NHỮNG VẤN ĐỀ SUY TƯ PHƯƠNG ĐÔNG

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về quan hệ văn hóa Đông - Tây

NHỮNG VẤN ĐỀ SUY TƯ PHƯƠNG ĐÔNG

Gửi bàigửi bởi sinan » Thứ 5 29/11/07 0:35

Những vấn đề về tư duy phương Đông



Jean-François Dortier



Người ta thường đồng nhất tư duy phương Đông với tinh thần truyền thống từ tổ tiên để lại, tập trung ở minh triết, nhận thức về ngã và không kham được tư duy duy lý tiêu biểu cho phương Tây. Thật ra là thế nào?

Ngày 5-10-1989, ở New Port Beach (Hoa Kỳ), một cuộc gặp gỡ được tổ chức giữa Đức Dalai Lama và các nhà nghiên cứu phương Tây (các nhà triết học, tâm lý học, thần kinh học) chung quanh đề tài các khoa học tinh thần (1). Cuộc họp chưa bắt đầu thì người ta biết tin Giải Nobel Hòa bình được trao tặng cho ngài Dalai Lama. Vẻ nhã nhặn, nụ cười luôn luôn trên môi và rõ ràng là tách khỏi mọi vẻ sôi nổi bên ngoài, Dalai Lama không muốn hoãn lại cuộc gặp đã dự định. Hôm đó, các cuộc tranh luận hướng tới bản chất của ý thức, ký ức, cái ngã và phương pháp khoa học. Vượt ra khỏi nội dung của nó, cuộc gặp này thật thú vị. Nó trình bày hai thế giới quan, hai truyền thống tư duy, hai vũ trụ tinh thần.

Một bên, khoa học phương Tây được các nhà khoa học và triết học trình bày. Phần lớn đều là những người duy vật. Họ bàn tới tinh thần con người bằng những cấu trúc và những chức năng não; bên kia, Dalai Lama trình bày tinh thần phương Đông nói về cái Ngã, về những trạng thái ý thức khác nhau, về kinh nghiệm của các cuộc đời trước kia. Một bên, lý trí, khoa học, thực nghiệm, những bằng chứng khoa học; bên kia, minh triết, suy tưởng, trải nghiệm về các trạng thái ý thức...

Đó là cái cách mà người phương Tây thích tự trình bày về tư duy phương Đông. Một cách nhìn được tổ chức chung quanh một vài ý tưởng chủ đạo. Có lẽ phương Đông đã phát triển các minh triết (như Phật giáo hay ấn Độ giáo) hơn là các triết thuyết hay các khoa học. Nếu tin vào Friedrich Hegel, Edmund Husserl, Martin Heidegger, thì tư duy lý tính đã ra đời ở Hy Lạp và phát triển ở châu Âu vào thế kỷ Khai sáng mà không phát triển ở phương Đông. Tư duy phương Đông đã bỏ lại các hệ thống triết học, các triết học, để đi vào các kỹ thuật tinh thần dựa vào cuộc sống bên trong.

Từ sự trình bày này về phương Đông đã làm nảy sinh một thái độ pha trộn sự hạ cố và sự quyến rũ.

Hạ cố vì phương Đông bị coi là chưa đạt tới tuổi lý trí. Quyến rũ đối với những kỹ thuật tinh thần và những từ thần diệu - thiền (2), yoga (3), Đạo, nirvana (4),.v.v... cũng như những hứa hẹn về hài hòa, thanh thản và cân bằng nội tâm.

Phải đợi đến nửa sau thế kỷ XX, các nhà sử học về các khoa học và triết học mới đề xướng một cách nhìn mới về các trật tự sự vật này. Không những châu á giàu có về một khối triết học - hùng vĩ và rất tinh tế - được ghép với những minh triết truyền thống, mà các nhà khoa học và kỹ thuật ở đó cũng có một vị trí quan trọng. Nhưng trước tiên, ta hãy trở về với những gốc rễ của tư duy phương Đông ấy.

Các tinh thần lớn của phương Đông là những gì?

Đối với người phương Tây, ngay từ thời Cổ, từ “phương Đông” chỉ tất cả những gì nằm ở phía đông. Về mặt địa lý, nó bao trùm cả Viễn Đông, Trung Đông và Trung á. Vào thế kỷ XIX, “Đông phương học” chỉ một phong trào vừa văn học vừa hội họa, đặc biệt hướng tới kỷ nguyên Hồi giáo.

Trong lĩnh vực lịch sử của những ý tưởng và khoa học nhân văn, thì “Đông phương học” lại đi theo một hướng hoàn toàn khác: nó chỉ sự nghiên cứu ngôn ngữ và các văn hóa châu á. Chính trên cơ sở này, bộ môn khoa học đông phương và những thể chế gắn liền với nó đã được xây dựng. Cuối cùng, chỉ mới gần đây thôi, thuật ngữ “tư duy phương Đông” mới xuất hiện để chủ yếu chỉ những tinh thần ra đời ở châu á: ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo, Thần đạo và nhiều nhánh của chúng. ấn Độ là cái nôi của hai hệ thống triết học - tôn giáo lớn: ấn Độ giáo và Phật giáo. Trên thực tế, ấn Độ giáo tương ứng với một khối lượng văn bản và tín ngưỡng rộng lớn, trải dài ba nghìn năm và trải rộng ra cả một tiểu lục địa. Từ “hindou” do người Hồi giáo đặt ra và được người phương Tây lấy lại ở thế kỷ XIX để chỉ đạo Veda, đạo Brahman, đạo Tantra, đạo Jaina (5). Phật giáo là tinh thần lớn thứ hai xuất hiện ở ấn Độ vào thế kỷ V trước C.N. Khác với ấn Độ giáo vẫn còn bị giam hãm vào quê hương nó, Phật giáo được truyền bá khắp châu á. Nó mang rất nhiều hình thức: Phật giáo Tiểu Thừa và Đại Thừa, Phật giáo Mật tông, Tây Tạng (đạo Lama), thiền Nhật Bản,.v.v...

Trung Quốc, một lưu vực văn minh khác, cũng là cái nôi của hai tinh thần triết học - tôn giáo lớn: Khổng giáo và Đạo giáo. Cả hai đều nảy sinh vào khoảng thế kỷ V trước C.N và bắt nguồn từ những thuyết giáo của hai bậc thầy tư tưởng: Khổng tử và Lão tử (sự tồn tại của Lão tử có lẽ là truyền thuyết).

Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo (sau khi du nhập vào Trung Quốc) trong nhiều thế kỷ sau đó tạo thành “ba con đường” của tinh thần Trung Quốc. Ngoài ra có những tinh thần khác cũng ra đời ở phương Đông: Thần đạo và đạo Jaina. Phật giáo, Khổng giáo và Đạo giáo mỗi đạo còn chia nhỏ thành nhiều trào lưu đã được phát triển trong tiến trình lịch sử. Trên những gốc thần bí - tôn giáo ấy, các hệ thống triết học tinh vi (do những bình giải về các văn bản thiêng liêng tạo ra) đã được ghép vào.

Chính tập hợp nhiều thành tố của những học thuyết trộn lẫn minh triết, tín ngưỡng tôn giáo, huyền thoại và triết học ấy nói chung được người ta gọi là tư tưởng phương Đông.
Sin Ân
Hình đại diện của thành viên
sinan
 
Bài viết: 193
Ngày tham gia: Thứ 2 21/05/07 20:40
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

AN DO SUY NGHI VE CAI GI

Gửi bàigửi bởi sinan » Thứ 6 30/11/07 15:11

ấn Độ suy nghĩ về cái gì?

ở những nguồn gốc của cái được người phương Tây gọi là ấn Độ giáo, có tôn giáo Veda (6), được các dân Ân-Âu du nhập từ - 1800 đến -1200 trước C.N. Các dân ấn-aryen ấy đã chinh phục Bắc ấn Độ bằng những làn sóng liên tiếp và đã áp đặt lên đó hệ thống đẳng cấp, tiếng sanscrit và tôn giáo Veda.

Tên gọi tôn giáo Veda lấy từ bốn tổ hợp văn bản nghi thức: các Veda là những sưu tập gồm hàng nghìn thánh ca, lời cầu nguyện, những thể thức hiến tế hay những giai điệu nghi thức. Những thể thức này đi kèm theo nhiều lễ hiến tế và lễ vật dâng lên các thần để được ban ân huệ. Trên thực tế, tôn giáo Veda là một tôn giáo hiến tế nhằm sùng kính những sức mạnh tự nhiên là nơi trú ngụ của các vị thần thường mang hình thức linh hồn - động vật.

Trong số những văn bản khác của đạo Veda, có các Upanishad (hay các “cách tiếp cận”), những văn bản ra đời muộn hơn (được soạn từ thế kỷ V trước C.N, gồm nhiều triển khai triết học hay siêu hình. Sau đó, đạo Veda tiến triển tới ấn Độ giáo cổ điển (hay đạo bà la môn) vào các thế kỷ V-III trước C.N.

Từ những thế kỷ đầu C.N, các văn bản thiêng của ấn Độ giáo đẻ ra vô số chú giải bằng những bình giải và lý giải, trừu tượng hơn và mang tính khái niệm hơn. Những chú giải này tạo thành nền tảng của triết học cổ điển ấn Độ mà ở phương Tây không được biết tới một thời gian dài, để sau đó trở thành đối tượng của một sự khám phá lại (7).

Một trong những thời điểm lớn của tư tưởng ấn Độ tương ứng với thời Đế chế Gupta (vào thế kỷ V). Đó là “thế kỷ Khai sáng” của ấn Độ cổ điển, đã thiết lập và điển hóa sáu darshanas hay “quan điểm” về thế giới. Mỗi quan điểm này tương ứng với một trường phái học thuật mà cũng là một chuyên khoa lý thuyết. Chẳng hạn, Nyâya là một môn học hướng tới lôgic và lập luận. Còn Vedânta là một sự phát triển học thuật về bản chất của Brahmâ. Đại diện nổi tiếng nhất của nó là Shankara, sống ở thế kỷ VIII và được coi là nhà triết học lớn nhất của ấn Độ. Trong sáu “quan điểm” ấy cũng có cả yoga.

Về phía mình, Phật giáo thoát thai từ sự khải thị của Phật, ra đời ở thế kỷ V ở đồng bằng sông Hằng. Nó cũng có nhiều bộ mặt và được truyền bá ra cả châu á trong sự biến đổi và chia nhỏ của nó: đạo Tantra (Mật tông), các thứ Phật giáo Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản... với rất nhiều trường phái. Nó còn được triển khai dưới những hình thức khác nhau: từ tôn giáo dân gian với những truyền thuyết và nghi thức tôn giáo của nó, đến những thực hành tâm linh cho những giáo sĩ thần bí, qua những tư biện triết học về thời gian, ý thức...
Jean-François Dortier



Trung Phương dịch từ tiếng Pháp
Sin Ân
Hình đại diện của thành viên
sinan
 
Bài viết: 193
Ngày tham gia: Thứ 2 21/05/07 20:40
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

NHỮNG NÉT CHUNG CỦA CÁC HỆ TƯ TƯỞNG, TÔN GIÁO VÀ TRIẾT PHÁI

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 6 30/11/07 21:31

[center]NHỮNG NÉT CHUNG CỦA CÁC HỆ TƯ TƯỞNG,
TÔN GIÁO VÀ TRIẾT PHÁI Ở ẤN ĐỘ
[/center]
[center]Minh Chi[/center]

[justify]Nếu chúng ta không kể triết phái duy vật Carvaka, thì các tôn giáo, hệ tư tưởng và triết phái ở Ấn Độ, kể chính thống và phi chính thống đều mang những nét chung khá rõ nét.
Những nét chung đó tập trung vào một điểm là mục đích và biện pháp giải thoát ra khỏi cuộc sống hạn chế và đau khổ.
Nét chung thứ nhất là thuyết nghiệp (Karma), theo đó thì mọi hành động của con người, tùy theo thiện hay ác đều để lại một tiềm lực gây cho đương sự quả báo khổ hay vui trong tương lai. Đó là quy luật nhân quả nghiệp báo, mà ở Việt Nam, chúng ta thấy thể hiện trong những câu dân gian như gieo gió gặp bão, ở hiền gặp lành v.v... Đó cũng là quy luật đạo đức bất khả kháng gọi là Rta ở Ấn Độ cổ đại, và vị Thần trong sách Veda trong nom luật này là Varuna.
Liên hệ với thuyết nhân quả nghiệp báo là quan điểm cho rằng, mọi hành động thiện hay ác đều phải cần một thời gian nhất định mới chín mùi và đem lại quả báo. Và thời gian đó có thể là một đời hay là nhiều đời. Chỉ có những hành động cực ác hay cực thiện mới đem lại quả báo nhãn tiền ngay trong đời này, gọi là hiện báo. Phần lớn những hành động làm trong đời này đều chín mùi và đem lại quả báo trong đời sau, gọi là sanh báo. Lại có những hành động đem lại quả báo trong những đời sau nữa gọi là hậu báo.
Hơn nữa, hành động cực thiện hay cực ác lại không phải do ở hình thức của hành động mà do ở ý nghiệp, tức là cái tâm của đương sự là tâm cực ác hay là cực thiện. Hay là nói như Nguyễn Du:
“Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
Những người hành động với tâm xả chân chính hay là những người tu thiền đích thực sẽ không còn tạo ra nghiệp mới nữa. Họ ung dung hưởng thụ quả báo thiện lành do những nghiệp nhân đã làm từ trước.
Đối với những bậc đã thành tựu giác ngộ chân chính, thì lập tức mọi nghiệp nhân tạo ra trước đây đều bị hủy hoại, không chút dư tàn. Đó là những vị đã chứng được quả Phật, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật hay là các vị Bồ Tát từ thất địa trở lên.
Những người theo đạo Jain tin rằng, hành động nơi ý nghĩ, lời nói và thân tạo ra một loại vật chất tế nhị gọi là karma, loại vật chết tế nhị này bao vây linh hồn của đương sự và linh hồn đó, vì còn có dục vọng nên cũng thu hút loại vật chất tế nhị này, nó như một cái áo, từng từng lớp lớp bao bọc linh hồn cho nên có danh từ karmasarira, nghĩa là cái thân karma.
Triết lý giải thoát của đạo Jain là trừ bỏ dục vọng, để linh hồn không còn hút thêm karma nữa, đồng thời thực hành nếp sống khổ hạnh để giảm bớt tiến tới tiêu diệt karma hiện hữu. Khi karma hiện hữu bị triệt tiêu hết rồi, và karma mới cũng không được tạo ra nữa, thì hành giả sẽ được giải thoát và trở thành bậc Thánh, siêu thăng lên cõi Trời cao nhất, là cõi sống của các bậc Thánh. Điều lạ là sách của đạo Jain nói tới màu sắc trắng, đen v.v... của các loại vật chất karma bao bọc linh hồn, và tạo ra cái gọi là nhân cách của con người đó. Thuyết marma, hình dung như một loại vật chất tế nhị, hao hao giống thuyết của thiền Phật giáo Tây Tạng, cho rằng, bao bọc cái thân vật chất thấy được của con người, còn có một cái thân tế nhị,không thấy được, cấu tạo bằng hành vi, lời nói, ý nghĩ của người đương sự (Xem cuốn “Gesture Of Balance” của Tulku Tarthang, trang 56).
2. Thuyết Mukti tức là giải thoát.
Không những các tôn giáo và triết phái Ấn Độ thống nhất với nhau về nguyên nhân dẫn tới thân phận đau khổ của con người là nghiệp (karma), mà còn thống nhất nhau ở quan điểm chung là cuộc sống đau khổ trở đi trở lại đó trong vòng sinh tử luân hồi có ngày chấm dứt. Đó là giải thoát. Sự giải thoát không cần tìm ở đâu xa, mà chính ở trong bản thân chúng ta, bằng cách triệt tiêu mọi hành vi tạo nghiệp, lôi cuốn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi. Các tư tưởng gia Ấn Độ cổ đại tin rằng cái Ta chân thực là cái ta giải thoát, nó không dính dáng gì, và cũng không bị ô nhiễm bởi gió bụi của cuộc sống đời trần tục.
Trong các thơ thiền Việt Nam đời Lý-Trần, thường có ảnh dụ hoa sen trong lò lửa, nhưng vẫn sanh tươi, cũng ví như cái Ta chân thực với cái thân ngũ uẩn vô thường của con người vậy.
“Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.”
(Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý)
Nghĩa là:
Ngọc đem đốt trên núi, mà sắc vẫn tươi.
Hoa sen nở trong lò lửa mà sắc vẫn dịu mát...”
Hay là mấy câu thơ của Thiền sư Đạo Huệ:
“Sắc thân dữ diệu thể,
Bất hợp bất phân ly,
Nhược nhân yếu phân biệt,
Lô trung hoa nhất chi.”
Dịch nghĩa:
Sắc thân và diệu thể (tức là cái chân tâm vi diệu)
Không hòa hợp cũng không tách rời,
Nếu người ta muốn phân biệt,
Thì cũng như hoa sen trong lò lửa vậy.
(Thiền sư Đạo Huệ đời Lý).
Như vậy, để thấy tư tưởng của các Thiền sư đời Lý-Trần cũng không khác mấy tư tưởng của các tôn giáo và triết phái Ấn Độ cổ đại. Câu “Nhất đóa hồng lô hỏa lý liên” (Một đóa hoa sen trong lò lửa hồng) của Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần cũng phản ánh tư tưởng đó.
Như vậy là gì? Tức là cái tâm bình thường hằng ngày của chúng ta, cái tâm sinh diệt, hay nổi cơn tham, sân, si không phải là cái tâm chân thực của chúng ta. Cái tâm chân thực này không có dính dáng gì, mà cũng không bị ô nhiễm gì bởi các cơn tham, sân, si của cái tâm bình thường, hằng ngày của chúng ta cả.
3. Thuyết về một linh hồn thường tại.
Ngoại trừ đạo Phật ra, các tôn giáo và triết phái khác đều chấp nhận trong con người có một linh hồn bất biến, được gọi bằng cái tên khác nhau là purasa, jiva hay atman. Còn bản thân cái linh hồn bất biến đó như thế nào thì quan điểm giữa họ cho rằng linh hồn đó là một thực thể vô thức, không mang một đặc điểm hay thuộc tính nào hết. Triết phái Sankhya (Số luận phái) thì cho rằng đó là tâm thức thuần túy (pure consciousness), còn triết phái Vedanta thì cho rằng đó là một thể thống nhất của tồn tại thuần túy, hỷ lạc thuần túy (ananda) và tâm thức thuần túy. Đạo Phật khi phủ nhận có một linh hồn bất biến thường tại, có thể muốn chúng ta tránh không lạc vào tư biện siêu hình, tư biện về một cái gì đó hiện tại không thấy được, không quan sát được, và chỉ nên quan tâm tới cái tâm thức hiện hữu có thể chuyển thiện hay chuyển ác. Chúng ta, theo đạo Phật, cần gia công nơi cái tâm hiện hữu này, phải tìm hiểu nó (Trần Thái Tông, trong Khóa Hư Lục dùng từ biện tâm), điều phục nó, như trong Kinh Pháp Cú, phẩm Tâm viết:
“Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều an lạc đến.”
(Kệ 35)
“Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ an lạc đến.”
(Kệ 36)
Kinh Pháp Cú còn cảnh báo rằng, cái tâm nghĩ chuyện tà quấy làm hại ta còn hơn cả kẻ thù hại chúng ta, và cái tâm nghĩ điều thiện, điều chân chánh đem lại lợi ích cho ta hơn cả cha mẹ, bà con muốn làm cho ta:
“Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân.”
(Kệ 42)
“Điều mẹ cha, bà con,
Không có thể làm được,
Tâm hướng thiện làm được,
Làm được tốt đẹp hơn.”
(Kệ 43)
4. Thuyết nhân sinh là đau khổ.
Đời là khổ. Đấy là chân lý về sự khổ, một trong bốn chân lý mà Phật thuyết giảng trong bài thuyết pháp đầu tiên ở Vườn Nai sau khi Phật thành đạo. Các triết phái và tôn giáo khác ở Ấn Độ đều chấp nhận điểm này, với sự nhấn mạnh nhiều ít khác nhau. Phật giáo và hai triết phái Sankhya và Yoga cường điệu mạnh mẽ nhất chân lý nhân sinh là khổ.
Điều mà người bình thường cho là vui, thực tế cũng là khổ, bởi lẽ điều vui đó không thể tồn tại mãi. Giữ gìn nó cho nó kéo dài được là khổ, mất nó đi lại càng khổ. Vì vậy mà bậc có trí tìm tới giải thoát.
Tuy nhận định chung là như vậy, nhưng các triết gia và nhà giải thoát Ấn Độ cổ đại không bi quan, bởi lẽ họ tin rằng cái ta chân thật của họ là hạnh phúc hay là hỷ lạc thuần túy, và cái Ta chân thực đó vốn tồn tại, không bị ô nhiễm bởi gió bụi của cuộc đời trần tục.
5. Sự thống nhất trong mọi cố gắng trên các bình diện triết học, tôn giáo và đạo đức.
Các tôn giáo và triết phái ở Ấn Độ, ngoại trừ triết phái duy vật Carvaka, đều nhất trí trên các điểm như: sống đạo đức, tuyệt đối không hại người hại vật, chế ngự dục vọng.
Tất nhiên, có những khác biệt trong chi tiết, như giống nhau là cơ bản. Mãi về sau với triết phái Vasnava (liên hệ với Thần Visnu), thì yếu tố thành tín bhakti mới phát triển và chiếm ưu thế.
Giải thoát ra khỏi cuộc sống hạn chế của thân phận con người, đó là mục đích thống nhất của tất cả các tôn giáo và triết phái Ấn Độ. Đó cũng là mục đích của mọi cố gắng tìm cho được cái thường, cái bất tử trong giòng chảy vô thường và sanh tử, tìm ra cho được cái hỷ lạc thuần túy, vĩnh cửu giữa cuộc đời đầy đau khổ này.
6. Đạo Phật và Thánh điển Upanishad
Theo Thánh điển Upanishad, cái Ta chân thực là hỷ lạc vĩnh cửu và bất diệt. Còn đạo Phật thì nói không có cái Ta gắn liền với thân tâm này. Kinh Phật dẫn lời Phật giảng: “Sắc thân này không phải là Ta, cũng không phải là của Ta. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng không phải là Ta hay của Ta...” Nhưng cái ta chân thực là gì, thì Phật không nói.
Rất có thể vì Phật thấy cái ta chân thực là siêu việt ngôn ngữ và tư duy khái niệm, cho nên không nói, vì sợ người nghe chấp thủ vào lời Phật.
Tại sao Thánh điển Upanishad lại nói cái Ta chân thực là hỷ lạc? Phải chăng vì cái Ta chân thực là vĩnh cửu? Phật cũng nói cái gì vô thường là đau khổ, và cái gì đau khổ không phải là cái ta.
Nhưng đạo Phật cho rằng cái Ta chân thực là không thể thực nghiệm được với cái tâm vô thường, hữu hạn vốn là cái tâm bình thường hằng ngày của chúng ta. Với cái tâm vô thường và sinh diệt, không thể tìm đâu ra cái Ta chân thực, vĩnh hằng và hỷ lạc theo như Thánh điển Phật giáo nói.
Khi đạo Phật nói vô minh, tức là không hiểu, không biết, tức là đạo Phật muốn nói bốn cái không thể không biết.
 Đau khổ là gì? Bản chất của sự đau khổ.
 Không hiểu, không biết đau khổ xuất phát từ đâu.
 Không hiểu, không biết khổ diệt là thế nào?
 Con đường diệt khổ là như thế nào.
Và khi đạo Phật nói giác ngộ, tức là hiểu và biết tức là:
• Hiểu và biết bản chất của đau khổ.
• Nguyên nhân của đau khổ.
• Trạng thái khổ diệt.
• Các biện pháp hay là con đường dẫn tới diệt khổ đau.
Vì sao Phật lại từ chối không chấp nhận có một cái ta thường tại bất biến mà Ấn Độ giáo gọi là Atman? Phải chăng Phật không muốn chúng ta mất thời giờ vào những chuyện siêu hình, trong khi con người có thể xây dựng cái ta bình thường, hằng ngày bằng những tư tưởng thiện, lời nói thiện và hành động thiện.
Trong Kinh Pháp Cú, có câu kệ, được xem là lời không phải của riêng Phật Thích Ca mà của tất cả các đức Phật.
“Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật ngôn.”
Nghĩa là:
“Tránh mọi điều ác,
Làm mọi điều lành,
Tự mình làm trong sạch tâm ý mình,
Là lời dạy của các đức Phật.”
Tuy nhiên, trong kinh Udana, 80 tức Tập Kinh, Phật cũng nói rõ phải có cái thường, cái vĩnh cửu thì chúng sanh mới có thể thoát ra khỏi cảnh giới vô thường được.
“Này các Tỷ kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ kheo, có cái không sanh, không bị làm ra, không hiện hữu, bị làm hữu vi.”
Như vậy, rất rõ ràng, Phật nói rằng ở đằng sau cái sanh diệt, có cái bất sanh bất diệt, ở đàng sau cái hiện hữu, tức là cái tồn tại (mà đã hiện hữu, tồn tại thì tất yếu là vô thường, biến đổi) thì phải có cái không hiện hữu v.v... Và ở ngoài thế giới hiện tượng là thế giới của luật nhân quả, của thời gian và không gian, của sanh diệt, Phật thừa nhận có thế giới vĩnh hằng không có sanh diệt, không bị luật nhân quả nghiệp báo chi phối.
Người tu hành, hay là bậc có trí phải cảm nhận sâu sắc tính vô thường của thế giới này thì mới siêu việt lên trên thế giới này được, và đấy là mục tiêu phấn đấu của các tôn giáo và triết phái Ấn Độ, ngoại trừ triết phái duy vật Carvaka.
Ấn giáo Vedanta cho rằng, nếu hiện tượng giới là vô thường, không rỗng, thì phải có một cái gì đó là thường, mà chúng ta không mô tả được. Cái thường đó hẳn là không liên hệ gì với cái thân năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức của chúng ta, vì cái thân năm uẩn này là vô thường. Tách rời cái vô thường này thì hành giả sẽ được giải thoát.
Cái thân năm uẩn này không phải là Ta hay là của Ta. Nhưng cái Ta chân thực không phải là không có, vì không mô tả được nên lời. Và triết phái Vedanta nói tới một cái Ta là tâm thức thuần túy, hỷ lạc thuần túy và tồn tại thuần túy.
Phật sau khi chứng Niết Bàn, không phải là không còn cái gì nữa hết. Tất nhiên, quy chế tồn tại của Phật siêu việt mọi nghĩ bàn của chúng ta. Suy tư về Phật cũng không khác gì lấy một cái đấu để đong nước của đại dương vậy. Nhưng đại dương tuy không lấy cái đấu mà đong được, nhưng đại dương vẫn tồn tại.
Thiền sư Đạo Huệ đời Lý viết:
“Địa thủy hỏa phong thức,
Nguyên lai nhất thiết không,
Như vân hoàn tụ tán.
Phật nhật chiếu vô cùng...”
Nghĩa là:
“”Địa, thủy, hỏa, phong, thức,
Nguyên lai vốn là không rỗng.
Cũng như mây lúc tụ lúc tan,
Mặt trời Phật chiếu khắp nơi không hạn chế.”
Địa, thủy, hỏa, phong, thức là cái thân năm uẩn, nó vốn vô thường, không rỗng. Nhưng mặt trời Phật tức là cái Ta chân thực vẫn chiếu sán khắp nơi.
Bậc giác ngộ khi nhập Niết Bàn đâu có diệt. Chỉ có mọi lòng ham muốn và dục vọng là bị diệt mà thôi.
Như chúng ta biết, Phật Thích Ca đã phê phán mạnh mẽ những hình thức nghi lễ tế đàn, quá phức tạp và giết hại nhiều sinh vật của Ấn giáo. Ấn giáo cho rằng làm như vậy, tức là Phật giúp làm cho Ấn giáo được trong sáng, và Phật được sách Puranas tôn sùng như là hiện thân thứ 9 của Thần Vishnu. Tất nhiên, Phật giáo và Tăng sĩ cùng tín đồ Phật giáo không bao giờ chấp nhận chuyện này. Ấn giáo xem và tôn vinh Phật Thích Ca như là một đại diện xuất sắc của truyền thống tôn giáo Ấn Độ. Nói đúng hơn, Phật Thích Ca và Phật giáo đã trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời của nền văn hóa không phải Ấn giáo mà là của Ấn Độ.
Phật giáo tạo ra một mẫu con người mới, không vướng mắc bởi giáo điều và định kiến, tin tưởng ở sức mình để tự giác ngộ và giải thoát. Chủ nghĩa nhân bản Phật giáo siêu việt mọi biên giới chủng tộc và quốc gia. Phật giáo đúng là một tôn giáo thế giới, đúng theo nghĩa đích thực của từ này. Vì vậy, Phật giáo là một tôn giáo, một hệ tư tưởng và triết học trẻ mãi không già.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

VÊ TRIẾT PHƯƠNG ĐÔNG...

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 6 30/11/07 21:33

[center]VỀ TRIẾT PHƯƠNG ĐÔNG…
Minh Chi[/center]

[justify]Triết phương Đông là môn học dẫn con người thành tựu một cấp sống cao cả, siêu việt, và phương tiện của sự thành tựu đó là chân lý, là sức mạnh, của chân lý. Vì vậy mà người muốn học triết phải được thử thách nghiêm túc. Đó là cấp sống Thánh, ở đời này và đời sau. Không thấy có chuyện này ở triết phương Tây.
Nếu môn học thợ mộc giúp cho người học trò làm chủ được cưa, gỗ, đinh, búa v.v...thì môn triết giúp cho người học trò làm chủ được cuộc sống, thâm và tâm, chế ngự được những dục vọng thấp hèn, làm chủ được số phận của mình. Sự bất hạnh là không có hiệu lực gì hết với Triết gia.
Vì vậy, cái gọi là sự minh triết (wisdom), ở phương Đông không phải là bạ đâu nói đấy, với ai cũng nói, rồi viết thành giáo tài bán rẻ cho mọi người xem. Học trò nào không mua, không đọc thì sẽ thi hỏng.
Thực ra triết phương Đông, một nền văn hóa tâm linh, một sự khao khát vươn tới chân lý tối hậu. Khiến Ấn Độ vẫn tồn tại, bất chấp ngoại xâm và nội chiến. Triết Ấn sống động, do khao khát chân lý của con người, kể cả con người bình thường, chứ không là khao khát của một thiểu số.
Triết Ấn hòa nhập với cuộc sống của con người, không bao giờ tách rời nó. Triết Ấn không giáo điều. Nó phát triển cùng với sự biểu lộ của tư duy. Triết Ấn gắn chặt với tôn giáo, và thông qua tôn giáo để đi vào cuộc sống của xã hội, của nhân dân.
Triết Ấn là một lối sống động, và trực diện với cuộc sống. Không có một chủ thuyết Ấn nào thực dụng lại ở ngưỡng cửa lý thuyết.
Thuyết Sankhya không nhắc gì tới Thượng Đế, Vaidesika và Yoga tuy thừa nhận có Thượng Đế nhưng không chấp nhận một Thượng Đế sáng thế. Taimimi nói tới Thượng Đế, nhưng không tán thành một Thượng Đế cứu rỗi, và chỉ đạo vũ trụ về mặt đạo đức! Còn triết gia Cavaxa thì bác bỏ khái niệm Thượng Đế, cười nhạo lớp giáo sỹ, phê bình sách Veda, và chủ trương mục đích cuộc sống là tìm tòi khoái lạc!
Hoạt động tri thức ở Ấn Độ thật là phong phú, đa diện và đa dạng, chứ không phải bó trong triết học và thần học. Nhiều lĩnh vực khác nhau như ngữ pháp học, lô gíc học, tu từ học, ngôn ngữ học, y học, thiên văn học, kiến trúc học, động vật học đều cùng phát triển. Các nghề như nuôi ngựa, nuôi voi đều có sách bàn về chúng.
Nhưng triết học Ấn chọn đối tượng nghiên cứu là cái Ta trong con người. các triết gia Ấn sớm thấy tầm quan trọng của thiền định như là một công cụ để nắm bắt chân lý. Tâm thức được phân tích thành các lớp như ý thức, tiềm thức và siêu thức. Các hiện tượng như thần giao cách cảm (tilipathy), thấy xa nghe xa...chỉ là thuộc tính của siêu thức, chứ không có gì là thần thông. Môn học Yoga quan tâm và nghiên cứu những hiện tượng đó.
Các đặc điểm của tư tưởng của các tập Upanishads so với các tập thánh ca Veda là:
-Chống lại chủ nghĩa hình thức của sách Veda.
-Bác bỏ tính thần thông của sách Veda.
-Nhất nguyên thay vì đa nguyên.
-Hướng nội thay vì hướng ngoại.
Brahman là cái nguyên lý nhất nguyên đó.
Chủ đề trung tâm của các tập Upanishads là tìm ra cái gọi là chân lý tối hậu (Ultime Reality). Chủ đề đó được cụ thể hóa trong các câu hỏi mở đầu cuốn Svetas-Vatara: “Chúng ta sinh ra từ đâu, chúng ta sống ở đâu, chúng ta đi đâu? ÔI hỡi Ngài đã biết Brahman, hãy nói cho chúng tôi biết Brahman là gì. Do mệnh lệnh của ai mà chúng tôi sống ở đây hoặc trong đau khổ, hoặc trong sung sướng? Nguyên nhân là thời gian chăng, là tự nhiên chăng, tất yếu hay là ngẫu nhiên chăng, hay là cái gọi là Tinh thần Tối Thượng, tức Purusa.”
“Kiến thức, tâm thức, giác quan và đối tượng của chúng, tất cả đều là hữu hạn vì bị hạn chế bởi các điều kiện...Chúng ta biết là không thể có hạnh phúc chân thực từ chỗ hữu hạn. Mọi niềm vui thế gian đều là tạm bợ bởi già và chết. Chỉ có cái vô biên mới đem lại hạnh phúc lâu dài. Tôn giáo cũng tìm đến cuộc sống vĩnh hằng. Tất cả những cái đó đều dẫn tới niềm tin có một sự tồn tại vĩnh cửu, một thực tại tâm linh, là đối tượng của nghiên cứu triết học, là mục đích của tôn giáo, là sự thỏa mãn đầy đủ những ước vọng của chúng ta. Đó là sự tồn tại vĩnh cữu, chân lý tuyệt đối.”
Mọi người đều biết cầu nguyện “Hãy đưa tôi từ bóng tối đến ánh sáng, từ hư vọng đến chân thật, từ cái chết đến cái bất tử”.
Cái bất tử, cái vĩnh hằng đó không phải ở đâu xa, mà là ở trong mọi chúng ta. Đó là Atman, cái Ta thực mà trong tập Rg.Veda, xác định là hơi thở hay thực thể sống (the vital steme), sau đó dần dần có định nghĩa là cái Ta thực.
Trong tập Chandogya Up, kể là câu chuyện đàm thoại giữa thầy giáo là Trapapats và học trò là Tudra, trong đó thầy giáo triển khai các khái niệm:
1/ Cái ta thân xác (the bodily)
2/ Cái ta thực nghiệm (emperal self)
3/ Cái ta siêu nghiệm (the transcendental self)
4/ Cái ta tuyệt đối (the Absolute self).
Đặc điểm của cái ta thực:
Prapapats mở đầu cuộc đàm thoại bằng liệt kê những đặc điểm phải có của cái ta thực: “Không vương mắc tội lỗi, không có già, chết, buồn khổ, đói và khát, không mong cầu gì cả, trừ cái đáng mong cầu, không tưởng tượng gì cả, trừ cái đáng tưởng tượng”
Đó là cái Ta thường, liên tục, thống nhất, hoạt động vĩnh cửu. Nó là chủ đề thật sự, không bao giờ là đối tượng nhận thức hay nắm bắt. Cho nên nói nhận thức cái Ta thực là nói một câu vô nghĩa, bởi vì cái Ta thực không thể là đối tượng nhận thức.
“Cái ta chính là anh” (That art thou).
“Anh chính là cái đó”. Chủ thể và khách thể là một. Đó chính là chân lý được các tư tưởng gia Up phát hiện.
Brahman là anada (bliss), hạnh phúc tuyệt đối, khi khách thể và chủ thể hòa vào một. Người thấy, con mắt thấy và đối tượng bị thấy hòa làm một. Ananda là hạnh phúc tuyệt đối, vĩnh hằng mà mọi niềm vui thế tục chỉ là cái bóng dáng mà thôi.

*
* *
Tập Mandurya là tập ngắn nhất, và chỉ có 12 câu thơ. Chủ đề của nó là chữ cái OM. Tập sách mở đầu bằng câu nói tới ba trạng thái tâm thức”
1/ Tĩnh thức
2/ Ngủ có mộng
3/ Ngủ say không mộng và trạng thái gọi là turiya.
Cuốn sách viết như sau:
1) OM! Âm bất tử này là toàn bộ vũ trụ hữu hình. Nó được giải thích như sau. Tất cả những cái gì thay đổi, đang thay đổi, sẽ thay đổi. Đúng như vậy, tất cả những cái đó là âm OM.
Có hai lĩnh vực đồng nhất với nhau:
a) Lĩnh vực hiện tượng, hữu hình, trong đó nhưng biểu hiện của thời gian sinh ra rồi diệt.
b) Lĩnh vực siêu việt, siêu thời gian, nó siêu việt nhưng lại đồng nhất với cái tồn tại vĩnh cửu. Cả hai lĩnh vực đó đều biểu trưng và tồn tại trong chữ cái linh thiêng OM.
2) Tất cả những cái này (chỉ vũ trụ xung quanh) là Brahman. Cái Ta (đặt tay lên trái tim) cũng là Brahman–Đây lại là chủ thuyết phi nhị nguyên. Bản chất của những hiện tượng đa dạng của thế giới vĩ mô. Bí mật của vũ trụ, với tất cả những trường hợp của nó–thô và tế, cuộc sống với tất cả các dạng của nó, vật chất trong tất cả những biến đổi của nó, đều có thể tiếp cận từ bên trong hay bên ngoài.[/justify]
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

TRIET HOC TRUNG HOA LA GI

Gửi bàigửi bởi sinan » Thứ 4 12/12/07 9:53

Triết học Trung Hoa là gì?

Tư tưởng Trung Quốc được đánh dấu bằng ba “thuyết giảng” chính (như người Trung Quốc nói): Kinh Dịch (với lý thuyết Âm và Dương), Đạo giáo và Khổng giáo. Kinh Dịch là một tập sách nhỏ bí truyền, soạn cách đây khoảng ba mươi thế kỷ, trong đó nêu lên quan niệm nhị nguyên về vũ trụ: âm và dương, hai nguyên lý đối lập và bổ sung nhau, không thể tách khỏi nhau của mọi sự vật.

Nó được trình bày dưới hình thức một chuỗi hình hình học (bát quái) gồm những dãy nét thể hiện âm và dương. Cách bố cục của mỗi hình thể hiện một trong những bộ mặt của vũ trụ, và việc sử dụng những hình này thật ra là một công cụ bói toán. Lúc đầu, dương chỉ sườn núi có nắng chiếu, và mở rộng ra, tất cả những gì sáng, nóng, thuộc trời, phái nam, mạnh. Đó là một nguyên lý đực. Âm là sườn núi đối lập. Đó là nguyên lý cái, chỉ những gì lạnh, thấp, thụ động, thuộc đất, ban đêm. Hai nguyên lý ấy đối lập nhau nhưng bổ sung lẫn nhau. Vì mọi cái được tạo ra trong thế giới này (như việc sinh đẻ một đứa bé) đòi hỏi sự kết hôn của hai nguyên lý ấy. Chúng thường xuyên thâm nhập lẫn nhau, tạo ra một loạt biến đổi và những biến đổi này lại tạo ra vô số hình thức của vũ trụ.

Kinh Dịch sau đó được nhập vào Đạo giáo, một học thuyết được Lão tử thuyết giảng. Lúc đầu, Đạo giáo là một minh triết,một đạo đức hướng tới sự tiết độ và từ bỏ cả sự khổ hạnh lẫn khoái lạc trần tục.

Khổng tử, cha đẻ của Khổng giáo, sống ở thế kỷ V trước C.N, cùng thời với Phật. Sự thuyết giảng của ngài dựa trên một học thuyết thế tục và bất khả tri (“Trời không nói gì”, ngài tuyên bố). Học thuyết luân lý ấy, được dùng để điều tiết cuộc sống trong xã hội, dựa vào một “đạo đức sống”, mang những đức tính căn bản như đạo hiếu của con cái, công bằng và chính trực.

Đạo giáo và Khổng giáo tạo thành cái được Max Weber gọi là “những định hướng sống”, đặc biệt in dấu sự tiết độ và những quy tắc hành vi trong xã hội. Sau đó, những tập tục và tín ngưỡng tôn giáo (đạo giáo), cũng như những tư tưởng triết học (đạo gia) được ghép vào những điều trước kia chỉ là những minh triết.

Những tư tưởng Trung Hoa không chỉ giới hạn vào ba “thuyết giảng” là Kinh Dịch, Khổng giáo và Đạo giáo này. Từ thời Cổ, như nhà sử học Trung Hoa vĩ đại Tư Mã Thiên (-145- -85) đã phân loại, tư tưởng Trung Quốc có sáu trường phái lớn (lục gia). Bên cạnh ba trường phái (Âm dương gia, Khổng giáo, Đạo giáo, còn có sự phát triển của trường phái Mặc tử (một kiểu nhà tiên tri hòa bình, chủ trương yêu thương tất cả và bác bỏ những nguyên lý bất bình đẳng của Khổng giáo); trường phái Danh gia (còn gọi là phái duy danh); trường phái luật pháp (Pháp gia).

Như đã thấy, chẳng có gì không thuần nhất hơn tư tưởng Trung Quốc. Bên cạnh những thần bí, ở Trung Quốc có những phái phóng túng, “phái vô chính phủ”, phái duy danh... Khi xem xét chi tiết lịch sử của nước này (8), người ta khám phá ra một sự sinh sôi nảy nở của nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái, có lẽ cũng phong phú như truyền thống triết học phương Tây vậy.
Sin Ân
Hình đại diện của thành viên
sinan
 
Bài viết: 193
Ngày tham gia: Thứ 2 21/05/07 20:40
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

Re: NHỮNG VẤN ĐỀ SUY TƯ PHƯƠNG ĐÔNG

Gửi bàigửi bởi sinan » Thứ 4 12/12/07 9:56

Tôn giáo, minh triết hay triết học?

Phải xác định như thế nào về các “đạo lý” phương Đông: Phật giáo, ấn Độ giáo, Đạo giáo, Khổng giáo? Có nên nói tới các tôn giáo, các minh triết, các triết thuyết không? Hay phải đồng thời nói tới tất cả những cái đó? Cách nhìn so sánh và lịch sử cho phép đưa ra những yếu tố giải đáp. Các trào lưu tâm linh lớn đã đi theo những sự tiến hóa tương tự nhau mà người ta có thể chia thành ba giai đoạn.

- Giai đoạn thứ nhất. Lúc đầu, ấn Độ giáo của ấn Độ, Thần đạo Nhật Bản, Kinh Dịch Trung Hoa đã hình thành từ những buổi đầu thời Cổ, cách đây ba nghìn năm. Đó là những tín ngưỡng tôn giáo khá nguyên thủy, gồm những nghi thức tụng niệm và những công thức bí truyền, được truyền bằng miệng. Những tín ngưỡng này hướng tới rất nhiều thần linh mà đó thường là những biểu hiện các sức mạnh tự nhiên. Chúng được kèm theo những truyền thuyết và huyền thoại đủ các loại.

- Giai đoạn thứ hai. Vào thế kỷ V sau J.C, Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo và đạo Jaina xuất hiện gần như đồng thời. Những điểm giống nhau giữa các học thuyết ấy thật đáng ngạc nhiên. Tất cả đều bắt nguồn từ lời của các bậc tiên tri: Phật (vào -56 - -480), Lão tử (sinh năm -604 theo truyền thuyết), Khổng tử (-551 - -479), Mahavira (người sáng lập đạo Jaina). Có thể ghi nhận sự trùng hợp này với sự xuất hiện của triết học ở Hy Lạp. Thông điệp của các bậc tiên tri này không mang tính chất tôn giáo mà là thế tục. Họ đề xướng một đạo đức sống: sống trong xã hội như thế nào? Đương đầu với những đau khổ như thế nào? Làm thế nào để đạt tới “ngộ”? Các tiên tri trả lời những câu hỏi ấy dưới những hình thức châm ngôn, những đề xướng ngắn gọn và thường là khó hiểu. Do đó, những thuyết giảng của họ chưa mang hình thức những hệ thống triết học lớn.

- Gia đoạn thứ ba. Trong các thế kỷ sau, những trường phái tư tưởng đích thực phát triển trong những tu viện Phật giáo, Đạo giáo, hoặc trong các nhà nho Trung Quốc. ở Trung Quốc, từ thế kỷ I trước C.N đã nảy nở các trào lưu triết học được nhà sử học thời cổ Tư Mã Thiên tập hợp thành “sáu trường phái”. ở ấn Độ, vào đầu kỷ nguyên Kitô giáo, cũng đã kết tinh sáu trào lưu tư tưởng hay darshanas (“quan điểm”), mỗi trào lưu đưa ra cách lý giải của mình về tư tưởng brahman (ấn Độ giáo cổ điển). Các hệ thống triết học này hiện ra như những chú giải các sách “thiêng”. Đây là việc giải mã ý nghĩa che dấu của những thể thức, những truyện kể, những ngụ ngôn. Tư tưởng tư biện lấn át những công thức giáo điều. Trong khi các sách điển thuộc truyền thống vốn là những văn bản bí truyền (những công thức tụng niệm, những châm ngôn, những truyền thuyết), thì những sự phát triển của chúng về sau đã có một bước ngoặt tư biện hơn và trừu tượng hơn, đưa tới sự ra đời của những chuyên môn hóa lý thuyết dựa vào siêu hình học, lôgic học, ngữ pháp, tâm lý học, hoặc cả triết học về nhận thức.

Trong khi các học thuyết triết học được dựng lên, những hình thức tư tưởng khác vẫn không biến mất. Mỗi tinh thần đẻ ra một tập hợp lý thuyết hỗn hợp, trong đó liên kết một đạo đức sống (với những khuôn mẫu hành vi và những quy tắc luân lý), một vũ trụ luận (biểu tượng của vũ trụ), một con đường giải thoát (với những kỹ thuật tâm linh và thể chất), một tôn giáo dân gian (với folklore, các lễ nghi, các truyền thuyết, các lời cầu nguyện, các điện thờ của nó), một tìm tòi triết học (với những bình giải, những lời bàn và những phát triển khái niệm của nó)...
Sin Ân
Hình đại diện của thành viên
sinan
 
Bài viết: 193
Ngày tham gia: Thứ 2 21/05/07 20:40
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

Re: NHỮNG VẤN ĐỀ SUY TƯ PHƯƠNG ĐÔNG

Gửi bàigửi bởi sinan » Thứ 4 12/12/07 9:58

Các văn hóa phương Đông và phương Tây khác nhau ở chỗ nào?

Người ta có thói quen đối lập các tư tưởng phương Đông và phương Tây với nhau từ một vài đặc trưng lớn: phương Tây mang tính phân tích, lý tính; phương Đông mang tính tổng hợp và trực giác. Phương Tây bận tâm tới làm chủ tự nhiên, phương Đông - tới nhận thức và làm chủ bản thân. Phương Tây dựa vào nỗ lực của người (prométhéen), phương Đông suy tưởng; phương Tây đồng đẳng, phương Đông tôn ti trật tự; phương Tây duy vật, phương Đông duy linh,.v.v...

Các chuyên gia chắc hẳn dễ dàng bác bỏ những đối lập sơ sài ấy bằng cách chứng minh rằng những minh triết Hy Lạp (chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa khoái lạc) về căn bản không khác gì những minh triết phương Đông. Hoặc tư tưởng phương Đông không phải hoàn toàn không biết tới những tư tưởng duy vật và duy lý (9).

Luận điểm về một sự khác nhau căn bản, hay về một sự thống nhất sâu sắc giữa những tư tưởng phương Đông và phương Tây không làm cho người ta thật sự thỏa mãn. Khi so sánh hai hệ thống văn hóa, bao giờ người ta cũng thấy có những nét chung và vô số những khác biệt. Đúng hơn, vấn đề là xem có những “định hướng tổng thể”, có hai “phong cách” nhận thức khác nhau không. Những vấn đề này thật khó giải quyết vì không mấy tác giả có một cách nhìn tổng thể về sự tiến hóa so sánh giữa hai vũ trụ tinh thần, phương Đông và phương Tây.

Trong những năm 2000, nhà triết học Trung Hoa Liang Shuming (1893-1988) coi văn hóa phương Tây như một sự phát triển của thái độ dựa vào sức người và chinh phục sự sống (10). Thái độ này thể hiện ở khoa học, ở sự chinh phục thế giới và ở chế độ dân chủ (khước từ sự nô dịch). Ngược lại, văn hóa Trung Quốc được đặc trưng bởi “sự xoa dịu và từ tốn đối với khoái lạc”, còn thái độ của ấn Độ là “khước từ khoái lạc”. Từ đó mà có những hành vi khác nhau về cuộc sống, lao động, khoa học và sự phát triển nói chung.

Tuy nhiên, L.Shuming cũng lưu ý rằng những so sánh giữa các văn hóa phương Đông và phương Tây không phải là về những thời kỳ lịch sử giống nhau. Văn hóa khoa học phương Tây chỉ có từ thế kỷ XVII; còn khi nói tới tư tưởng phương Đông, thì phần lớn là từ những truyền thống hàng nghìn năm. Có lẽ những đối lập được gán cho các văn hóa ấy trên thực tế là do cái được gọi là “những kỷ nguyên tư tưởng”. Một số những đối lập cổ điển giữa phương Đông và phương Tây chỉ là phản ánh những sự đối lập giữa các xã hội truyền thống và các xã hội hiện đại.[/size]
Sin Ân
Hình đại diện của thành viên
sinan
 
Bài viết: 193
Ngày tham gia: Thứ 2 21/05/07 20:40
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

Re: NHỮNG VẤN ĐỀ SUY TƯ PHƯƠNG ĐÔNG

Gửi bàigửi bởi sinan » Thứ 4 12/12/07 10:00

Có một khoa học phương Đông không?

Tư tưởng phương Đông không hòa tan vào những minh triết và những tinh thần. Châu á là trung tâm phát triển độc lập của các khoa học kỹ thuật và thường đi trước phương Tây và chính nó để lại những phát hiện căn bản.

Đó là trường hợp các toán học ấn Độ và Trung Hoa mà từ thời Cổ đã từng đạt tới một trình độ phát triển rất cao. Hệ thập phân, việc đánh số vị trí, việc sử dụng con số không, những cách giải phương trình đại số đầu tiên đã được sử dụng ở Trung Hoa và ấn Độ nhiều thế kỷ liền trước khi chúng được du nhập vào phương Tây qua trung gian các nhà bác học Arap. Những “chữ số Arap” mà chúng ta hiện nay đang dùng trên thực tế đã được các nhà bác học Arap đưa từ bên ngoài vào. Việc du nhập cách đánh số mới ấy (kế tục cách đánh số La Mã) sẽ là một yếu tố quyết định sự phát triển khoa học phương Tây. Truyền thống toán học ấn Độ được duy trì cho đến thời cận đại qua một dòng toán học lớn (11).

ở Trung Quốc, truyền thống khoa học và công nghệ phong phú đã được phát hiện lại từ những năm 1950-1960, nhất là nhờ vào những nghiên cứu lịch sử của Joseph Needham (1900-1995) và công trình đồ sộ của ông Khoa học và Văn minh ở Trung Quốc (12). Lịch sử các khoa học Trung Hoa từ đó đã trở thành một trường nghiên cứu rất phì nhiêu.

Ngoài những tri thức của họ về toán học, các nhà bác học Trung Quốc đã thu thập, tập hợp, ghi lại những tri thức trong nhiều lĩnh vực: trong thiên văn học, họ đã lập ra những danh mục gồm hàng nghìn ngôi sao từ thế kỷ IV trước C.N; trong thực vật học, một nhà bác học như Li Shi zhen, vào thế kỷ XVI đã soạn Đại dược thư, không chỉ mô tả một số cây với những thuộc tính của chúng, mà còn đưa ra một sự phân loại thật sự khoa học; trong địa chất, khoáng học, địa lý, họ cũng tích lũy nhiều tri thức.

Nhưng chủ yếu về mặt kỹ thuật, người Trung Hoa đã để lại nhiều thành tựu nhất: trong nông nghiệp (lưỡi cày, yên cương); trong công nghiệp (phát minh máy bơm nước, máy hơi nước); cầu đường (xây cầu); trong y học (châm cứu, dược học); trong chế tạo đồng hồ; trong nghệ thuật quân sự,.v.v...

Huân tước Bacon đã từng nêu rõ rằng ba phát minh căn bản - địa bàn, ấn loát, thuốc súng - đã đến từ Trung Quốc và đã làm đảo lộn lịch sử phương Tây. Từ đó người ta còn phải chịu ơn người Trung Quốc về du nhập bánh lái, compa hàng hải và rất nhiều cột buồm, mà nếu không có những thứ đó “có lẽ không bao giờ thực hiện được những cuộc du hành khám phá lớn”(13).

Từ các thế kỷ XVI và XVII, phương Tây đã trải qua cuộc cách mạng cận đại lớn của một sự phát triển kinh tế và xã hội có tính toàn cầu hơn là sự phát triển tính hiện đại. Phải thừa nhận rằng cuộc cách mạng khoa học ấy không phải chỉ là nội sinh mà phải nhờ rất nhiều vào châu á. Đặc biệt là nhờ vào các toán học ấn Độ và các kỹ thuật Trung Hoa. Rồi sự phát triển khoa học hồi đó được thế giới hóa. Từ thế kỷ XX, người ta ứng dụng các môn vật lý, hóa học, sinh học giống nhau ở Trung Quốc và ở Mỹ, ở Nhật và ở Pháp. Người Nhật Bản, người Trung Hoa, người ấn Độ, người Triều Tiên tham gia sự phát triển các khoa học ngang như những người thuộc các xã hội khác. Trong “văn hóa” của họ, chẳng có gì ngăn cản họ đạt tới những nghiên cứu mũi nhọn trong các lĩnh vực vật lý, sinh học, tin học cả. Bằng chứng rõ nhất là những “chuyển dịch các bộ não” đưa những sinh viên xuất sắc nhất của Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, ấn Độ vào các trường đại học lớn của Mỹ.

Người châu á hiện đang nghĩ gì?

Sự gặp gỡ giữa phương Tây và phương Đông từ thế kỷ XVIII đã gây nên một sự đảo lộn văn hóa quan trọng ở châu á. Từ thế kỷ XVIII, những giáo sĩ truyền giáo Dòng Tên đã du nhập tư tưởng phương Tây vào châu á. Từ đó, một bộ phận giới tinh hoa tri thức Trung Quốc bị quyến rũ và quay lưng lại với Khổng giáo còn chiếm ưu thế hồi đó. Những phong trào duy tân chủ yếu bắt đầu từ thế kỷ XX. nhiều trí thức Trung Hoa và ấn Độ đến học ở phương Tây. Việc dịch hàng loạt những tác phẩm của các nhà tư tưởng lớn của phương Tây được bắt đầu. Nghiêm Phục, từ cuối thế kỷ XIX, đã dịch Thomas Huxley, Adam Smith, Herbert Spencer, John Stuart Mill. Rồi dịch cả Thomas Hobbes, John Locke, Davi Hume; rồi các nhà triết học Pháp (René Descartes, Montesquieu, Blaise Pascal, Henri Bergson) và Đức (Emmanuel Kant, Arthur Schopenhauer, Friedrich Nietzche, người vô cùng thành công ở Trung Quốc). Những tác giả như John Dewey, Bertrand Russel, Henri Bergson cũng gây tiếng vang lớn giữa hai cuộc chiến tranh.

Nhưng việc phương Tây hóa tư tưởng chưa hoàn toàn. Nó được kèm theo hai kiểu phản ứng đặc trưng của sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa: những ý đồ tổng hợp, một bên, và những phản ứng tân truyền thống, một bên khác.

Trước hết, một số nhà trí thức thử làm một sự pha trộn giữa tư tưởng phương Tây và truyền thống của họ. ở ấn Độ, một ví dụ rõ ràng của sự tổng hợp giữa tư tưởng phương Đông và phương Tây là của Bengali Shri Aurobindo (1872-1950). Được giáo dục ở các trường đại học Anh, khi về xứ sở mình, ông đã làm một sự pha trộn hổ lốn giữa ấn Độ giáo (các Veda, Vedanta, yoga) và một thứ triết học tiến hóa luận noi theo phương Tây (14).

Sự du nhập những ý tưởng phương Tây cũng gây ra những phản ứng tân truyền thống. Người ta thấy có những ví dụ ở Trung Quốc giữa hai cuộc chiến tranh, khi các tác giả định ủng hộ một cuộc cách tân đối với những tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo (15). Cũng vậy, ở Nhật Bản hay ở ấn Độ, người ta cũng chứng kiến những phản ứng tương tự. Nhưng hiện tượng ấy không chỉ thấy có đối với triết học. Người ta cũng thấy nó trong văn học hay điện ảnh.

Phương Tây hóa, lai ghép, phản ứng tân truyền thống, các tư tưởng phương Đông rốt cuộc đã biết tới số phận của tất cả các văn hóa khác trên thế giới. ở New Delhi, Bắc Kinh hay Kyoto, cũng giống như trên phần hành tinh còn lại, người ta thấy nhiều ảnh hưởng khác nhau nằm bên cạnh nhau hay trộn lẫn nhau trong một thế giới: Internet, vật lý hiện đại và những khát vọng Phật giáo hay ấn Độ giáo. Một nghịch lý: chính vào lúc những tư tưởng phương Đông trải qua một trong những đảo lộn lớn nhất trong lịch sử của chúng, thì ở phương Tây, một số người lại muốn phát hiện ra một tư tưởng phương Đông vĩnh hằng... không bao giờ thật sự tồn tại cả.

Trung Phương dịch từ tiếng Pháp
nguồn : Tạp chí văn hóa nghệ thuật
Sin Ân
Hình đại diện của thành viên
sinan
 
Bài viết: 193
Ngày tham gia: Thứ 2 21/05/07 20:40
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 3 lần

QUAN HỆ GIỮA MINH TRIẾT VÀ TRIẾT HỌC

Gửi bàigửi bởi VOVANTHANH » Thứ 4 12/12/07 19:31

Câu hỏi của Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến như sau:
Theo đạo Phật, quan hệ giữa sự minh triết và triết học như thế nào? Người ta nói ở phương Đông có sự minh triết, nhưng không có triết học. Điều này, theo ông đúng hay không đúng?
Thiên Chúa giáo nói nhiều đến sự quan hệ giữa lý trí và đức tin. Đạo Phật thấy quan hệ đó như thế nào?
Trả lời:
Tôi cho rằng nhận định phương Đông không có triết học mà chỉ có sự minh triết (tiếng Anh là wisdom, tiếng Pháp là sagesse) là một sai lầm. Nội dung của sự minh triết là một nếp sống và lề lối ứng xử xuất phát từ nhận thức của nhà minh triết đối với bản chất của vũ trụ, xã hội và nhân sinh. Nhà minh triết nào ít nhiều cũng có giảng dạy và có học trò. Họ dùng ngôn ngữ, cái mà thần học Thiên Chúa giáo gọc là logos (lời nói có ý nghĩa) để trao truyền cho học trò mình nhận thức của họ đối với bản chất của vũ trụ, xã hội và nhân sinh. Tất nhiên, trong khi họ giảng dạy để trình bày nhận thức trực quan của họ đối với thực tại, do ngôn ngữ là một công cụ bất toàn không phải là một ngôn ngữ triết học chuyên môn cho nên họ phải dùng nhiều ảnh dụ, biểu tượng và đôi khi phải tạo ra nhiều từ ngữ mới, vốn không có trong kho ngôn ngữ thường dùng của cộng đồng dân tộc mà họ là thành viên.
Phật Thích Ca và Chúa Jesus, khi truyền đạo đã dùng rất nhiều ảnh dụ và biểu trưng, bây giờ còn lưu lại khá nhiều trong ba tạng kinh Phật cũng như trong sách Tân Ước.
Tôi cho rằng, những hình vẽ trên mặt trống đồng của người Lạc Việt đã thể hiện nhận thức trực quan của các nhà minh triết Lạc Việt đối với vũ trụ, nhân sinh và xã hội của họ.
Chúng ta không biết các nhà minh triết Lạc Việt có giảng dạy cho học trò mình triết lý của biểu tượng trống đồng hay không, nhưng nếu có, rồi được khẩu truyền và bình luận từ thế hệ này sang thế hệ khác thì chúng ta cũng có một hệ triết lý về vũ trụ, xã hội và nhân sinh của người Lạc Việt. Tôi nói như vậy để minh chứng là không có gì mâu thuẫn giữa sự minh triết (wisdom) và triết học (philosophy).
Tôi thật không hiểu vì sao ngày nay, vẫn có người nói phương Đông chỉ có sự minh triết mà không có triết học, trong khi triết học là hệ quả logic của sự minh triết mà thôi. Minh triết thể hiện nhận thức trực quan của nhà minh triết đối với vũ trụ, xã hội và nhân sinh, còn triết học làm chức năng lý giải và bình luận về nhận thức minh triết đó.
Câu hỏi thứ hai của Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến về mối quan hệ giữa đức tin và lý trí trong đạo Phật thì xin phép trả lời như sau:
Đạo Phật rất coi trọng đức tin, nếu đó là niềm tin vào điều hay điều phải thì sách Phật gọi là chánh tín. Thí dụ, lý nhân quả tin có cuộc sống kiếp sau, tin mọi sự vật và hiện tượng trên thế gian này đều là vô thường, thay đổi liên tục v.v...Những niềm tin như vậy, theo đạo Phật là cội nguồn của mọi điều thiện và là một sức mạnh tinh thần lớn lao, bởi lẽ nó giúp con người thăng hoa và hướng thượng. Nó tôn vinh con người thay vì hạ thấp con người xuống. Một niềm tin như thế phù hợp với lý trí, chứ không xung đột với lý trí, không đến nỗi như triết gia Kant phải nói là “Phải dẹp bớt lý trí để nhường chỗ cho lòng tin”.
Trái lại Phật giáo phê phán những niềm tin làm cho con người mê muội (mê tín) hay là cuồng loạn (cuồng tín). Đạo Phật cảnh cáo các Phật tử phải luôn luôn giữ đầu óc tỉnh táo, để phân biệt thiện ác, đúng sai trong mọi trường hợp, thậm chí ngay cả trong khi đọc sách Phật hay nghe giảng. Nếu có những điều gì trong sách Phật hay là khi nghe giảng mà mình không hiểu thì hãy gác ra một bên, không tin vội, mà phải tìm hiếu, và suy tư theo chiều sâu hay là tham vấn các bạn lành.
Trí thức con người là có hạn. Có rất nhiều điều ghi trong sách có thể vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận, miễn là chúng không mâu thuẫn với lý trí và đạo đức. Thí dụ, sách Phật nói đến nhiều cõi sống cao cấp hơn cõi người rất nhiều, được gọi là các cõi Trời. Tuy chúng ta không trực tiếp biết, có các cõi Trời hay không, thế nhưng sự tồn tại của các cõi sống cao cấp hơn cõi người là một giả thuyết, một khả năng không mâu thuẫn với lý trí, cũng không mâu thuẫn với dự đoán khoa học, đặc biệt là Thiên văn học.
Đạo Phật rất đề cao trí tuệ mà thông thường người ta gọi là lý trí. Có loại trí tuệ do học hỏi mà có, gọi là văn tuệ. Có loại trí tuệ do suy tư theo chiều sâu mà có gọi là tư tuệ. Có loại trí tuệ do trực nghiệm mà có gọi là tu tuệ. Ba loại trí tuệ này không mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau, giúp cho nhau hoàn thiện, khiến con người đạt tới được trí tuệ hoàn thiện hay siêu việt, hay trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, thấy được tất cả, biết được tất cả. Đó là trình độ giác ngộ của các đức Phật, được tôn gọi là những Bậc toàn giác (Omniscient).
Hy vọng bài trả lời ngắn này của tôi giúp Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến được vui vẻ và thỏa mãn.
Minh Chi
"What ever joy there is in this world, all comes from desiring others to be happy."
Hình đại diện của thành viên
VOVANTHANH
 
Bài viết: 117
Ngày tham gia: Thứ 5 28/06/07 19:34
Đến từ: Vietnam, HCM City
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần


Quay về Quan hệ văn hóa Đông - Tây

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến1 khách

cron