Định nghĩa về Phật giáo:Khi xem xét khái niệm và đưa ra định nghĩa theo bài bản thì phải thực hiện qua sáu bước, và điều đó hết sức cần thiết.
Trước tiên, về khái niệm này có liên quan đến khái niệm tôn giáo cho nên chúng ta sẽ điểm qua khái niệm này, trong từ điển Encartar có đinh nghĩa tôn giáo như sau: “Religion, sacred engagement with that which is believed to be a spiritual reality. Religion is a worldwide phenomenon that has played a part in all human culture and so is a much broader… tạm dịch là: “tôn giáo là niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên, thàn thánh; tin vào sự tồn tại cảu linh hồn. Tôn giáo là một hiện tượng rộng khắp thế giới, nó được xem như là một phần của văn hóa nhân lọai cho nên rất phổ biến…”[1]
“ d. 1 hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên đinh đọat tất cả, con người phải phục tùng và tôn thờ. Tôn giáo nảy sinh rất sớm, từ trong xã hội nguyên thủy. 2.Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy[2]
"Tôn giáo, đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng (sacred) và trần tục (profane). Trần tục là những gì bình thường trong cuộc sống con người, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa tôn giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân loại và vũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì thế những tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học. Số tôn giáo được hình thành từ xưa đến nay được xem là vô số, có nhiều hình thức trong những nền văn hóa và quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo lớn được nhiều người theo hơn những tôn giáo khác.
Đôi khi từ "tôn giáo" cũng có thể được dùng để chỉ đến những cái gọi đúng hơn là "tổ chức tôn giáo" – một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ phụng, thường có tư cách pháp nhân."[3]
Bên cạnh đó đó còn có một số định nghĩa về tôn giáo khác về tôn giáo như trong tác phẩm Chống Dubring Ănghen “mọi tôn giáo đều là bóng phản ánh hư ảo của những lực lượng bên ngòai vào trong đầu óc người. những lực lượng đó ngự trị cuộc sống cá nhân của con người. Trong cái bóng phản ánh đó, những lực lượng thế gian lại mang hình thức những lực lượng siêu thể.”[4]
"Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:
• Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ.
• Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhân bản thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết bất khả tri, vì những hệ thống này không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.
• Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất", định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất tôn giáo", nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.
• Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của tất cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào một vị trí trái ngược với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần" về việc tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh. Tuy nhiên, trong nghĩa này tôn giáo và tinh thần không cần phải "được cái này mất cái kia": một người sùng đạo có thể có tinh thần hay không tinh thần, và một người có tinh thần có thể có hay không sùng đạo. Theo tương tự, ta có thể xem "tôn giáo" như là than, củi, hay xăng, và "tinh thần" là ngọn lửa.. "[5]
Đến đây thông qua 4 cách định nghĩa về tôn giáo: "lối theo chức năng", "lối theo hình thể", "lối theo chứng cớ vật chất", và "lối tổ chức". Khi nghiên cứu về Phật giáo, để đưa ra khái niệm về Phật giáo có lẽ chúng ta nên tìm hiểu sơ qua về mục đích của Phật giáo, nguyên lý của đạo Phật là nêu lên nguyên nhân của sự Khổ (dukkha)[6]Và sự diệt khổ cho nên người ta gọi “Phật giáo là tôn giáo của “những người giác ngộ[7]”, dựa trên những lời giáo huấn của đức Phật trong lịch sử Shakyamuni (Thích ca mâu ni- “nhà hiền triết của của người sakyas”)[8]<…> mặc dù một số người cho rằng đây là triết lý chứ không phải là tôn giáo. Đạo Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng suy tàn sau thế kỷ 12 và 13, phổ biến khắp châu Á và sau cùng sang phương Tây. Ở châu Á, đạo Phật còn gọi là Buddha Dhamma (Phật pháp) hoặc “chân lý vĩnh hằng của những người giác ngộ”, ám chỉ cả chân lý về đức Phật tán thành”[9].
Như vậy để đưa ra định nghĩa về Phật giáo (Buddha Dhamma hay tiếng Anh là Buddhism). Trong bài What is Buddhism của hội Phật học miền Bắc châu Úc (What Is Buddhism?The Buddhist Society of Western Australia) trong phần nội dung của bài viết The teaching of Buddha về nội dung Phật giáo, trong cách thức tìm đến sự giác ngộ thì “The Buddha warned strongly against blind faith and encouraged the way of truthful inquiry<…>” tạm dịch là: Đức Phật không tán thành niềm tin mù quán mà khuyến khích tìm con đường thực chứng <…> và thực hành lời dạy của ngài bằng các công án thiền định (luyện tâm đạt đến trạng thái giác ngô)” “applies to the Buddha's own Teachings. They should be considered and inquired into using the clarity of mind born of meditation” và thực hành theo tứ diệu đế đạo “Four Noble Truths” , con đường trung đạo và bát chánh đạo “The Middle Way or Eightfold Path” họ tin vào nghiệp (kamma) và sự tái sinh (rebirth), không tin vào đấng sáng tạo (no creator god) và không có cái gọi là linh hồn vĩnh cữu “The Buddha taught that there is no soul, no essential and permanent core to a living being. Instead, that which we call a 'living being', human or other”[10].
Sau khi tìm hiểu qua một số những khái niệm có liên quan đến khái niệm Phật giáo, tôi xin chọn cách hiểu Phật giáo theo một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng" (Buddha Dhamma) hiểu theo cách gọi của Phật giáo Nguyên thủy (Theravàda – Thượng Tọa bộ, ở các nước châu Á như:TháiLan, Miến Điện, …) tán thành. Trước tiên là về ngữ nghĩa Phật giáo, gồm hai từ Buddha (người giác ngộ) + Dhamma (những lời dạy của Phật)[11] như vậy ở đây ta có hiểu Phật giáo là:
Những triết thuyết của bậc giác ngộ [tiếng Anh dùng từ Buddhism gồm có buddha(người giác ngộ)+tiếp vĩ ngữ ism(gốc Hy Lạp có nghĩa là chủ thuyết, học thuyết).
Như vậy ta có thể hiểu:
Phật giáo là một triết thuyết về sự giác ngộ.
Tiếp đến trên cơ sở đó ta có thể hiểu đạo Phật là:
Con đường đưa đến sự giác ngộ.
Ghi chú:
[1]
http://encarta.msn.com/encyclopedia_761 ... igion.html.
[2] [Hòang Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb.Đà Nẵng, 2006, trang 1011.
[3]
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n_g ... ngh.C4.A9a.
[4]Minh chi, Lý thuyết tôn giáo học, Học viện Phật giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh (lưu hành nội bộ), không có năm xuất bản, trang 63-64.
[5]http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n_gi%C3%A1o#.C4.90.E1.BB.8Bnh_ngh.C4.A9a
[6]Theo trong tạng luật (Vinaya pitaka) thì không cho những vị tu sĩ theo truyền thống Theravàda sử dụng tiếng Sanskrit vì tiếng Sanskrit là chỉ giới hạn chủ yếu trong tầng lớp quý tộc, Brahma (Bà-La-Môn) sử dụng là chủ yếu, còn tiếng Pàli là phổ biến cho mọi tầng lớp cho nên Phật giáo truyền thống đã chọn dùng thứ tiếng này, tiếng Pàli còn được gọi là “ngôn ngữ của cộng đồng Phật giáo”, cho nên ở đây chúng tôi sẽ thống nhất dùng tiếng Pàli, trừ những phần trích dẫn nguyên văn.
[7] Phật được phiên âm từ chữ Buddha nghĩa là người giác ngộ, (Đức Phật)[sọan giả Mahà Thera Bửu Chơn, Từ điển Pàli – Việt Nam (thu ngắn), Pl.2521-DL.1976 (lưu hành nội bộ), trang 229.
[8] Từ Sakyamuni – Âm Hán – Việt là Thích Ca Mâu Ni, thật ra Sakya là chỉ dòng tộc, đẳng cấp chiến binh, vua chúa; Muni: có nghĩa là thầy tu, tu sĩ, bậc đại giác.
[9]Rosemary Ellen Guiley (Nguyễn Kiên Trường và nhóm cộng sự dịch), Từ điển Tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt, Nxb. Tôn giáo, 2005, trang114-115.
[10]
http://www.budsas.org/ebud/ebdha030.htm.
[11] Nguyên nhân của sự khổ theo Phật giáo Ái (Tanha), đây là chi đầu tiên của 12 nhân duyên dẫn đến trạng thái luân hồi.