Văn học Nhật bản là nền văn học lớn và độc đáo trên thế giới. Những người
quan tâm văn học không ít ai không biết đến tác phẩm Truyện chàng Genji (Genji
monogatari) – tiểu thuyết từng được coi là đầu tiên trên thế giới, thơ haiku
ngắn gọn mà đa nghĩa, tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản với ai tác giả được nhận
giải thưởng Nobel văn học là Kawabata Yasunari và Ôe Kenzabunô. Nếu như nước Nhật
Bản duy tân được các trí thức Việt Nam biết đến từ rất sớm (khoảng những năm 70
của thế kỷ XIX) thì văn học Nhật Bản lại được biết đến muộn hơn rất nhiều. Có lẽ
chỉ đến khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra thì văn học Nhật Bản mới được nói
đến ở Việt
Tiếp nhận văn học Nhật Bản,
độc giả Việt
Thứ nhất: Cho là rất hay
nhưng khó hiểu.
Thứ hai : Cho là rất lạ
lùng, hơn nữa là xa lạ.
Cách suy nghĩ như vậy có
khác so với cách đánh giá về văn học phương Tây hay văn học Trung Quốc. Tại sao
như vậy? Có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng quan trọng nhất là quan niệm văn
học truyền thống của người Việt
Quan niệm văn học chính là
phần tự ý thức của nền văn học ấy về bản thân nó. Quan niệm ấy được thể hiện
trong các công trình nghiên cứu văn học, bài tựa, bạt trong mỗi cuốn sách và rải
rác trong các sáng tác hay thư từ của các nhà văn nhà thơ. Bài luận về văn học
sớm nhất trong văn học Nhật Bản là bài tựa tập thi tuyển Cổ kim Hoà ca tập, xuất
hiện vào thế X, tiếp đến là các tập: Tinh hoa tân tuyển (Shinsen zuinô),
Ghi chép bỏ túi (Fukuro zoshi), Mỗi nguyệt sao (Maigetsushô ), Ghi
chép lúc nhàn rỗi (Tsurezure gusa), Ghi chép để dưới gối (Makura
sôshi)…Bàn về đặc tính của văn học Nhật Bản không thể không kể đến bài Bàn về
Truyện chàng Genji của Motoori Norinaga, một học giả Quốc học nổi tiếng thời
Edo.
Các bài bàn về văn học Việt
Nam sớm nhất hiện nay còn có được là bài tựa sách Việt điện u linh tập của
Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), sau đó là bài tựa của các tuyển tập thơ văn : Việt
âm thi tập tân san của Phan Phu Tiên, Việt âm thi tập tân tuyển, Trích
diễn thi tập, Lĩnh Nam chích quái, các bài viết của Lê Quí Đôn, Cao Bá
Quát, Mộng Liên Đường chủ nhân v.v…Trong bài tiểu luận nhỏ này chúng tôi xin đi
vào vấn đề cơ bản nhất của quan niệm văn học là ý nghĩa của sự tồn tại văn học.
Những vấn đề này cơ bản nhất của quan niệm văn học là ý nghĩa của sự tồn tại của
văn học. Những vấn đề khác như ý thức nghệ thuật (thế nào là hay là đẹp), mối
quan hệ giữa văn học và các ngành nghệ thuật khác v.v…cũng không kém phần quan
trọng nhưng xin được trình bày theo dịp khác.
I.
Những điểm tương đồng
Những điểm giống nhau về
quan niệm văn học ít nhất có thể nói có ba loại:
1. Thứ nhất: Loại
có tính chất như là thuộc tính của văn học. Bất kỳ văn học nào được coi là văn
học, từ sự hình thành của nó cũng đều có.
2. Thứ hai :
Quan điểm văn học chịu ảnh hưởng của quan niệm văn học Trung Quốc.
3. Thứ ba :
Những điểm giống nhau do những điều kiện lịch sử văn hóa tương đồng.
Những nguyên lý có tính chất
căn bản của văn học như : văn học là nghệ thuật ngôn từ, văn học là phương tiện
biểu hiện tình cảm hay văn học là một trò chơi (như cách nói của I.Kant, triết
gia, nhà mỹ học Đức thế kỷ XVIII…) thì trong quan niệm văn học của Nhật Bản và
Việt Nam đều có.
Mở đầu bài tựa Cổ kim
Hòa ca tập (chân danh tự), Kino Yoshimochi viết: “Hòa ca bắt rễ từ lòng người,
nở hoa nơi từ ngữ. Người ta sống trên đời, không thể không làm gì. Suy nghĩ dễ
thay đổi lúc buồn lúc vui. Cảm động ở trong lòng, ca vịnh ra thành lời “ (1).
Quan niệm như vậy về nghệ thuật là quan niệm có tính chất phổ biến. Văn học Hy
Lạp, Aán Độ, Anh, Pháp, Trung Quốc hay Việt
Yù kiến trên của Kino
Yoshimochi có lẽ chẳng khác gì ý kiến của nhà biên khảo thơ Việt Nam Phan Chu
Tiên: “Trong lòng có điều gì, tất hình thành ở lời “ (2); hay Nguyễn
Dưỡng Hạo:” Trúc không có ý gió, nhưng gió đến thì trúc động mà sinh ra tiếng.
Lòng người ta không chứa cảnh vật, nhưng tiếp xúc với cảnh vật, lòng ngừơi cảm
xúc và thành thơ “ Bài tựa Phong trúc tập).
Nhật Bản và Việt
Những quan niệm nào về văn
học của Trung Quốc đã ảnh hưởng tới Nhật Bản và Việt
Một quan niệm như vậy có
thê rất thường gặp trong các bài luận về văn học của Việt
Về phía Việt
- Học theo ngòi bút chí công,
Trong thơ có ngụ tấm lòng Xuân Thu…
- Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà…
(bài Than đạo trong Ngư tiều y thuật vấn đáp)
Dùng văn học phải như là
con thuyền để khởi đạo. Nhà văn phải như là chiến sĩ, dùng ngòi bút để diệt trừ
cái ác, cái xấu, theo gương “biệt thiện ác” của Khổng Tử là kinh Xuân Thu.
Có thể quan niệm Nho gia văn học đã chi phối khá sâu sắc quan niệm văn học Nhật
Bản và Việt Nam, ít nhất cũng là trên bình diện phát ngôn trực tiếp, tức là nhận
thức có tính chất lý luận. Tuy nhiên trong thực tế sáng tác văn học Nhật Bản
thì tình hình lại khác đi. Điều này chúng tôi sẽ trình bày ở sau. Hơn nữa nội
dung của các đạo đức theo quan niệm của các nhà văn Trung Quốc, Nhật Bản và Việt
Nam lại không phải là hoàn toàn giống nhau.
Một điểm giống nhau nữa
trong quan niệm văn học giữa Nhật Bản và Việt
Ảnh hưởng của quan niệm văn
học Trung Quốc đến quan niệm văn học Nhật Bản và Việt Nam có thể thêm nhiều điểm
khác nữa như quan niệm “hậu cổ bạc kim”, một số tiêu chuẩn để đánh giá văn học
Trung Quốc đến quan niệm văn học “hậu cổ bạc kim”, một số tiêu chuẩn để đánh
giá văn học v.v…Ngoài những điểm giống nhau kể trên, cần thiết phải kể đến những
giống nhau trong quan niệm văn học Nhật Bản và Việt Nam do những điều kiện lịch
sử văn hóa tương đồng. Về điểm này thì quan niệm văn học như là một biểu hiện của
tinh thần độc lập dân tộc về mặt hiến là quan niệm nổi bật nhất.
Việt Nam cũng như Nhật Bản
muốn tồn tại bên cạnh nền văn học lớn như văn học Trung Hoa thì phải có ý thức
đề cao dân tộc, khẳng định sự độc lập dân tộc, khẳng định sự độc lập vê văn hiến
như là cái gốc của nền độc lập dân tộc. Sự tiếp nhận văn học Trung Hoa là cần
thiết, nhưng mỗi nước phải có một nền văn hiến riêng của mình. Kino Yoshimochi
phê phán mạnh mẽ thói học theo văn học Trung Hoa là phai nhạt tinh thần Nhật Bản
:” Từ khi hoàng tử
Ơû Việt
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực hư văn hiến chi bang.
Sơn xuyên cương vực ký thù,
Tự Triệu, Đinh Lý, Trần chi khải tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thời hoặc bất đồng,
Nhiên hào kiệt thế vị thường phạp.
( Bình Ngô đại cáo )
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã riêng,
Phong tục Bắc
Từ Triệu, đinh, Lý ,Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên làm một đảo phương.
Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau,
Nhưng hào kiệt không bao giờ thiếu.
Nền văn hiến bao gồm nhiều
mặt, song một trong những lãnh vực quan trọng nhất, có tính chất tinh hoa đó là
văn học. Văn học Việt
2.
Những điểm khác nhau
Thứ nhất : Quan hệ giữa văn học và chính trị xã hội.
Thứ hai :
Đặc trưng của nội dung trữ tình Trung Hoa và
nội dung trữ tình Việt
Trong bất kỳ nền văn học
nào cũng đều có nhiều quan niệm “loại” văn học khác nhau: văn học giải trí, văn
học như một trò chơi, văn học giúp đời, giúp văn học quan phương v.v…Nhưng văn
học quan niệm chủ đạo, tức là trong loại văn học được coi là có gia trị nhất
thì quan niệm văn học nào chiếm vị trí trọng yếu ? Văn học là hạng nhất của Nhật
Bản phải kể là: Truyện chàng Genji (Genji monogatari), Truyện vũ tướng
Taira (Heike monogatari), Ghi chép để dưới gối ( Makura no sôshi )
Ghi chép lúc nhàn rỗi (Tsurezure gusa), tiểu thuyết của Ihara Saikaku…Về
thơ là Tanka, Chôka từ Vạn diệp tập (Manyôshu), đến các bộ ngự tuyển sau
đó: Cổ kim Hoà ca tập, Tân cổ kim Hòa ca tập, Hậu tuyển tập, Thiên tải Hòa
ca tập, Haikai của Bashô, Buson, Issa…Và về sân khấu thì tiêu biểu nhất là
Nô. Cảm giác chung khi đọc loại văn học như thế là dường như thế là dường như
văn học không dính dáng gì đế những vấn đề chính trị, xã hội. Văn học chỉ ghi lại
những xúc động trong tâm hồn, những rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, nỗi
bi ai nào đó về cái vô thường của nhân sinh…Suzuki Shiji đã viết một cách xác
đáng như sau:
“Nếu tâm hồn rung động là
đã có mầm mống văn học rồi, đó là cách nghĩ có tính nguyên lý. Đó là suy nghĩ
phát hiện văn học có tính chất chất phác, nhạy cảm, được coi là điểm căn bản. Nếu
nhìn tứ phương diện khác là khá vô mục đích. Cái vô mục đích có tính nhạy cảm
đó là cái tính gắn liền với tính chất riêng của văn học Nhật Bản” (Văn học
Trung Quốc và văn học Nhật Bản – tr. 76)(1).
Tuy nhiên cũng có thể đặt vấn
đề là loại tiểu thuyết quân ký như Truyện vũ tướng Taira (Heike
monogatari), Truyện về loạn thời Bình Trị (Heiji monogatari), Thái
bình ký (Taiheiki)…thì như thế nào. Heikei monogatari viết về việc
tranh quyền lợi giữa hai dòng họ Taira và Minamoto, Taiheiki viết về cuộc
loạn tranh giành quyền lợi giữa hai dòng họ Taira và Minamoto Taiheiki viết về
cuộc loạn tranh thời Kiến Vũ Trung hưng… Thì nó phải có thái độ chính trị, có
tính chất phe phái chứ? Tất nhiên vấn đề này cũng cần phải được suy nghĩ nghiêm
chỉnh. Nhưng cũng có thể nói là, viết về chiến tranh, nhưng tác giả của những bộ
tiểu thuyết quân ký này muốn thể hiện cái vô thường của quyền lực và vinh hoa,
một cái nhìn có tính cách triết lý tôn giáo chứ không phải một thái độ chính trị.
Lời mở đầu nổi tiếng của cuốn Heike monogatari đã viết : “Tiếng chuông
chùa Gion có âm hưởng của thế giới vô thường. Sắc hoa cây Sala như nhắn nhủ thịnh
rồi sẽ suy”.
Tất nhiên, như đã nói ở phần
trên, văn học Nhật Bản cũng không xa lạ gì với quan niệm văn là để chở đạo. Đặc
biệt là vào thời
Tóm lại, nói văn học là sự
ghi lại cảm xúc có tính cách nhạy cảm, mơ hồ, nói cách khác văn học “viết
chơi”, văn học có vẻ vô mục đích là quan niệm nổi bật của văn học Nhật Bản cổ
điển. Tính chất thoát ly chính trị là đặc chất của quan niệm văn học Nhật Bản.
Tại sao lại như vậy? Trả lời
câu hỏi này phải đi vào tìm hiểu cơ cấu xã hội Nhật Bản, giai tầng chủ yếu và
tư tưởng chủ yếu chi phối văn học trong quá khứ. Từ thời
Với gia tầng chi phối văn học
trên đây thì việc văn học thoát ly chính trị là đương nhiên. Bởi vì mối quan tâm
của phụ nữ quý tộc, của nhà sư và thị dân không phải là chính trị. Đối với
chính trị, họ là người ngoài cuộc.
Thế nhưng việc có nhiều thi
nhân đồng thời cũng là quan lại thì sao? Ví dụ: Kakinomoto No Hitomaro, Yamabe
No Akahito, hai ca nhân có tiếng thời Nara, được xưng tụng là “ca thánh”, cũng
đếu làm quan, dù chỉ là quan cấp thấp.
Kino Tomonori, Ôshikouchi
No Mitsune và nhiều ca nhân trong “Tam thập lục ca tiên” khác nữa, ít nhiều
cũng có làm quan. Tại sao những người này làm quan mà tác phẩm của họ không đề
cập đến chính trị.
Để trả lời câu hỏi này phải
nói đến cơ cấu xạ hội, tư tưởng Nhật Bản đương thời. Nho học du nhập vào Nhật Bản
khá sớm, khoảng đầu thế kỷ VI. Thế nhưng ảnh hưởng của Nho học chỉ dừng lại ở
phạm vi chính trị như đã thấy ở thời Đại Hóa Cải Tân và Đại Bảo Luật Lệnh. Nhật
Bản không áp dụng chế độ thi tuyển quan lại như ở Trung Quốc và Việt Nam, vì thế
tầng lớp quan lại không cần phải là Nho sĩ, không cần phải thấm nhuần tư tưởng
Nho gia. Tầng lớp cai trị Nhật Bản là quý tộc (thời
Nếu như trong văn học Nhật
Bản khuynh hướng thóat ly chính trị nổi bật thì ngược lại ở Việt
Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,
Điện Bắc đà đà yên phận tiên.
Bút cũng có khi phải được
dùng như thanh kiếm để giúp nước, đánh đuổi quân xâm lược. Trần Thái Tông đã từng
nói về sức mạnh lớn lao của văn học :” Ngòi bút có sức mạnh phá được ngàn
quân”. Nguyễn Đình Chiểu thì nói đến ngòi bút chở đạo, đâm gian:”Đâm mấy
thằng gian bút chẳng tà”.
Quan niệm này có nguồn gốc
xã hội của nó. Ai cũng biết giai tầng chi phối xã hội và văn học Việt
Nói như trênthì quan niện
văn học Việt
Quan niệm “Thi ngôn chí”
cũng không hoàn toàn giống nhau. Chí không chỉ là chí hướng, có tính chất lý
tính, mà đối với các nhà văn Việt
Cũng phải thừa nhận rằng
không phải bao giờ ở Việt
Như vậy đối với các Thiền
sư thời Lý – Trần, thì văn học không thể nói là khí cụ để kinh bang tế thế được,
cũng có nghĩa không có nội dung chính trị. Và điểm này cũng không khác lắm quan
niệm chủ lưu của văn học Nhật Bản.
Trong văn học Việt
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mau vui cũng được một vài trống canh.
Tại sao lại nói là “lời
quê”? Vì văn này không viết bằng “ngôn ngữ cao quý” của thánh hiền, mà viết bằng
ngôn ngữ của “người hái dâu, dệt vải” (“tang ma ngữ”), tức là ngôn ngữ mẹ
đẻ, là Tiếng Việt. M.Basho cũng nói tương tự :”Sự bắt đầu của thơ là bài hát
của người trồng lúa nơi miền thâm sâu”.
Văn học chỉ để chơi thôi,
chỉ là chuyện “mua vui” vì nó không phải là “văn học tải đạo”. Văn học là cái
gì để ghi lại xúc động của tâm hồn trước khổ cảnh của con người, của kiếp người.
Điều ấy thể hiện trong phần mở đầu tác phẩm Truyện kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
Nếu vậy quan niệm văn học
như thế này có khác gì quan niệm của Murasaki khi viết Genji monoratari hay
đa số các nhà văn Nhật Bản hàng đầu không? Không khác lắm. Nhưng khác là ở cách
cảm,cách nghĩ về thế giới và nhân sinh. Nói một cách khác,đó là hai
loại trữ tình khác nhau: trữ tình Việt
3.
“Mono no aware” và tình nghĩa
Từ lâu nhiều nhà nghiên cứu
Nhật Bản đã chỉ ra rằng mononoaware là đặc chất trữ tình Nhật Bản ; mononoaware
shiru biết mono no aware là quan niệm riêng của người Nhật Bản về văn học.
Mononoaware được nói đến từ lâu trong văn học Nhật Bản. Trong Genji monogatari, xuất
hiện ở 14 chỗ. Rồi trong Makura sôshi, Tsurejure gusa cũng nói đến
mononoaware. Đến thời
- Tinh thần biết mononoaware
là tinh thần cố hữu của Nhật Bản. Từ khi Nho giáo, Phật giáo truyền vào đến
nay những lời giáo huấn trang sức bề ngoài làm sai đi cái tâm vốn có của Nhật Bản,
làm cho mononoaware lần lượt bị mất đi, vì thế cần phải phê phán nghiêm
khắc Nho giáo, Phật giáo, cần phải làm cho mọi người quay trở về với Thần đạo
là cái tập trung được tinh thần cố hữu của người Nhật Bản.
- Về mặt nguyên lý văn học,
Motoori đã cho rằng:”biết mononoaware” là khởi nguyên của văn học,
đã minh xác việc văn học , đặc biệt là Genji monogatari khỏi sự phê bình
có tính cách “khuyến thiện trừng ác” lúc bấy giờ.
Vừa chịu ảnh hưởng cách
nghĩ của Nho giáo, vừa muốn đối ứng lại với Nho giáo, Motoori Norinaga đã nâng mononoware
lên bình diệnnhận thức luận với tư cách là một học thuyết triết học:”Nếu mở
rộng cái điều hiểu biết mononoware ra, có thể đủ đạt đến cái đạo tu
thân, tề gia, trị quốc…”(tr.507). Mononoware có ý nghĩa rất rộng. Những
việc tình người đáng cảm động sâu sắc đều là mononoware. Biết mononoware
là biết rung động một cách thành thực:” Việc đáng vui thì vui, việc đáng buồn
cười thì buồn cười, việc đáng buồn cứ buồn, người đáng yêu cứ yêu, rung động
trong cõi lòng như thế là biết mononoware vậy” (Lời nói thầm trên đá”
(1).
Mononoaware có ý nghĩa triết học rất sâu sắc. Đọc luận văn mononoaware của
Motoori Norinaga, chúng ta liên tưởng đến “đạo” của Lão tử, “tính thiện” của Mạnh
tử, “Phật tính” của Thiền tông, và cả thuyết “Thiên lương” của thi sĩ Việt
Nam Tản Đà. Mặc dù vậy mononoaware đối với người Nhật Bản cũng có ý
nghĩa riêng. Mononoaware đặc biệt dễ rung động trước nỗi buồn, trước cái
đẹp, trước tình yêu và cái vô thường. Câu : “Mononoaware chính vào mùa
thu lại dâng lên”, trong Tsurezure gusa cho thấy hàm nghĩa xác định cụ
thể của mononoaware. Vì thế khi phải dịch từ này sang tiếng Trung Quốc.
Suzuki Shuji đã dịch là “niềm bi ai có tính chất Nhật Bản “(Nhật Bản đích bi
ai)
Mononoaware là đặc trưng của trữ tình Nhật Bản. Cái gọi là “hiểu biết mononoaware” là
tư thế tham gia vào văn học của người Nhật Bản. Ngược lại, sáng tác văn học
cũng phải có nhiệm vụ thể hiện một cách chân thành cái tình cảm thực của con
người một cách không trang sức hư ngụy. Văn học Nhật Bản coi trọng mononoaware
nên cái hay của nó là ở cái đẹp, cái buồn, cái cao quí, tinh tế và có tính chất
nữ tính.
Việc nhiều phụ nữ tham gia
văn học nói ở phần trên có liên quan chặt chẽ đến điều này. Có phải vì phụ nữ
tham gia sáng tác văn học n6n văn học Nhật Bản có nạy cảm, tinh tế (như là cốt
lõi của mononoaware) hay ngược lại, vì trữ tình b coi trọng mononoaware
nên phụ nữ chiếm địa vị quan trọng trong sáng tác văn học ? Nói gì thì nói mononoaware
đã trở thành truyền thống trữ tình của Nhật Bản, nên ngay cả nam giới có nho học
hay quan chức sáng tác văn học thì vẫn thể hiện mononoaware. Cùng với
quan niệm thoát ly chính trị, thì “biết mononoaware” cũng là một quan niệm
có tính chất căn bản của văn học Nhật Bản.
Nếu nói đặc trưng của trữ
tình Nhật Bản là mononoaware, của Trung Quốc là “phong cốt” (phong lưu,
khí cốt, khí phách…) thì đặc trưng của trữ tình Việt
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Trong tình yêu lại ít diễn ta sự rung động
mà sự xa cách, sự chờ đợi, lòng chung thủy…Môtip “chờ đợi” và “tìm lại người
xưa” là hai môtip được nói đến nhiều nhất trong thơ lục bát Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du sỡ dĩ được yêu
thích vì nó thể hiện đúng trữ tình đặc sắc riêng của người Việt. Chúng tôi
không nghĩa rằng thơ nước ngoài không có tình nghĩa, nhưng nói rằng tình yêu là
nội dung chủ yếu, là đặc trưng của trữ tình Việt
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
(Mời Trầu)
Như vậy có thể mạnh dạn khẳng
định rằng “Tình nghĩa” là đặc trưng của nội dung trữ tình Việt Nam, bên
cạnh “Phong cốt” đặc trưng của văn học Trung Quốc ,” Mononoware” đặc
trưng của Nhật Bản.
Không như mononoware
được bàn đến nhiều ở Nhật Bản, trữ tình riêng của người Việt
Nói tóm lại, nếu đặc chất của
trữ tình Nhật Bản là mononoware, của Trung Quốc là “phong cốt”, thì ở Việt
Nam là “tình nghĩa”. Điều này có những nguyên nhân xã hội, tư tưởng của nó.
Dòng chính thống của văn học Trung Quốc bị chi phối bởi tư tưởng Nho giáo. Văn
học Nhật Bản chủ yếu bị chi phối bởi tư tưởng Phật giáo. Ngoài ra, còn phải kể
đến những yếu tố phong thổ riêng và những yếu tố “tiền Phật giáo” (có thể có những
yếu tố Nam Á, Đông Nam Á, chẳng hạn, như nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Nhật Bản
khẳng định). Còn ở Việt