LỄ VU LAN
Đã gửi: Thứ 4 02/09/09 23:08
Rằm tháng 7 âm lịch là tiết Trung nguyên của Đạo giáo, đồng thời lại là lễ Vu lan của Phật giáo - lễ xá tội vong nhân thường được tổ chức tại các chùa, làm cỗ chay chân tế cầu kinh Vu lan, cầu siêu cho các vong hồn lang thang. Trong dân gian vào ngày rằm tháng bảy, người ta làm lễ cúng cô hồn. Thưở sinh thời, Nguyễn Du có viết bài Văn chiêu hồn hay còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh nhân dịp này để tỏ lòng xót thương và mong mỏi các cô hồn được siêu thoát.
Đoạn trích Văn chiêu hồn của Nguyễn Du:
... " Cũng có kẻ vào sông, ra bể
Cánh buồm này chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê
Cùng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan
Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá biết nhờ cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh,
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ. lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giống đứt dây
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người có đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,
Cầu Nại hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn phiêu phách lạc biết đâu bây giờ?"
Ngày nay, trong dân gian, lễ cúng cô hồn vào ngày rằm tháng bảy vẫn còn diễn ra tùy theo khả năng kinh tế của từng gia đình. Gia đình khá giả thì mâm cúng đầy thịt quay, thịt luộc; kém hơm một chút thì cũng mâm cơm chay hoặc mặn, còn kém cõi chút nữa thì cúng cháo trắng. Tuy nhiên, trong mâm cúng lúc nào người ta cũng bày các loại bánh trái như cóc, ổi, mía, ... và bánh men, bánh bò, bánh da lợn, ... cùng với giấy tiền hàng mã, gạo, muối. Đặc biệt, ở nông thôn miền Tây Nam bộ, người ta thường bày mâm cúng trên các bè được kết bằng bè chuối hoặc bặp dừa nước và đặt mâm cúng ở các ngã ba của sông, rạch, vàm tức những nơi giáp nước. Sau khi gia chủ thắp nhang khấn vái mời gọi vong hồn của:"Chiến sĩ tử vong; Đồng bào tử nạn;Hà xa ngạ quỷ; Thập nhị loại cô hồn" về nhậm lễ và dùng cây làm dùi gõ lên gáo dừa tạo tiếng vang xong, thì người ta bắt đầu đốt giấy hàng mã, rải gạo muối, sau đó dùng cây sào đẩy bè cúng trôi ra giữa dòng để bè tự trôi ngược dòng nước. Lúc này thì trẻ con ào ào nhảy xuống sông tranh nhau bơi theo bè cúng để giành giật lấy những thứ cúng trên bè mà ăn và đùa vui thỏa thích.
(Sưu tầm và trích từ Tục lệ cưới gả, tang ma của người Việt xưa của Phan Thuận Thảo (1991))
Đoạn trích Văn chiêu hồn của Nguyễn Du:
... " Cũng có kẻ vào sông, ra bể
Cánh buồm này chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê
Cùng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan
Dãi dầu nghìn dặm, lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá biết nhờ cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh,
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ. lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giống đứt dây
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người có đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,
Cầu Nại hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn phiêu phách lạc biết đâu bây giờ?"
Ngày nay, trong dân gian, lễ cúng cô hồn vào ngày rằm tháng bảy vẫn còn diễn ra tùy theo khả năng kinh tế của từng gia đình. Gia đình khá giả thì mâm cúng đầy thịt quay, thịt luộc; kém hơm một chút thì cũng mâm cơm chay hoặc mặn, còn kém cõi chút nữa thì cúng cháo trắng. Tuy nhiên, trong mâm cúng lúc nào người ta cũng bày các loại bánh trái như cóc, ổi, mía, ... và bánh men, bánh bò, bánh da lợn, ... cùng với giấy tiền hàng mã, gạo, muối. Đặc biệt, ở nông thôn miền Tây Nam bộ, người ta thường bày mâm cúng trên các bè được kết bằng bè chuối hoặc bặp dừa nước và đặt mâm cúng ở các ngã ba của sông, rạch, vàm tức những nơi giáp nước. Sau khi gia chủ thắp nhang khấn vái mời gọi vong hồn của:"Chiến sĩ tử vong; Đồng bào tử nạn;Hà xa ngạ quỷ; Thập nhị loại cô hồn" về nhậm lễ và dùng cây làm dùi gõ lên gáo dừa tạo tiếng vang xong, thì người ta bắt đầu đốt giấy hàng mã, rải gạo muối, sau đó dùng cây sào đẩy bè cúng trôi ra giữa dòng để bè tự trôi ngược dòng nước. Lúc này thì trẻ con ào ào nhảy xuống sông tranh nhau bơi theo bè cúng để giành giật lấy những thứ cúng trên bè mà ăn và đùa vui thỏa thích.
(Sưu tầm và trích từ Tục lệ cưới gả, tang ma của người Việt xưa của Phan Thuận Thảo (1991))