iI. QUAN NIỆM CHUNG VỀ LINH HỒN
Người Đông Nam Á quan niệm rằng mọi thứ đều có linh hồn (vạn vật hữu linh), mà người Melanesia và Polynesia gọi là mana. Nó có thể nằm trong con người, con vật, cây cối và những vật vô cơ như đất, đá, nước, lửa… cả những vật do con người tạo ra như xe, chum vại…
Ở một số dân tộc Đông Nam Á, linh hồn con người được gọi là :
Thailand, Laos, Shan: Khuẩn
Miến: Leip Bya
Cambodia: Pralung
Việt: hồn, vía
Malaysia: Semangat
Từ thuyết vạn vật hữu linh, có thể nói một cách đơn giản quan niệm về linh hồn của người Đông Nam Á như sau :
Người sống có đủ hai phần: linh hồn và thể xác.
Người chết: linh hồn đã lìa khỏi thể xác
Linh hồn quyết định sự sống của con người, nếu người chết, các hồn đều biến thành ma (Việt) hay Phỉ (Thailand, Laos)...
Số lượng linh hồn ở con người tùy thuộc vào quan niệm của các dân tộc:
Người Thailand cho rằng có 120 hồn.
Người Mường cho rằng có 90 hồn
Người Khmer thì cho con người có 9 hồn chính
Các dân tộc miền núi Mindanao (Philippines) cho rằng con người có hai hồn chính: hồn trái và hồn phải. Con người qua đời: hồn trái thành ma ác, hồn phải thành ma lành.
Sau khi con người chết, các linh hồn đến thế giới người chết là một bản - làng bị chia cắt với thế giới người sống bởi sông sâu, biển rộng hoặc lên các tầng trời, nói cách khác là thế giới bên kia – có thể giống hoặc khác thế giới người sống, nhưng cơ bản là một thế giới được tưởng tượng cao hơn dựa trên thế giới thực.
Linh hồn tổ tiên đã mất có quyền năng trừng phạt và phù hộ con cháu, vì thế mà xuất hiện tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Có hai ý niệm trong việc thờ cúng :
Chết không phải là hết. Người đã chết vẫn có mối quan hệ gần gũi mật thiết với người thân còn sống. Phải thờ cúng để tổ tiên phù hộ và không quấy phá con cháu.
Uống nước nhớ nguồn, thờ cúng những người đã khuất để tỏ lòng tưởng nhớ công ơn sinh thành
II. CÁCH ỨNG XỬ VỚI LINH HỒN
Từ hai quan niệm trên dẫn đến những cách ứng xử khác nhau với linh hồn người đã khuất, mang hai tính chất chủ yếu là : kính trọng và sợ hãi.
1. Kính trọng:
Gắn liền với những nghi lễ thờ cúng mang đậm tính nhân văn tạo nhiều nét văn hóa tốt đẹp ở Đông Nam Á. Chủ yếu đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, những vị anh hùng dân tộc, những người khai sáng đất nước…Các hình thức này cho đến nay vẫn rất phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi, không chỉ riêng Đông Nam Á. Một điều dễ thấy là, về khía cạnh nể trọng này, thái độ của mọi nền văn hóa hầu như không khác nhau là mấy, tuy hình thức biểu hiện có thể khác nhau, nhất là giữa phương Đông và phương Tây. Tuy phương Tây không phổ biến tục thờ cúng tổ tiên nhưng thái độ kính trọng của họ đối với tổ tiên dòng họ khá giống người phương Đông, biểu hiện qua việc bảo vệ danh dự cho dòng họ mà ta có thể dễ dàng lấy dẫn chứng trong các gia đình hiệp sĩ quý tộc thời trung cổ.
Ví dụ:
Để minh chứng cho sự kính trọng với linh hồn tổ tiên – người chết xin lấy ngày lễ báo hiếu / lễ xá tội vong nhân / Lễ Vu Lan làm ví dụ. Mặc dù lễ Vu Lan xuất phát từ Phật Giáo - Ấn Độ dành riêng cho tăng ni - phật tử, nhưng ở Đông Nam Á ngày lễ này đã kết hợp với tín ngưỡng bản địa – tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên – nên đã mang tính đại chúng, tạo nên một nét đặc sắc cho văn hóa Đông Nam Á, nhất là các quốc gia người dân phần lớn theo đạo Phật như Thái Lan, Lào, Campuchia hay Việt Nam. Lễ Vu Lan diễn ra cuối mùa An cư kiết hạ, chính thức là rằm tháng 7.
Ở Việt Nam, lễ Vu Lan người ta tục cúng dường để độ rỗi vong linh gia tiên đang đói khát ở chốn âm ty, đồng thời người ta cũng cúng tế thực phẩm và đốt y phục giấy cho vong linh của thân nhân. Trong ngày này, người ta cũng cúng cháo lá đa, đốt giấy tiền vàng mã cho những linh hồn cô độc không con cháu…
Người Khmer ở Nam Bộ đặc biệt có lễ báo hiếu riêng theo tín ngưỡng bản địa là Lễ Đôl-Ta được tiến hành trong vòng 16 ngày kể từ ngày 16 đến ngày 30 tháng Bhaddapada (Phăt tăk bot, tương đương tháng 8 âm lịch). Người dân đem hoa quả, gạo nếp… đến cúng ở chùa cúng Phật và cho các vị sư. Sau đó đem vật cúng nhiễu ba vòng và bỏ cơm nếp ấy vào trên sàn những túp lều nhỏ được dựng lên 8 hướng chung quanh điện Phật. Họ nhiễu Phật, rải cơm nếp chỉ vào lúc trời chưa sáng lắm vì cho rằng nếu để trời sáng thì hình dáng ma quỷ, miệng ma quỷ thuộc người thân của họ sẽ biến nhỏ đi bởi ánh sáng dương gian. Buổi tối dân chúng đến chùa thỉnh tăng tụng kinh chúc lành, cầu an, nghe thuyết pháp giảng đạo... Để rồi công đức do tụng kinh nghe pháp ấy hồi hướng cho người đã quá cố, giúp họ chuộc tội lỗi và siêu thoát.
2. Sợ hãi:
Gắn liền với sự thờ cúng nhưng hình thức quan trọng hơn là sử dụng các loại bùa ngải, ma thuật trấn - yểm nhằm lợi dụng sức mạnh của linh hồn hay ngăn không cho linh hồn tác quái… nhiều khi rất tàn bạo và man rợ. Đi kèm với chúng thường là các hình thức hiến tế, nhiều khi vượt ngoài sức tưởng tượng, cao nhất là việc hiến tế người, và việc hiến tế ra sao còn tùy tôn giáo và tín ngưỡng của mỗi nền văn hóa. Về phương diện này, ma thuật và bùa chú là sự thể hiện tín ngưỡng đến mức cực đoan và nghiêng về phía tâm linh nhiều hơn.
Ví dụ:
Người xưa rất rất tin vào bùa chú. Họ cho rằng chúng có pháp thuật trừ ma, đuổi qủy, làm mê hoặc người khác. Có một số loại bùa của người Khmer ở An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh thuộc vùng Tây Nam Bộ như:
Xâm bùa trên thân thể: Họ dùng mũi kim cắm ở cán gỗ, xâm lên người từ độ tuổi vị thành niên những chữ Phạn và hình thần Bà la môn. Vị trí xâm thường ở cùi chỏ, đầu gối, bả vai để bảo vệ khỏi gãy xương, bị đòn không biết đau.
Cho bùa trên khăn, trên vải: Vẻ trên khăn tay để bỏ túi, trên vải bằng chiếc khăn quấn cổ và trên áo lót. Dùng vải trắng nhuộm màu xanh lá, người mặc áo hay giữ khăn bùa khi đi làm ăn thì gặp vận may, lúc về nhà xếp lại để trên bàn thờ, hằng tháng phải cúng lạy vào ngày 8 và 15.
Viết trên giấy: Đây là loại bùa phổ biến nhất. Bùa còn được viết trên giấy vàng xếp nhỏ lại trong bọc vải, kết với hai đầu dây ngũ sắc se lại, đeo trên cổ như dây chuyền (thường cùng cho trẻ con) có tác dụng cầu bình an, chống lại ma quỷ. Loại bùa này có khi được đốt lên lấy tro pha với “nước thánh” để uống chữa bệnh.
Bùa bằng kim loại vàng, bạc, đồng…: là những vật nhỏ để đeo, có hình dáng những con vật, đồ vật linh thiêng. Tác bảo vệ linh hồn chống những thế lực siêu nhiên như ma quỷ, linh hồn tà ác.
Ngoài bùa chú, còn có các loại ngải. Ngải so với bùa thì mạnh bạo, nhạy bén hơn nhưng về độ bền thì không như bùa. Những chuyện gì cần giải quyết cấp tốc, hiển hiện trước mắt thì dùng ngải! Nhưng phải học bùa thì mới có thể luyện ngải. Người ta cần bùa chú để triệu ngải về, mời ngải ăn (cúng ngải), không cho ngải đi bậy, sai khiến ngải đều phải qua phù chú của pháp sư. Ngải không phân biệt thiện - ác nên tốt - xấu là tùy thuộc vào cách sử dụng của người luyện. Có 2 cách luyện ngải như sau:
Ngải chậu là cây ngải tươi hay bụi ngải tươi được bứng từ rừng về hoặc được gây giống ra mà trồng ở trong chậu để luyện.
Ngải khô là củ ngải đã đào lên từ bụi ngải trong rừng, trên núi hay trong chậu rồi đem phơi sương, nắng cho thọ khí âm dương sau 3 ngày thì đem vô nhà cúng và luyện.
Nhưng trong nhiều trường hợp, những nghi lễ vừa mang tính kính trọng vừa mang tính sợ hãi, nhất là trong các nghi thức ma thuật bùa chú. Về cơ bản, con người luôn luôn vừa kính trọng vừa sợ hãi những thứ mà trong thế giới thực không tài nào giải thích được, người ta có sợ hãi cái không xác định được mới nảy sinh các hình thức cúng kiếng, từ đó sinh ra các ý niệm khác như lợi dụng nó, thờ cúng nó,… Sự biểu hiện các ý niệm này đồng thời cũng thể hiện bản chất của các nền văn hóa.
III. BẢN CHẤT VĂN HÓA THỂ HIỆN QUA QUAN NIỆM VỀ LINH HỒN
Bất cứ một sự biểu hiện quan niệm về một phong tục tập quán hay một tín ngưỡng nào đều thể hiện bản chất của nền văn hóa chứa nó. Nói cách khác, đó chính là cái tạo nên bản sắc văn hóa, khu biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác, thể hiện sự đa dạng văn hóa.
Quan niệm về linh hồn, vì vậy cũng thể hiện bản chất văn hóa, hay nói đúng hơn, quan niệm về linh hồn của một dân tộc thể hiện văn hóa tiếp nhận qua thái độ của họ đối với những thứ được gọi là linh hồn đó.
Từ đây, ta phải hiểu, khái niệm linh hồn đối với người Đông Nam Á là gì? Như trên đã nói, ngoài việc xem nó là sự tồn tại đằng sau mọi vỏ bọc của vạn vật, từ những thứ gần gũi đến những thứ xa với, cái hữu tri và vô tri, linh hồn, về cơ bản là sự nhận thức thế giới sơ khai, khoa học không chấp nhận nó nhưng tâm linh thừa nhận nó, với niềm tin vào sức mạnh của một quyền lực không được biết tới nhưng vẫn tồn tại trong thế giới chúng ta. Nói rõ ràng hơn nữa, quan niệm về linh hồn thể hiện thái độ tiếp nhận cái chưa biết của một nền văn hóa. Cái đối lập trong thái độ thể hiện của người Đông Nam Á đồng thời thể hiện tư duy lưỡng phân lưỡng hợp của họ.
Vừa kính trọng vừa sợ hãi đối với “linh hồn” là một thái độ logic của con người đối với những điều mình vẫn chưa biết, và phải chấp nhận nó bằng các hình thức thờ cúng, ma thuật như một cách củng cố niềm tin và giảm thiểu nỗi sợ hãi của mình, điều này ta có thể thấy rõ trong tôn giáo – với sự đối lập giữa thiên đàng và địa ngục. Trong nền văn hóa thực nghiệm phương Tây, thái độ của họ đối với những điều chưa khám phá có phần tự nhiên và mạo hiểm hơn nền văn hóa tâm linh phương Đông, và cũng rõ ràng hơn so với phương Đông – thể hiện qua quan niệm rất rõ ràng trong cái thiện và cái ác của “linh hồn” – tức ma quỷ và thần thánh.
Ngay cả trong các nền văn hóa phương Đông, thái độ này cũng có phần khác nhau. Ta có thể lấy ví dụ trong các câu chuyện của các nước.
Ở Nhật, trong các câu chuyện dân gian thần thoại cổ, hình tượng của quỷ ( Quỷ Đỏ tốt bụng, Cái quần đùi của quỷ… ) lúc ban đầu luôn luôn là bị xa lánh và khinh ghét bởi sự sợ hãi cái khác biệt của người Nhật. Thực chất, các hình tượng quỷ thường lấy từ hình mẫu của những người ngoại quốc cao lớn tóc vàng mắt xanh tóc quăn, điều này thể hiện sự sợ hãi xen lẫn một chút giễu cợt của người nước này đối với những điều chưa biết, cái mới lạ và đồng thời cả sự đoàn kết của họ, nhưng cũng thể hiện sự dè dặt cẩn trọng của họ đối với những điều đó. Ban đầu họ e sợ quỷ Đỏ nhưng sau đó đã chấp nhận người bạn này vào cộng đồng nhờ sự xuất hiện của quỷ Xanh. Hình tượng của con quỷ trong Cái quần đùi của quỷ lại là một sự giễu cợt hoàn toàn. Cho đến bây giờ, con lai hay nói đúng hơn, những người có ngoại hình khác biệt ( nhất là trong thế giới trẻ con ) cũng bị xa lánh, tẩy chay hay chịu sự khinh rẻ của người bản địa, tuy thái độ này giờ đã nhạt đi rất nhiều.
Trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, hình tượng hồ li yêu quái hay ma quỷ tuy mang sức mạnh siêu hình nhưng vẫn có nhưng tâm tính không khác gì con người, chỉ khác là những tính cách đó phần nào được cực đoan hóa hơn so với nhân tính. Đồng thời trong thế giới siêu hình đó, các yếu tố cũng kiểm soát lẫn nhau như một xã hội khác có những luật lệ riêng của mình, mà thường là phiên bản khác của thế giới con người, chẳng hạn như con người sợ ma thì ma sợ mị. Đây cũng là tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trong tư tưởng sẵn sàng chấp nhận những điều chưa biết thì cùng lúc người Trung Quốc cũng sợ hãi nó. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy ước muốn muốn khám phá của họ mạnh hơn so với sự sợ hãi.
Như vậy, từ các câu chuyện, ít nhiều ta cũng nhận thấy được nền văn hóa Nhật Bản là một nền văn hóa tỉ mỉ và cẩn trọng nhưng đồng thời cũng không khép kín hoàn toàn đối với những yếu tố cần học hỏi, tiếp nhận. Trung Quốc thì phức tạp hơn bởi tư duy của họ đi theo nhiều hướng, tuy nhiên ta có thể thấy văn hóa Trung Hoa tuy chấp nhận cái mới nhưng cũng không dễ bị mất đi cái cũ. Về phương diện này thì Trung Hoa không khác gì nhiều so với Đông Nam Á, một nền văn hóa mở nhưng không phải bạ đâu là vơ đấy. Hòa nhập nhưng không hòa tan. Về cơ bản, nền văn hóa Đông Nam Á là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
[right]thực hiện: Đỗ Uyên - Dược Thảo[/right]