻ xa nhà đi thi, không đem theo nhiều bạc bên mình, có lòng mơ tưởng được sơ lộng Lý Hương Quân, mà lại không có chút khả năng.

Chính lúc chàng gặp nỗi khó, người bạn Dương Long Hữu lại “tuyết đến cho than”, hết sức trợ giúp tiền bạc cho chàng. Khi đó chàng một lòng vội vã thu xếp mọi việc, cũng không kịp để ý hỏi kỹ Dương Long Hữu vì đâu lại giúp tiền cho chàng, chỉ nói rằng ngày sau nhất định sẽ trả. Đã có vốn rồi, việc chu biện nghi thức sơ lộng cứ thế tiến hành vô cùng thuận lợi, đêm ấy Hầu Phương Vực đưa đến một chiếc quạt bằng ngà voi chạm hoa, mặt quạt bằng lụa trắng, tặng cho Lý Hương Quân làm vật định tình, trên cán quạt có buộc một tua quạt bằng hổ phách là vật gia truyền của nhà họ Hầu. Lý Hương Quân thấy rõ tình ý tình thành khẩn nồng nàn của Hầu lang, từ ấy mới giữ chàng ở lại trong Mỵ Hương Lâu.

Một ngày kia, Hầu Phương Vực chợt nhớ ra trong nhà Dương Long Hữu không hề giàu có dư dật, tự mình có thể lấy đâu ra một lượng tiền lớn để giúp chàng? Chàng cùng Lý Hương Quân nói về chuyện đó, Hương Quân cũng cảm thấy sự việc xảy ra quá dễ dàng thuận lợi, mới khuyên Hầu Phương Vực họp mặt hỏi cho rõ ràng. Hỏi han qua một lượt, cuối cùng nguyên nhân thật như đùa, hóa ra số tiền đó hoàn toàn không phải là của Dương Long Hữu xuất ra, mà là của Nguyễn Đại Việt thông qua Dương Long Hữu gửi tặng đến cho Hầu Phương Vực để kết nhân tình. Nguyễn Đại Việt là nhân vật thế nào? Vì sao y lại đưa tiền cho Hầu Phương Vực? Việc ấy tất nhiên là có nguyên nhân. Nguyễn Đại Việt là tiến sĩ năm Vạn Lịch thứ 44 đời vua Minh Thần Tông, nhiều năm làm quan trong triều, người này âm hiểm ngụy trá, cùng với hoạn quan Ngụy Trung Hiền cầy sói kết bầy làm gian. Trong triều phủ đầy hắc yên chướng khí, năm Sùng Trinh nguyên niên đời Minh Tư Tông, Ngụy Trung Hiền bị diệt trừ, Nguyễn Đại Việt vì là đồng liêu của kẻ nghịch tặc nên bị triều đình tước bỏ quan tịch, lui về Nam Kinh sống nhàn. Nguyễn Đại Việt bị mất chức nhưng không cam tâm chịu mai một như thế, y ở Nam Kinh giao thiệp rộng rãi với nhân sĩ trong giang hồ, bên trong ngầm âm mưu hoạch định, chuẩn bị chờ đợi cơ hội lại nổi dậy ở Đông Sơn. Những hạng nghĩa sĩ Giang Nam là Trần Chân Tuệ, Ngô Ứng Cơ, nhìn rõ tâm cơ vô pháp làm loạn của Nguyễn Đại Việt, làm bài “Lưu đô phòng loạn yết” để vạch trần việc y tiến hành âm mưu. Nguyễn Đại Việt đã vừa buồn bực vừa tức giận lại sợ bị hại, chỉ là khi ấy trong tay vô quyền, không có cách nào bắt giữ bọn họ, chỉ đành đóng cửa tạ khách, sống kín đáo ít ra ngoài, chỉ ngầm đi lại với Mã Sĩ Anh.

Hầu Phương Vực cùng bọn Trần Chân Tuệ, Ngô Ứng Cơ nhân vì chí đồng đạo hơp mà kết giao cùng chống kẻ nghịch, Nguyễn Đại Việt biết được Hầu Phương Vực ở thành Nam Kinh đang lúc thiếu tiền chi dụng, muốn nhân cưỡi ngựa phá ải, liền đặt kế nhờ Dương Long Hữu đem tiền đến giúp Hầu Phương Vực, lại muốn ngăn ngừa chàng cự tuyệt, nên ban đầu lại để Dương Long Hữu tạm giấu diếm thực tình. Mục đích của việc làm này của y không ngoài ý muốn thông qua việc lôi kéo Hầu Phương Vực mà hoà hoãn mối quan hệ với bọn Trần Chân Tuệ, khiến cho bọn họ không còn đối chọi với mình, khi đó y có thể muốn gì làm nấy.

Hầu Phương Vực sau khi đã mười phần hiểu được chân tướng thì vô cùng tức giận, chàng vốn thống hận Nguyễn Đại Việt nhân phẩm vào hạng gian tà, đã từng cùng với bọn Trần Chân Tuệ bút lưỡi xung sát, vỗ tay hả dạ, thế mà nay trong lúc không hay không biết lại tiêu tiền của Nguyễn Đại Việt, lòng chàng hổ thẹn khó chịu biết là chừng nào! Chàng quyết ý lập tức đem tiền hoàn trả lại cho Nguyễn Đại Việt, để đoạn tuyệt với dụng tâm bất lương của kẻ gian nhân, nhưng trong nhất thời biết đi đâu mà kiếm ra số tiền đó được? Lý Hương Quân rất nhanh chóng hiểu thấu tâm sự của chàng. Đương nhiên nàng cố gắng chi trì ý nguyện của chàng, rồi lại trợ giúp chàng vượt qua cửa ải khó này. Lý Hương Quân đem bán hết mấy món trang sức mình yêu thích, lại vay thêm ít tiền của các chị em, gom lại tính tổng cộng cũng tạm đủ số, giao cho Hầu lang. Hầu Phương Vực bị mối tình tri kỷ sâu sắc của Lý Hương Quân đánh động, chàng ôm chặt lấy thân thể xinh đẹp nhỏ nhắn của nàng, cảm kích không nói nổi nên lời.

Số tiền ít ỏi đó lại qua tay Dương Long Hữu trả lại cho Nguyễn Đại Việt, Nguyễn Đại Việt thấy thế, cả giận biến cả sắc mặt, nghiến răng nghiến lợi mà nói rằng: “Lão phu có ý muốn kết giao với các ngươi, mà mấy thằng tiểu tử các ngươi lại dám khí ngạo như thế, để xem lão phu về sau còn sống ngày nào, nhất định phải làm cho các ngươi không ngẩng mặt lên được!”

Thời cuộc quả nhiên chẳng mấy chốc phát sinh biến cố, Lý Tự Thành công phá Bắc Kinh, hoàng đế Sùng Trinh treo cổ tuẫn quốc, Phúc vương Chu Do Tung được một đám cựu thần ủng hộ, kiến lập hoàng triều mới Hoằng Quang ở Nam Kinh, Mã Sĩ Anh trở thành đại thần chấp chính, ngay lập tức dùng Nguyễn Đại Việt làm Binh bộ thị lang, sau đó lại thăng làm Binh bộ thượng thư.

Lại được nắm đại quyền, Nguyễn Đại Việt vô cùng đắc ý, trên lưng ngựa thẳng tay thanh trừ những kẻ dị biệt, bọn Trần Chân Tuệ, Ngô Ứng Cơ trong chớp mắt đều bị bắt giam vào ngục. Hầu Phương Vực sau khi biết được tin tức, hiểu rõ bàn tay đen đang rất nhanh chóng hướng về phía mình, chỉ còn cách xa chạy cao bay mới có thể thoát được nạn này.

Đó là một đêm khuya không trăng không sao, ánh đuốc mờ ảo trong Mỵ Hương Lâu soi chiếu hai bóng người khôn xẻ khôn chia, thời gian từng giây từng giây dần trôi qua. Hầu Phương Vực mấy phen đã định dời bước nhưng rồi đều ngừng lại, ôm chặt lấy Lý Hương Quân trong nỗi nhớ nhung day dứt, trong mắt chứa chan thê thiết. Chàng than một tiếng, nói: “Nhân sinh nan đắc nhất tri kỷ, thiên hạ thương tâm thị biệt ly, vì sao chúng ta lại không thể không chia lìa thế này!”

Lý Hương Quân gượng ngăn dòng lệ chỉ đang chực trào ra khóe mắt, an ủi tình lang rằng: “Có nỗi khổ biệt ly, mới có niềm vui gặp lại, nam nhi giỏi chí ở bốn phương, há lại để tráng chí hào tình tiêu ma trong Mỵ Hương Lâu. Huống chi nỗi tan hợp trong kiếp người là ở tại lòng chứ không phải tại cảnh, đấy với đây ví như không thể đôi lòng gắn bó, thì dẫu ngày ngày cùng giường chung gối, cũng như cách lìa nghìn dặm, chỉ cần chàng và thiếp mãi mãi kết đồng tâm, thì dầu cách xa nghìn núi vạn sông, khác gì mộng hồn lui tới!”

Lời nói của Lý Hương Quân mang lại cho Hầu Phương Vực thêm một phần kiên nghị, một phần sức mạnh, chàng cuối cùng cũng gạt lệ lìa xa thành Nam Kinh, vượt sang Giang bắc, tìm đến dưới cờ của chính đô đốc quân đội Dương Châu Sử Khả Pháp. Sử Khả Pháp là môn sinh của phụ thân Hầu Phương Vực, trung trinh cảnh trực vì người, ở Dương Châu gấp rút tăng cường thao luyện quân mã, chuẩn bị kháng cự quân Thanh Nam hạ. Hầu Phương Vực được xếp đặt làm công tác văn thư bên cạnh Sử Khả Pháp, hiệu lực trong việc kháng Thanh báo quốc, làm cho tráng chí của Hầu Phương Vực cũng được hả. Chàng cùng Lý Hương Quân ở Nam Kinh vẫn thường xuyên thư tín đi lại, trút nỗi tương tư, kể chuyện tâm tình, kẻ đấy người đây vẫn khăng khít kết liền cùng nhau.

Từ lúc Hầu lang ra đi, Lý Hương Quân được sự đồng ý của Lý Đại Nương, gột rửa duyên hoa, đóng cửa không tiếp khách, ngày ngày chỉ ngồi ngắm chiếc quạt lụa định tình, rõ ràng biểu thị nàng một lòng chờ Hầu công tử trở lại. Có rất nhiều quan lại hiển quý ngày ngày tới thăm mong nàng đổi ý, nhưng người con gái đó trái tim sắt đá, kiên quyết cự tuyệt, khách nhân chỉ còn nước ngóng lên lầu mà than.Thế nhưng, không lâu sau thì xuất hiện một người thật khó đối phó, người này là Thiêm Đô ngự sử Điền Ngưỡng, ông ta vận chuyển lương từ Dương Châu tới Nam Kinh, giúp đỡ cho triều đình của Hoằng Quang rất nhiều, trở thành người rất được Hoằng Quang đế coi trọng.

Mã Sĩ Anh cùng Nguyễn Đại Việt đại diện cho Hoằng Quang thần tử mở tiệc lớn để tẩy trần cho ông ta. Bấy giờ, Điền Ngưỡng nghe đến tên của danh kỹ Lý Hương Quân trên sông Tần Hoài đã lâu, muốn lấy nàng làm thiếp. Nguyễn Đại Việt nhanh chóng chộp lấy cơ hội, hắn từ lâu đã muốn báo thù Hầu Phương Vực và Lý Hương Quân, chỉ là Hầu Phương Vực nghe nói đã đi xa, khiến hắn chưa hạ thủ được. Bây giờ nếu có thể đẩy Lý Hương Quân làm thiếp của Điền Ngưỡng, một mặt có thể làm vui lòng Điền Ngưỡng, một mặt cũng chia rẽ được đôi uyên ương đó, thật là hả cái giận trong lòng, đúng là nhất tiễn hạ song điêu.

Ngày hôm sau, Nguyễn Đại Việt sai người mang rất nhiều tiền vàng đến Mỵ Hương Lâu làm sính lễ, Lý Hương Quân không thương lượng gì chỉ một câu cự tuyệt, nàng nói: “Hầu công tử tuy phiêu bạt bên ngoài, nhưng rồi sẽ có một ngày chàng quay lại, trước đây tôi đã từ chối nhiều người có thịnh tình, hôm nay đương nhiên không thể tiếp nhận sính lễ của đại nhân.”

Đâu ngờ rằng Nguyễn Đại Việt đã chuẩn bị kiệu hoa sẵn sàng ở bên dưới Mỵ Hương Lâu, hắn cho rất đông lính tiến lên trên lầu, Lý Đại Nương không thể ngăn trở, bọn chúng khiến người ta không còn một con đường chọn lựa nào khác. Lý Hương Quân bị bức đến không còn đường để đi, đành phải đáp ứng đi xuống.

Nàng nói thác rằng phải lấy trang sức, lấy xong sẽ lập tức lên kiệu. Đám người rước dâu chờ bên dưới một lúc, bỗng nghe một tiếng “binh” rất lớn vang lên, tiếp đó truyền đến tiếng của thị tỳ hô lớn: “Không xong rồi, tiểu thư nhảy lầu rồi!” Người trong phòng một phen thất kinh, liền nhảy ra ngoài xem xét, chỉ thấy Lý Hương Quân trong hoa phục nằm bên cạnh một bức tường, không động đậy gì, trên đầu chảy ra một dòng máu tươi, nhuộm hồng cả đôi má và trang phục.

Trong lòng nàng còn ôm chặt chiếc quạt lụa trắng mà Hầu Phương Vực tặng, trên mặt loang lổ vết máu. Những người đến rước dâu thấy nhốn nháo sắp có án mạng, sợ không dám ở lại, liền lẳng lặng mang kiệu hoa trở về.

Lý Đại Nương cùng đám tỷ muội trong Mỵ Hương Lâu đem Lý Hương Quân vào phòng, cấp tốc cho người đi mời đại phu. Dương Long Hữu sống tại gần đó biết tin đến nơi thì thấy trong viện không bóng người, chỉ còn một chiếc quạt lụa nằm cô quạnh trên đất. Dương Long Hữu nhặt được chiếc quạt, ngồi ngắm hồi lâu, cảm khái sự trinh liệt của Lý Hương Quân, trong đầu bỗng nảy ra ý nghĩ kỳ diệu.

Sau khi vào thăm Lý Hương Quân vẫn hôn mê bất tỉnh, Dương Long Hữu mang chiếc quạt lụa rời khỏi Mỵ Hương Lâu, về tới nhà mình lập tức ngồi vào trong thư phòng, lấy bút vẽ lên trên mặt chiếc quạt lụa còn lưu vết máu, huyết tích dần dần trở thành một đoá hoa đào tươi đẹp, rồi lại lấy mực vẽ thêm cành lá, cuối cùng từng nét từng nét vẽ thành một bức tranh hoa đào.

Dương Long Hữu ngắm chiếc quạt hồi lâu, lại đề lên mặt quạt ba chữ: “Đào Hoa Phiến”, đợi Lý Hương Quân tỉnh dậy sẽ trả lại. Lý Hương Quân sau thời gian điều trị, thương thế đại khái đã thuyên giảm, lúc này Điền Ngưỡng đã rời khỏi Nam Kinh, việc nạp thiếp cũng đã bỏ quên. Thế nhưng kẻ âm hiểm ác độc Nguyễn Đại Việt tịnh không bỏ qua cho nàng. Hoằng Quang hoàng đế là một tên ngu hèn vô năng, đất nước đang khó khăn ngập đầu lại không chủ trì quốc sự, hàng ngày chỉ biết ngập trong tửu sắc ca múa.Thấy ông ta ghét ca kỹ trong cung hát múa nội dung đơn điệu nhạt nhẽo, Nguyễn Đại Việt làm mọi cách để lấy lòng, tự tay chấp bút soạn ra ca từ kịch bản, lại tới ca lâu kỹ viện ở sông Tân Hoài để tuyển ca kỹ đưa vào cung cho Hoằng Quang đế.

Chờ Lý Hương Quân thương thế lành lại, Nguyễn Đại Việt lập tức soạn một thánh dụ của hoàng đế, triệu nàng nhập cung làm ca cơ. Một chiêu này quả thật khiến Lý Hương Quân không còn cách chống lại, nàng là nữ tử chốn thanh lâu, làm sao mà dánh kháng lệnh thánh thượng. Cung môn nhất nhập sâu tự hải, biết đến ngày nào mới gặp lại Hầu lang?

Nàng muốn gửi bức thư đến tình lang nơi phương xa, để chàng trở về gặp mặt một lần, thế nhưng chiến sự đương lúc khẩn yếu, thư tín căn bản không thể gửi đi. Mang theo lòng quyến luyến và hối hận vô hạn, Lý Hương Quân tiến nhập hoàng cung, mang theo chiếc quạt hoa đào được vẽ từ máu.
Chẳng bao lâu sau, quân Thanh công hạ Dương Châu, Hoằng Quang đế bỏ chạy, cuối cùng bị bộ tướng bắt nộp cho Thanh binh, thành Nam Kinh không đánh tự thua.

Lúc thành Nam Kinh bị phá, Lý Hương Quân và vài cung nhân khác nhân lúc ban đêm đào thoát, trên đường phố một cảnh hỗn loạn, quân Thanh thiêu sát cướp bóc, nạn dân chạy trốn bốn phương.

Lý Hương Quân bước thấp bước cao nhắm bờ sông Tần Hoài mà chạy tới, chỉ thấy ngọn lửa ngút trời, bầu trời đêm đỏ rực như máu. Khó khăn lắm mới chạy tới cầu Trường Bản, đứng tại đầu cầu nhìn thấy Mỵ Hương Lâu cũng đã bị ngọn lửa nuốt gọn.

Lý Hương Quân tim bỗng chùng xuống, đôi chân mềm nhũn, quỵ trên cầu, đầu óc trống không. Đúng lúc đó, thầy dạy nhạc của Lý Hương Quân là Tô Côn Sinh tình cờ đi qua cầu Trường Bản, phát hiện ra nàng đang ngồi trên cầu, liền chạy tới giúp, biết nàng chẳng còn nơi để đi, liền đưa nàng chạy theo dòng nạn dân, đi tới Tô Châu. Kỳ thật, đêm hôm đó Hầu Phương Vực cũng ở trong thành Nam Kinh, chàng ở Dương Châu bị thất trận phải chạy về Nam Kinh. Về tới nơi chứng kiến thảm cảnh, trong tim chàng lập tức nghĩ tới sự an nguy của Lý Hương Quân. Lửa cháy tràn ngập bờ Tần Hoài, Mỵ Hương Lâu chẳng còn một ai.

Chàng ở vùng phụ cận của Mỵ Hương Lâu bồi hồi tìm nàng suốt một đêm, nhưng chẳng thấy bóng của Lý Hương Quân. Lúc đó thật ra Lý Hương Quân vẫn đang ngồi trên cầu Trường Bản, nhưng trời già trêu ngươi, quyết không để hai người tương ngộ. Lý Hương Quân tới Tô Châu được Tô Côn Sinh chiếu cố, nhưng bởi đi cả đoạn đường dài vất vả, tinh thần lại cực độ bi thương nên nàng lâm trọng bệnh. Tô Châu lúc này rất yên bình, qua một thời gian, Lý Hương Quân gặp lại hảo hữu Biện Ngọc Kinh. Biện Ngọc Kinh vốn cũng là danh kỹ Tần Hoài, cùng Lý Hương Quân giao tình rất tốt, hai năm trước nàng tới Tô Châu, bên chân núi lập nên một tiểu viện thanh nhã.

Nhìn thấy hảo hữu lánh nạn như thế, Biện Ngọc Kinh nhiệt tình giữ Lý Hương Quân ở lại tiểu viện, mời danh y đến chẩn trị. Sau vài lần chẩn đoán thì biết Lý Hương Quân đã bị lao phổi, loại bệnh này lúc đó thật không có thuốc chữa, chỉ có thể tự mình điều lý, miễn cưỡng giữ được sinh mạng.
Dù trong lúc mang bệnh Lý Hương Quân vẫn mong nhớ Hầu lang, nàng ngày đêm ôm chiếc quạt hoa đào nhuộm máu, nhớ lại giọng nói và khuôn mặt của Hầu lang, nước mắt ướt đẫm áo.

Tô Côn Sinh là người nhiệt tình, thấy Lý Hương Quân đau đớn chẳng thiết sống, bèn chờ thế cục yên ắng, trở lại Nam Kinh nghe ngóng tin tức của Hầu Phương Vực. Sau khi hỏi han nhiều nơi, chứng thực Hầu Phương Vực từng ở Nam Kinh đi tìm Lý Hương Quân, sau chẳng có kết quả, thất vọng trở về nhà cũ ở Thương Khâu. Biết tin như vậy Tô Côn Sinh lập tức trở lại Tô Châu thông báo cho Lý Hương Quân, Lý Hương Quân bệnh nặng nằm trên giường, khuôn mặt tiều tuỵ hư nhược vô cùng. Nhìn thấy tình cảnh đó, Tô Côn Sinh trong tim đau xót vô cùng, bèn tự mình ngược Bắc lên Thương Khâu, vì đôi tình nhân mà đưa tin tức.

Sau khi Tô Côn Sinh Bắc thượng không lâu, Lý Hương Quân bắt đầu thổ huyết, bệnh tình ngày một trầm trọng, hít thở càng khó khăn hơn. Để lưu lại di vật, nàng van nài Biện Ngọc Kinh cắt một chòm tóc của mình, cẩn thận cất trong hồng bao, rồi đặt lên trên chiếc quạt hoa đào mà mình trân quý nhất, giao cho Biện Ngọc Kinh, nhờ nàng đưa cho Hầu Phương Vực, rồi lưu lại lời di ngôn: “Công tử vì Đại Minh thủ tiết, đánh đuổi dị tộc, thiếp xuống cửu tuyền không quên hậu ái của công tử.”

Hầu Phương Vực sau khi nhận tin tức từ Tô Côn Sinh, lập tức lên đường tới Tô Châu. Đáng tiếc, lúc chàng tới tiểu viện của Biện Ngọc Kinh, Lý Hương Quân đã trút hơi thở cuối cùng, chỉ để lại cho chàng nhất phiến chí tình, thương tâm vô hạn.

[center]LIỄU NHƯ[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Liễu Như Thị là ca kỹ, tài nữ trứ danh thời Minh – Thanh. Nàng có cá tính kiên cường, chính trực, thông tuệ, thanh danh không hề kém Lý Hương Quân, Biện Ngọc Kinh và Cố Mi Sanh.

Nàng là người Gia Hưng, sinh vào năm Minh Vạn Lịch thứ 50, lúc nhỏ thông minh hiếu học nhưng gia cảnh bần hàn, từ nhỏ đã bị bán đến Ngô Giang làm nô tì, sau lạc vào chốn Chương Đài, đổi tên là Liễu Ẩn, thường đi lại giữa hai vùng Kim Lăng và Chiết Giang. Bởi nàng xinh đẹp tuyệt trần, tài giỏi hơn người, nên trở thành “Tần Hoài danh cơ”.

Họ Liễu rất kén chọn phu quân, có nhiều danh sĩ đến cầu hôn nhưng đều không vừa mắt nàng, chỉ có vài người dừng lại ở chỗ bạn bè. Năm Sùng Trinh thứ 14 cũng là lúc nàng 20 tuổi, được gả cho Tiền Khiêm Ích, đại quan tuổi đã ngoài 50. Họ Tiền lấy nàng xong, vì nàng mà dựng lên Giáng Vân Lâu và Hồng Đậu Quán vô cùng hoa lệ, kim ốc tàng kiều. Liễu thị sau này sinh được một con gái.

Khi Sùng Trinh đế tự vẫn, quân Thanh chiếm lấy Bắc Kinh, tại Nam Kinh kiến thành tiểu triều đình của Hoằng Quang đế, Liễu Như Thị cố gắng khuyên Tiền Khiêm Ích đi nhận lễ bộ thượng thư của Nam Minh.

Không lâu sau quân Thanh Nam hạ, lúc binh lính đến dưới chân thành, Liễu thị lại khuyên Tiền trầm mình tuẫn quốc nhưng Tiền trầm tư không trả lời, cuối cùng bước tới bờ ao, thử chạm xuống nước rồi nói: “Nước lạnh lắm, không xuống được”. Liễu lại giục “cố gắng chìm thân người xuống”, nhưng họ Tiền vẫn cố gắng trụ lại. Cuối cùng, Tiền đành xấu hổ mà nghênh hàng. Họ Tiền hàng Thanh đến Bắc Kinh, Liễu thị ở lại Nam Kinh không đi.

Họ Tiền trở thành Lễ bộ thị lang của Thanh triều kiêm Hàn lâm học sĩ, nhưng bị ảnh hưởng của Liễu thị, nửa năm sau cáo bệnh từ quan. Nhưng sau lại bị liên luỵ đến một vụ án mạng, Liễu Như Thị phải hối lộ quan ti để cứu khỏi ngục, rồi lại cổ vũ y tham gia kháng Thanh với Trịnh Thành Công, Trương Hoàng Ngôn, Cù Thức Cử, Nguỵ Canh. Liễu thị cố gắng toàn lực phò trợ, uý lạo nghĩa quân kháng Thanh, những điều này đều chứng tỏ khí tiết ái quốc cường liệt của nàng.

Tiền Khiêm Ích hàng Thanh, tuy sau này làm theo lời của Liễu thị cáo bệnh nhưng cũng làm người ta phần nào mất đi thiện cảm. Úc Đạt Phu trong “Ngu Hà Tạp Tái” có một bài thơ “Xuân nhật ngã văn thất”. Xét về tài năng văn học và nghệ thuật, nàng có thể coi là đứng đầu “Tần Hoài bát diễm”. Học giả trứ danh là Trần Dần Khác sau khi đọc qua thơ của nàng, đã cảm khái “Diệc hữu sanh mục kết thiệt”, đối với “Thanh từ lệ cú” của Liễu Như Thị thập phần kính bội. Liễu thị còn tinh thông âm luật, ca hay múa giỏi, thư hoạ cũng thuộc hàng danh gia, tranh của nàng nhàn thục giản ước, thanh lệ hữu trí. Thư pháp lại càng được hậu nhân tán thưởng, được xưng tụng là “Thiết oản hoài ngân câu, tằng tương diệu tung thu”.
Năm 1666, họ Tiền chết, người trong làng muốn đến cướp đoạt tài sản, họ Liễu vì muốn bảo vệ gia sản họ Tiền đã dùng tấm lụa trắng để tự vẫn. Đám ác đồ tuy bị doạ bỏ đi, song nhất đại tài nữ cũng kết thúc cuộc đời ở đây. Nàng chết đi được táng ở Ngu Sơn, Phật Thuỷ sơn trang. Cũng năm đó con gái nàng 17 tuổi, được gả cho con trai của Vô Tích Triệu Ngọc Sâm.

[center]KHẨU BẠCH MÔN[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Khẩu Bạch Môn tên Mi, tự Bạch Môn, là một trong “Tần Hoài bát diễm” thời Minh mạt Thanh sơ.

“Bản Kiều Tạp Ký” viết: “Bạch Môn dáng người xinh đẹp, phong lưu cởi mở, tài viết nhạc, họa lan khéo, hiểu biết niêm vận, giỏi ngâm thơ, những thứ học qua không có gì là không tinh thông”. Bản tính Bạch Môn vốn đơn thuần chẳng chút sâu sắc, do vậy mà quyết định của nàng trong vấn đề tình cảm dẫn tới bi kịch.

Tàn xuân năm Sùng Trinh thứ 15, thanh thế hiển hách công thần Bảo Quốc công Chu Quốc Bật tiền hô hậu ủng dẫn sai dịch tới thu thuế Khẩu gia. Sau vài phen gặp gỡ, Bạch Môn cảm thấy Chu nho nhã phép tắc, ôn nhu thân thiết, đối với hắn có ấn tượng đẹp. Vì vậy, khi Chu ướm lời dạm hỏi, nàng liền đồng ý tuân theo. Cũng năm đó, trong một đêm thu, cô gái 17 xuân xanh Khẩu Bạch Môn điểm trang rực rỡ bước lên kiệu hoa. Phong tục Minh triều ở thành Kim Lăng, hễ nữ tử phường hát hoàn lương hay hôn thú, tất phải tiến hành vào ban đêm. Chu Quốc Bật muốn hiển thị oai phong, đặc phái 5 ngàn binh sĩ cầm đèn hoa, trải dài từ Vũ Định kiều đến tận cầu nhỏ bên trong Chu phủ. Cuộc nghênh hôn này rầm rộ nhất Nam Kinh thời đó, cảnh tượng huy hoàng không gì sánh nổi.

Chu Quốc Bật thực tế là một quan viên xảo quyệt miệng lưỡi. Hắn nghênh thú Khẩu Bạch Môn nhất thời chỉ để mua vui, sau vài tháng, thói bạc tình ngày càng lộ rõ, gạt Khẩu thị qua một bên, chứng nào tật nấy ngựa quen nết cũ, lê la đến thăm cây liễu ở Chương Đài.

Năm 1645, Thanh binh Nam hạ. Chu Quốc Bật đầu hàng Thanh triều, không lâu thì đem gia quyến nhập kinh sư nhưng bị Thanh đình giam lỏng. Chu đương lúc quẫn bách, muốn đưa Bạch Môn cùng các ca cơ tỳ nữ đồng bán một loạt. Nàng rằng: “Chàng bán thiếp bất quá chỉ trăm lượng... bằng để thiếp về Nam, trong khoảng thời gian một tháng sẽ có đủ vạn lượng báo đáp”. Chu ban đầu ngần ngừ, nhưng rồi cũng ưng. Khẩu Bạch Môn một mình một ngựa cùng tỳ nữ Đậu nhi hấp tấp trở lại Kim Lăng nhờ tỷ muội ở viện cũ bang trợ, thu thập được 2 vạn lượng bạch ngân đưa cho Chu.
Chu đã được bạc, lại còn mộng tưởng chuyện sum vầy, nhưng bị Khẩu thị cự tuyệt: “Khi xưa chàng dùng bạc chuộc thiếp ra, bây giờ thiếp cũng dụng cách ấy hồi đáp chàng”. Mọi sự coi như liễu kết từ đây.

Khẩu thị quay lại Kim Lăng, được người đời xưng tụng là nữ hiệp, nàng ở “Trúc Viên đình, kết tân khách, ngày ngày bầu bạn với văn nhân tao khách, vui chén luận đàm, hoặc ca hoặc khóc, tự than thở mỹ nhân yểu mạng, lại thương cảm nỗi hồng đậu phiêu linh”.

Sau, nàng theo một vị Hiếu liêm ở Dương Châu, bất đắc ý lại trở về Kim Lăng lưu lạc phường hát, cuối cùng bệnh mà chết. Đương thời, lãnh tụ đảng Đông Lâm là Tiền Khiêm Ích có làm bài thơ “Khẩu Bạch Môn” truy điệu nàng trong văn đàn tế tửu. Bài thơ như sau:

[center]“Khấu gia tỷ muội tổng phương phi
Thập bát niên lai hoa tín mê
Kim nhật Tần Hoài khủng tương trực
Phòng tha hồng lệ nhất triêm y.

Tùng tàn hồng phấn niệm quân ân
Nữ hiệp thùy tri Khấu Bạch Môn?
Hoàng thổ cái quan tâm vị tử
Hương hoàn nhất lũ thị phương hồn.”[/center]

[center]ĐỔNG TIỂU UYỂN[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Đổng Tiểu Uyển là người đứng đầu trong “Kim Lăng bát diễm” nổi tiếng thời Minh mạt, sắc đẹp của nàng từng khiến xảy ra một phen minh tranh ám đấu giữa các danh công cự khanh.

Người con gái lưu lạc phong trần này coi khinh quyền quý, quyết tâm tranh đấu với nó. Song nàng lại cùng đệ nhất tài tử trong “Tứ tài tử” thời Minh mạt là Mạo Tích Cương, một người giàu có, phong lưu lỗi lạc, hai người đã phải lòng nhau. Bài viết này tái hiện lại một câu chuyện tình của người con gái truyền kì đất Kim Lăng.

Đổng Tiểu Uyển tên Bạch, tự Thanh Liên, còn gọi là Thanh Liên nữ sử, tên và tự của nàng đều vì lòng ngưỡng mộ Lý Bạch mà ra. Nàng thông minh linh tú, thần tư diễm phát, yểu điệu thiền quyên, là nhất lưu nhân vật trong đám con gái ở cựu viện Tần Hoài.

Mạo Tích Cương dung mạo tuấn mĩ, phong độ tiêu sái, người đời thường gọi là “Mỹ thiếu niên”, trong nhà giàu có thế lực, lại là tài tử phong lưu.
Sau khi Tiểu Uyển vào nhà họ Mạo, trên dưới Mạo gia đối xử với nhau rất thân ái. Mã Cung Nhân (mẹ của Tích Cương) và Tô Nguyên Phương (vợ của Tích Cương) đặc biệt yêu quý Tiểu Uyển, tuy vậy Tiểu Uyển cũng rất cung kính thuận tòng, phục thị hai người như tì nữ.

Lúc nhàn hạ, Tiểu Uyển cùng Tích Cương thường ngồi ở trong phòng vẽ tranh, vung bút vẩy mực, thưởng hoa uống trà, bình luận sơn thuỷ. Tiểu Uyển vào Mạo gia, học theo Chung Diêu thiếp, Tào Nga bia, mỗi ngày viết vài ngàn chữ, không sai không nhầm chữ nào.

Tiểu Uyển còn thay Tích Cương viết tặng chữ lên quạt cho bạn bè thân thích. Trong thời gian ở Tô Châu đó, Tiểu Uyển đã trải qua một thời gian học hội hoạ, có thể vẽ tiểu tùng hàn thụ, bút mực của nàng khiến người người kinh động. Năm nàng 15 tuổi, bức hoạ Thải Điệp Đồ (hiện đang được giữ tại bảo tàng Vô Tích) bên trên có đề từ của Tiểu Uyển, lại có đóng ấn kí, được người đời đánh giá rất cao. Tranh của nàng truyền lại rất ít, bức tranh đó rất may mắn mới tìm được.

Nàng đối với hội hoạ đặc biệt yêu thích, thường thưởng ngoạn những tác phẩm mới hoặc những tác phẩm được lưu giữ trong nhà. Sau này trên đường chạy nạn, Tiểu Uyển thà vứt bỏ hết các đồ hoá trang dụng phẩm nhưng quyết cầm theo những bức thư hoạ.

Mọi người thường khâm phục Tiểu Uyển ở chỗ những thứ nhỏ nhặt nhất trong sinh hoạt hàng ngày của nàng đều lãng mạn mĩ lệ, lại hết sức tình trí. Tiểu Uyển thiên tính đạm bạc, không thích những đồ ngọt và béo. Nàng dùng ấm trà nhỏ để nấu cơm, lại dùng đĩa để đun cách thuỷ đậu và rau, thành một bữa cơm.

Tích Cương thì lại thích những đồ ngọt, đồ biển, đồ khô và đồ nướng. Tiểu Uyển rất hiểu khẩu vị của Tích Cương, nàng thường chế biến cho Tích Cương nhiều mĩ thực tươi thơm ngon miệng, lại ở rất nhiều dạng thức. Như việc chưng cất rượu, khi đổ rượu ra đầy mười chén sứ trắng, chưa cần dùng đến miệng để thử, chỉ cần nhìn ngũ sắc lung linh, hương thơm phiêu hốt của nó cũng đã thấy như được uống rồi. Về phương diện uống trà Tích Cương và Tiểu Uyển rất hợp nhau. Họ thường mỗi người một ấm trà, bên hoa dưới nguyệt mặc mặc đối ẩm, nhẹ nhàng thưởng thức sắc hương của mỗi loại trà.
Tiểu Uyển cũng hay nghiên cứu các loại sách nấu ăn, thường tới những nơi có món lạ, tìm hiểu các phương pháp chế tác đó, rồi dựa vào trí tuệ của bản thân để biến các món thành kiểu của riêng nàng. Ngày nay người ta thường hay ăn thịt hổ, tức Tẩu Du nhục, là do Đổng Tiểu Uyển nghĩ ra, cho nên nó còn được gọi là Đổng nhục, cái tên này tuy nhiên lại đường đột với mỹ nhân nhưng khi kết hợp với Đông Pha nhục lại tương phản thi vị. Hơn nữa, Tiểu Uyển còn biết cách làm ra đường viên, nàng khi ở Tần Hoài đã từng dùng cây vừng sao rang lên, cho đường, hạt tùng, nhân trái đào và cây gai tạo thành những viên đường dài 5 phân, rộng 3 phân, dầy 1 phân, loại đường này ngoài vàng trong xốp, ngọt nhưng không béo, người ta thường gọi là Đổng đường.

Chúng ta thấy trong “Ảnh mai am ức ngữ” miêu tả nghệ thuật nấu ăn của Đổng Tiểu Uyển, tinh trí xảo diệu khiến người ta phảng phất có cảm giác bóng hình của Giang Nam ở trong đó, thấy rõ những thi ý văn hoa trong cuộc sống thường nhật của Giang Nam. Hiện nay có nhiều người coi Đổng Tiểu Uyển cùng Y Doãn, Dịch Nha, Thái Hoà Công, Thiện Tổ, Phạm Chính, Lưu nương tử, Tống ngũ tẩu, Tiêu mỹ nhân, Vương Tiểu Dư là Thập đại danh trù cổ đại.

[center]CỔ MINH SANH[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Cổ Mi Sanh tức Cổ Mị, nguyên người Nam Kinh, “Bản Kiều Tạp Ký” chép: “Cổ Mị tự Mi Sanh, tên Mị, hiệu Hoành Ba, sau đổi là Thiện Trì. Người trang nghiêm tịnh nhã, phong độ siêu quần, tóc mai như mây biếc, hoa đào xấu hổ, lưng ong nhỏ nhắn, eo thon nhẹ nhàng. Thông văn sử, vẽ hoa lan rất khéo, tài ngang với Mã Thủ Chân, nhưng tư dung xem có phần hơn, được tôn xưng là Nam Khúc đệ nhất nhân”. Đủ thấy nàng không những dáng vẻ thùy mị đáng yêu, lại còn đầy đủ văn tài nghệ kỹ.

Trứ danh văn nhân Dư Hoài với Cổ Mi tình thâm nghĩa hậu, nhưng sau, Cổ và Lưu Phương ước hẹn làm phu phụ, không lâu thì bội ước lên kiệu hoa về làm thiếp của một trong Giang Tả Tam Đại gia đã đầu hàng Thanh binh là Cung Đính Sơn. Lưu do đó phẫn uất lấy thân tuẫn tình. Cung được Cổ Mị, cực kỳ sủng ái, nhân thế mới đặt hiệu là Thiện Đặc, về sau lấy Cổ làm thê, quan phong đến hàng nhất phẩm. Cung lúc đó là Thanh triều Lễ bộ Thượng thư, được tứ phương danh sĩ tại kinh sư kính ngưỡng trọng vọng, phàm có khách tới cầu Cung về thi thư họa, thảy đều do Cổ Mị đại bút, thanh danh tài khí của nàng càng thêm thịnh. Cổ thị bèn lợi dụng địa vị chính trị của Cung, đối với kháng Thanh chí sĩ khẳng khái chu cấp giúp đỡ.

Năm 1657, Cung đem Cổ Mị du ngoạn Kim Lăng, trọ lại bên bờ sông Tần Hoài trong khu hoa viên gần Đại Du phường. Có một ngày, nàng đưa cho Cung một bài thơ, đại ý nói nàng ở Văn Đức kiều gặp Diêm Nhĩ Mai trong bộ y phục hòa thượng. Cung ấm ớ giật mình. Nguyên lai Diêm là Cử nhân của Bái huyện, lúc Thanh binh xuôi nam thì ông ta ở Từ Châu khuyên Sử Khả Pháp suất lĩnh ba quân ngược bắc lên Sơn Đông ngăn lại, những năm đó ông ta lưu lạc khắp nơi cổ xúy phản Thanh phục Minh, bị Thanh triều truy lùng. Cung bắt được tin đồn rằng Diêm Nhĩ Mai ẩn náu đâu đó trong khuôn viên thôn đường, lần này cho Thanh quân tứ bề bao vây đen kịt, may nhờ Cổ Mị cơ trí bảo hộ, che đậy cho Diêm cuối cùng được thoát hiểm. Đại tài tử Viên Mai tán thưởng: “Lễ hiền ái sĩ, hiệp nội tuấn tằng.”

Cuối thu năm 1664, ngõ phố Thiết Sư Tử tại Bắc Kinh, Cổ Mị trong Cung phủ ngọa bệnh mà mất. Số xe điếu tang ước lượng trăm chiếc, xa xôi tận Giang Nam có Diêm Nhĩ Mai, Liễu Kính Đình, Dư Hoài nơi An Huy (Lư châu), vì nàng mà khai điếu thiết tế. Cung về lại Trường Bổng tự ở Bắc Kinh cất Diệu Quang các, tập hợp những mẩu chuyện làm thành “Bạch Môn Liễu Truyền Kỳ” lưu truyền hậu thế.

[center]BIỆN NGỌC KINH[/center]

[center]Hình ảnh[/center]

Biện Ngọc Kinh tên Tái, có hiệu là “Ngọc Kinh đạo nhân”, thường gọi là Ngọc Kinh. Nàng vốn xuất thân từ người làm trong nhà quan lại, tỷ muội có hai người, bởi vì cha mất sớm nên phải luân lạc làm ca kỹ, Biện Tái thi cầm thư hoạ không gì không biết, lại thông văn sử. Nàng tinh thông cả hội hoạ, múa bút như mây trôi, “Nhất lạc bút tẫn thập dư chỉ”.

Mười tám tuổi qua Ngô môn tại Hổ Khâu, nằm ở giữa Tần Hoài và Tô Châu, là ca kỹ nổi danh thời Minh mạt Thanh sơ. Biện Tái thường đối xử với khách nhân không được tốt, nhưng khi gặp được giai nhân tri âm thì lại nói chuyện như mây, khiến người khuynh đảo. Biện Tái từng cùng với thi nhân thời Minh mạt Thanh sơ là Ngô Mai Thôn trải qua một đoạn nhân duyên.

Mùa xuân năm Sùng Trinh thứ 14, tại Thắng Sở lâu bên ngoài cửa tây thành Nam Kinh, Ngô Mai Thôn đưa tiễn anh trai mình là Ngô Chí Diễn đi nhậm chức tri phủ Thành Đô thì gặp tỷ muội Biện Tái, nhìn thấy vẻ cao quý thoát tục lại có phần ưu uất của Biện Tái, nhớ tới hai câu thơ nổi tiếng của đất Giang Nam: “Tửu lư tầm Biện Tái. Hoa để xuất Trần Viên.”

Bởi vậy họ Ngô bèn thử thí văn tài của Biện Tái, rồi xiêu lòng vì nàng, từ đó hai người qua lại thường xuyên, cảm tình rất thâm sâu.

Sau này Ngô ở Trường Kiền nhận được một bức thư của Biện Tái, biết rằng nàng sẽ gả cho mình, tâm lí rất mâu thuẫn. Nguyên lai y nghe được tin tức, anh trai của Điền thị - sủng phi của Sùng Trình đế là Điền Uyển sắp tới Kim Lăng để tuyển phi, lại nhìn trúng Trần Viên Viên và Biện Tái. Họ Ngô sợ hãi trước quyền thế, chỉ còn biết đứng trước chỗ ở của Biện Tái mà thổi vài khúc nhạc rồi lặng lẽ bỏ đi.

Qua hai năm, Biện Tái tuy lấy một vị khanh hầu nhưng không được vui vẻ, bèn dắt thị nữ là Nhu Nhu ra đi, tự mình xuống tóc khuất thân, trở thành nữ đạo sĩ ở Tô Châu, nương nhờ vị danh y Trịnh Bảo Ngữ đã ngoài 70 tuổi, ông lại xây cho một biệt viện tại đây.

Biện Tái chay trường thờ Phật, giữ giới luật rất nghiêm, vì báo ân của Trịnh thị dùng 3 năm thời gian viết xong cuốn “Pháp Hoa Kinh” bằng máu.
Lúc này Ngô Mai Thôn đang làm quan cho Thanh triều, tinh thần bi thương suy tàn.

Một ngày vào năm Thuận Trị thứ 7, Biện Tái tình cờ nhìn thấy “Cầm Hà Cảm Cựu” bốn bài thơ của họ Ngô, biết y đối với mình vẫn còn tơ lòng.
Vài tháng sau hai người cuối cùng cũng gặp lại nhau tại Thái Thương, Biện Tái chơi lại khúc nhạc của Ngô, khiến y cảm hoài bất ức, viết ra “Thính nữ đạo sĩ Biện Ngọc Kinh đàn cầm ca” làm quà, trong thơ viết lại tình cảnh của Biện Tái trong 10 năm qua, lại có nhắc cả việc quân Thanh hạ Giang Nam, Ngọc Kinh “Huyền tác lãnh vô thanh”, một trường thê lương sầu khổ.

Biện Tái sau này ẩn cư không còn tung tích ở Huệ Sơn, hơn mười năm sau thì mất vì lâm bệnh, được táng bên cạnh một gốc cây trong am.
[right]Sưu tầm[/right]
[center]Thực tắc hư chi, hư tắc thực chi, hư thực tương sinh[/center]
[center]...¹ş†·Åģαιη....[/center]
Hình đại diện của thành viên
Lovevietnam_vn
 
Bài viết: 84
Ngày tham gia: Thứ 6 25/09/09 12:49
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần


Quay về Văn hóa Trung Quốc và Đông Bắc Á

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến3 khách

cron