Phong tục cưới hỏi Việt Nam

Đây là nơi các thành viên Diễn đàn trao đổi các vấn đề về văn hoá Việt Nam

Phong tục cưới hỏi Việt Nam

Gửi bàigửi bởi dulichtrangmat » Thứ 4 05/10/11 9:35

1. Chạm ngõ ( ngày xưa được gọi là Lễ vấn danh)

“Chạm ngõ” (hay lễ “Dạm”) là cái lễ đầu tiên nhà trai mang đến nhà gái nhằm tìm chỗ đi lại, hỏi rõ tên tuổi người con gái (vấn danh) . Người ta hỏi tuổi người con gái rồi đối chiếu với tuổi người con trai xem có “hoà hợp” hay “xung khắc”. Đây là một việc làm mà người xưa rất coi trọng cũng như việc xem xét gia đình hai bên có “Môn đăng hộ đối” hay không để quyết định có hay không việc thành thân cho đôi lứa sau này. Trong khi “Công, dung, ngôn, hạnh” lại là tiêu chuẩn hàng đầu, cái cần nhất khi nhìn nhận một người con gái thì các gia đình có nền nếp bao giờ cũng quan tâm. Ngày nay, lễ “Chạm ngõ” vẫn được xem như một thủ tục cần thiết, không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi. Đây là dịp để hai gia đình “Chỗ người lớn” chính thức gặp nhau. Nhà trai ngỏ lời xin phép nhà gái cho “bọn trẻ” được công khai đi lại, tìm hiểu nhau. Người ta vẫn giữ nếp chọn ngày, giờ đẹp (thường là ngày hoàng đạo) cho công việc quan trọng này.

2. Thách cưới

Thách cưới là một lệ tục lạc hậu rơi rớt lại, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái. Có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên phận hẩm duyên hiu. Ngày nay, tục thách cưới gần như đã không còn nữa, mà đó chỉ còn là một thủ tục để nhà trai tỏ lòng tôn trọng nhà gái. Cho nên trước khi ăn hỏi, nhà trai đến nhà gái xin ý kiến về vấn đề này, thường thì nhà gái không nêu yêu cầu cụ thể mà nói “Tuỳ thuộc vào nhà trai“, âu cũng là nét đẹp văn hoá thể hiện tình cảm và mối giao hoà giữa nhà trai và nhà gái.

3. Ăn hỏi

Đồ lễ ăn hỏi có rất nhiều thứ tuy nhiên nó tuỳ thuộc vào mỗi gia cảnh. Ví dụ như bánh cốm, bánh su sê, chè, thuốc lá, rượu, hạt sen, trầu cau, ... có gia đình còn có lợn sữa quay. Lễ vật nhiều, ít cũng như đã nói ở trên nhưng không thể thiếu bánh “Su sê”, nguyên xưa gọi là bánh “Phu thê”, một số địa phương nói chệch thành bánh “Su sê”. Sở dĩ gọi là bánh “Phu thê” (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa: Ngoài thì vuông tròn, trong lại mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm. Bánh cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dưng ngũ hành: ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.

4. Lễ xin dâu có ý nghĩa gì?

Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu nhà trai cử một hoặc hai người thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp. Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thỏa thuận với nhau miễn bớt lễ này hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau: Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn dừng lại chỉnh đốn trang y, sắp xếp lại thứ tự ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng một người đội lễ (một mâm quả trong đó đựng trầu, cau, rượu...) vào trước đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra đưa đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào đáp lễ xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.

5. Tổ chức lễ cưới (thường là cùng với tiệc cưới)

Ngày nay, các đám cưới đã bắt đầu tổ chức với phong cách mới với hình thức tiệc trà theo nếp sống mới, hay tiệc đứng, tiệc mặn. Tiệc cưới là buổi tiệc của gia đình tổ chức để mời họ hàng, bè bạn, người thân đến để chung vui đồng thời là lễ ra mắt của cô dâu, chú rể đối với họ hàng, bạn bè và người thân của họ. Bữa tiệc này thường được tổ chức rất trang trọng. Tiệc cưới được nhà trai và nhà gái tổ chức riêng hay chung tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và sự lựa chọn của chính họ.

6. Lễ lại mặt có ý nghĩa gì?

Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình.

Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá trinh nàng Kiều xong dùng "Nước vỏ Lựu", "Máu mào gà" hòng lường gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh).

Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:

- Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như bố mẹ mình.

-Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi đầu, tình cảm được nhân đôi.

- Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho đôi trẻ trong tương lai.
7.Những hủ tục chúng ta cần loại bỏ:

- Tảo hôn .
- Thách cưới nặng .
- Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy .
- Môn đăng hộ đối .
- Tổ chức tiệc cưới linh đình, tốn kém. :P
RANDOM_AVATAR
dulichtrangmat
 
Bài viết: 4
Ngày tham gia: Thứ 3 13/09/11 12:52
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Phong tục cưới hỏi Việt Nam

Gửi bàigửi bởi phuongthanhtsk » Thứ 7 08/10/11 22:59

Theo mình thấy thì ở địa phương mình (Củ Chi, TP.HCM), mà cụ thể nhất là trong gia đình mình, việc cưới hỏi đã được đã được đơn giản hóa so với phong tục truyền thống như bạn nêu trên rất nhiều:
+ Thứ nhất là "bỏ rượu": đại diện bên nhà trai (bố mẹ chú rễ tương lai) sẽ mang theo một cặp rượu đến nhà gái để gặp gỡ và nói chuyện với bố mẹ cô dâu tương lai. Bước đầu là chào hỏi, sau đó là bày tỏ ý muốn lấy vợ cho con trai mình, sau đó là cả hai nhà cùng bàn bạc để chọn ngày lành tháng tốt và chuẩn bị tổ chức lễ hỏi, lễ cưới. Phần "thách cưới" cũng được tiến hành trong buổi "bỏ rượu" này. Nói là "thách cưới" vậy thôi, chứ cũng không phải là thách cưới quá nặng nề mà là cả hai bên cùng thỏa thuận trên tinh thần vui vẻ sao cho vừa ý đôi bên thôi. Chẳng hạn như là sính lễ có mấy quả, quả gì với quả gì,...rồi đám hỏi thì bên trai được phép sang bao nhiêu người,... Sau đó bên nhà gái sẽ nhận rượu, việc làm này được xem như là bên nhà gái đã đồng ý với chuyện cưới xin này. Trong buổi "bỏ rượu" này có một vài nét, đó là:
- Diễn ra đơn giản, nhà gái cũng chỉ chuẩn bị đơn giản trà bánh, bố mẹ nhà gái và nhà trai nói chuyện với nhau, cô dâu chú rễ có thể vắng mặt vì lí do bận việc cũng không sao.
- Nếu bên nhà gái đã nhận rượu là đồng nghĩa với việc đồng ý chuyện gả con gái cho người ta. Mà trả rượu là có nghĩa là thay đổi quyết định, không muốn tính tới chuyện cưới hỏi này nữa.( Nhưng thường thì bố mẹ vì danh dự dòng họ và không muốn mất mặt nên sẽ không cho con gái mình làm như vậy, lúc đầu cho con toàn quyền quyết định, không ép uổng, nhưng khi đồng ý rồi là không được thay đổi).
+ Thứ hai là "lễ hỏi" hay còn gọi là "đám hỏi": lễ này được tổ chức bên nhà gái, tổ chức với số lượng khách mời nhất định, chỉ mời bà con họ hàng và bạn bè thân thiết nhất thôi, trang phục cô dâu trong lễ hỏi cũng đơn giản nhưng duyên dáng với áo dài hồng hoặc đỏ. Sau khi kết thúc lễ hỏi thì chú rễ phải ở lại bên nhà vợ phụ công việc tới chiều mới về. Tính về độ "hoành tráng" của các món ăn trong lễ hỏi thì tùy gia cảnh sẽ khác nhau.
+ Thứ ba là "lễ cưới" hay còn gọi là "đám cưới": lễ này có ý nghĩa quan trọng quyết định vì nó là ngày cô dâu chú rễ chính thức nên duyên vợ chồng. Tiệc cưới thì tổ chức linh đình hơn tiệc hỏi. Mời tất cả bà con bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Cả lễ cưới và lễ hỏi đều diễn ra với nghi thức tương đối giống nhau, là nhà trai mang sính lễ đến. Sính lễ nhà trai mang tới cũng tùy vào gia cảnh, nhưng tối thiểu phải có 4 quả gồm trầu cau, nữ trang cho cô dâu (lễ hỏi là dây chuyền, vòng tay, lễ cưới là nhẫn, thêm nhiều món trang sức khác,...), bánh cưới, trái cây. Có nhà khá giả thì mang sính lễ tới 8 quả, nhưng hiện nay thường người ta mang 6 quả. Ông mai (người làm chủ hôn) sẽ đứng ra phát biểu rồi mời hai bên song thân của cô dâu chú rễ lên phát biểu, rồi cô dâu chú rễ trao nhẫn cho nhau, cuối cùng là cô dâu chú rễ mời rượu bà con hai họ, rồi mới bắt đầu đãi tiệc.

Đó là kinh nghiệm của mình từ việc đi ăn đám cưới (người thân và bạn bè) nhiều :lol: nên mình mới biết, nên muốn chia sẻ cùng mọi người^^.
Mình hoàn toàn đồng ý với ý kiến của "dulichtrangmat" về các hủ tục trong lễ cưới mà chúng ta cần loại bỏ.
Mình nghĩ rằng lễ cưới là thiêng liêng, có ý nghĩa quan trọng trong đời người, nên cần phải chia vui cùng với bạn bè xóm giềng. Nhưng không nên tốn kém quá thì người chịu khổ sau khi cưới chỉ có cô dâu chú rễ thui, hihi.
Quan trọng nhất là hai bên gia đình trai gái tôn trọng nhau, cùng vì hạnh phúc của con mình. Cô dâu chú rễ sau khi thành vợ chồng sẽ sống hạnh phúc đó mới là điều quan trọng! :D :D :D :D :D

Các bạn khác có ý kiến gì thì chia sẻ với nhé! :)
Hình đại diện của thành viên
phuongthanhtsk
 
Bài viết: 44
Ngày tham gia: Thứ 2 12/09/11 19:22
Đến từ: TPHCM
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Phong tục cưới hỏi Việt Nam

Gửi bàigửi bởi yeunahang » Thứ 2 17/10/11 14:21

Phong tục mỗi nơi một khác, điều đó làm nên bản sắc riêng của mỗi vùng miền
[url=http://btk-online.vn/] Sống là phải biết chờ đợi [/url\
Hình đại diện của thành viên
yeunahang
 
Bài viết: 1
Ngày tham gia: Thứ 2 17/10/11 14:12
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Phong tục cưới hỏi Việt Nam

Gửi bàigửi bởi dangngoclinh » Thứ 3 18/10/11 16:47

Mình nghĩ những phong tục hiện nay đã được đơn giản đi nhiều so với trước kia, nhưng phần lớn vẫn giữ được những nét chính mà bạn dulichtrangmat đã đưa ra, theo mình đó là những nét đẹp trong phong tục cưới hỏi của người VN.
Có thể là có những cách gọi khác nhau nhưng nội dung cũng tương tự nhau. Ví dụ như trong cách gọi lễ "bỏ rượu" của bạn phuongthanhtsk và lễ "chạm ngõ" của bạn dulichtranmat hay còn gọi là lễ "dạm ngõ". Trong buổi lễ này, người lớn hai bên gia đình chính thức nói chuyện với nhau, nhà trai xin phép nhà gái cho đôi trẻ được đến với nhau, cùng bàn đến chuyện hỏi, cưới. Tùy theo điều kiện hai bên gần hay xa nhau, trong buổi này cũng có thể bàn đến "sính lễ" và thách cưới (nếu có). Đúng như hai bạn nhận định, thách cưới ngày nay hầu như không còn mà chỉ tùy theo điều kiện của nhà nhà trai. (Chứ nếu thách nhiều quá mất công mai mốt cô dâu chú rể phải nai lưng trả nợ, mà cô dâu có về nhà chồng thì cũng bị ... hichic... :mrgreen: ). Lễ này có thể ngầm hiểu cô gái ở nhà này đã có người đặt rồi, các chàng trai khác hãy tránh xa ;)
Lễ hỏi là sự thông báo chính thức về việc hứa gả con của hai gia đình, cô gái chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai. Ngày nay có thể một số gia đình vì điều kiện kinh tế hoặc điều kiện địa lý (ở xa), hai lễ cưới và hỏi có thể được gộp làm một, sự quy giản này phần nào cho chúng ta thấy sự thích nghi của văn hóa cổ truyền trong xã hội đương đại.
Còn lễ xin dâu mình cũng đồng ý là diễn ra rất nhanh chóng "khi đó một cụ già (người đại diện cho nhà trai) đi đầu họ cùng một người đội lễ (một mâm quả trong đó đựng trầu, cau, rượu...) vào trước đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra đưa đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu", có khi bạn phuongthanhtsk không để ý đấy :)
RANDOM_AVATAR
dangngoclinh
 
Bài viết: 20
Ngày tham gia: Chủ nhật 18/09/11 21:56
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần

Re: Phong tục cưới hỏi Việt Nam

Gửi bàigửi bởi lexuanhau » Chủ nhật 23/10/11 19:42

Theo mình trước đây hôn nhân của người Việt phải tuân thủ theo lục lễ (06 lễ) bao gồm:
+ Lễ Nạp thái (hai bên nhà trai, nhà gái trao đổi đính ước),
+ Lễ Vấn danh (nhà trai đến nhà gái làm lễ hỏi tên tuổi, năm sinh của cô gái xem có hợp nhau không),
+ Lễ Nạp cát (sau khi so tuổi không có gì trở ngại, hai bên tiến hành lễ chấp nhận sự đính ước),
+ Lễ Nạp tệ (ăn hỏi) nhà trai đến nhà gái thoả thuận việc tiến hành hôn lễ cùng những chi phí cho cô dâu,
+ Lễ Thỉnh kỳ (nhà trai đến nhà gái quyết định ngày cưới),
+ Lễ Thân nghinh (lễ cưới) nhà trai đến nhà gái nạp lễ, đón dâu về, làm lễ cúng gia tiên ra mắt cô dâu chính thức về nhà chồng.
Hiện nay, “lục lễ” trên đã được giản lược; hôn lễ chỉ còn có 2 lễ: lễ hỏi và lễ cưới (một số gia đình có điều kiện thực hiện thêm lễ đính hôn), hôn lễ tiến hành theo tục lệ chung, rất ít gia đình giữ được tục lên đèn trong ngày cưới. Những đòi hỏi, những thách cưới quá đáng trong cưới hỏi cũng dần được bỏ qua, những tệ nạn, mê tín dần được xoá bỏ, không còn nạn tảo hôn, không còn hiện tượng ép hôn, trai gái được tự do tìm hiểu nhau. Trước kia lễ cưới diễn ra trong 3 ngày: ngày đầu dựng thảo bạc, ngày thứ hai nhóm họ, ngày sau rước dâu; nay thì nhà gái nhóm họ hôm trước (Vu quy), hôm sau nhà trai đón dâu (Tân hôn); cũng có khi do điều kiện nên hai họ gộp chung lại đãi Thành hôn.
RANDOM_AVATAR
lexuanhau
 
Bài viết: 17
Ngày tham gia: Thứ 4 14/09/11 11:31
Cảm ơn: 0 lần
Được cám ơn: 0 lần


Quay về Văn hóa Việt Nam

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến3 khách

cron