Nếu như bánh chưng là thứ không thể thiếu trong ngày Tết ở miền Bắc, thì bánh Tét là một trong những lễ vật khá quan trọng trong mâm cỗ ngày Tết của người phương Nam. Thực tế này được phản ánh trong câu đối “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” và câu ca dao quen thuộc: “Chim kêu ba tiếng ngoài sông/Mau lo lựa nếp hết đông Tết về”.
Từ câu chuyện cổ tích “ Sự tích Bánh chưng bánh dày”, người Việt Nam ta đã có một cách giải thích rất nhân văn về nguồn gốc và ý nghĩa của bánh chưng: “Bánh chưng chẳng những ngon và quý mà còn mang nhiều ý nghĩa đặc biệt. Nó bày tỏ lòng hiếu thảo của người con, tôn cha mẹ như trời đất. Nó chứa đầy một tấm tình quê hương ruộng đồng. Nó rất dễ làm vì làm bằng những hạt ngọc quý nhất trong những hạt ngọc của trời đất, nhưng mà những hạt ngọc ấy mọi người đều làm ra được. Phải là người có tài mới nghĩ được một loại bánh như vậy...”. Điều đặc biệt ở đây, bánh chưng là hình ảnh thu nhỏ của nền nông nghiệp Việt Nam, là biểu tượng của nền văn hóa nông nghiệp, nền văn minh lúa nước. Mặt khác, dựa vào đặc điểm những hạt nếp dẽo thơm, dính với nhau rất chặt, người Việt Nam xem đó là biểu trưng của tinh thần đoàn kết, thống nhất của dân tộc; và bánh tét là biểu tượng của ý thức cộng đồng.
Bánh tét và bánh chưng tuy hình hài khác nhau nhưng cái cốt, cái hồn thì vẫn vậy, vẫn giữ nguyên những giá trị truyền thống. Với cách thay đổi hình dạng từ hình vuông sang hình trụ tròn, bánh tét rất dễ gói và có thể bảo quản được lâu hơn bánh chưng. Bánh tét có thể đem theo bên mình những lúc đi xa, có thể để dành khi giặc giã bằng cách giấu trong lu, trong giếng nước, ém xuống mương vườn mười ngày, nửa tháng vớt lên ăn vẫn ngon như thường. Thay đổi để thích ứng với điều kiện mới, hoàn cảnh mới, với quá trình vận động lịch sử đó là cách giải thích thuyết phục nhất khi nói về cuộc hành trình của bánh chưng từ miền Bắc đi vào miền Trung và miền Nam thì lại mang hình dáng mới của bánh tét. Tuy hình dáng có thay đổi, nhưng chất liệu và hương vị của bánh tét vẫn không khác gì bánh chưng.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nir Avieli- Đại học Quốc gia Singapore cho rằng: nếu các loại bánh khác như bánh ú, bánh trung thu có nguồn gốc từ Trung Quốc, thì bánh tét và bánh chưng thì không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy nó có nguồn gốc từ Trung Quốc. Quan điểm đó, một lần nữa khẳng định Sự tích bánh chưng bánh dày không chỉ là sự sáng tạo của trí tưởng tượng mà nó có cơ sở và nền tảng từ thực tế.
Bánh tét là sự cụ thể hóa của bản sắc dân tộc Việt Nam, nó phản ánh được mối liên hệ giữa phong tục và ý thức cộng đồng. Chính vì vậy, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cây nêu, tràng pháo có thể đã vắng bóng trong ngày Tết, nhưng bánh tét và bánh chưng vẫn là biểu tượng của ngày xuân.
(Bài viết có sử dụng tư liệu từ bài nghiên cứu Vietnamese New Year rice cakes iconic festive dishes and contested national identity- của tác giả Nir Avieli- Đại học Quốc gia Singapore)