Trước năm 1945, việc giảng dạy văn hoá Việt Nam đã được bắt đầu ở Trường Đại học Đông Dương với giáo trình Việt Nam văn hoá sử cương của cố giáo sư Đào Duy Anh (xuất bản lần đầu năm 1938). Trong những năm 1960 và những năm đầu 1970, tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và một số trường đại học miền Nam, công việc này được tiếp tục với những bài giảng đầy tâm huyết của các giáo sư Kim Định, Lê Văn Siêu.
Báo Tiền phong 10-11-1943 đăng Đề cương về VHVN |
Việt Nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh (1938) |
Nguồn gốc văn hoá Việt Nam của Kim Định (1973) |
Việt Nam văn minh sử lược khảo của Lê Văn Siêu (1974) |
Đến những năm 1980, tiến trình toàn cầu hóa diễn ra với tốc độ chóng mặt dẫn đến hệ quả là việc bảo tồn văn hóa dân tộc trở thành đối tượng quan tâm ngày càng mạnh mẽ của các dân tộc và quốc gia trên khắp thế giới. Phản ánh tình trạng này, Đại hội đồng Liên hiệp quốc họp tháng 12-1986 đã quyết định phát động Thập kỷ phát triển văn hóa thế giới 1988 – 1997.
Từ Cơ sở văn hoá Việt Nam đến văn hoá học
Năm 1990, lần đầu tiên chương trình môn học Cơ sở văn hoá Việt Nam đã được GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm – lúc đó với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Ngữ học và Việt học của Hội đồng Liên ngành Ngoại ngữ thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo – xây dựng (thông qua ngày 25-9-1990). Năm 1991, ấn bản đầu tiên của cuốn giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam do GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm biên soạn đã được Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội xuất bản (lưu hành nội bộ) thành hai tập.
Chương trình môn học Cơ sở văn hoá Việt Nam (1990) |
Giáo trình CSVHVN (1991) |
Năm 1995 tại Hội nghị Chương trình Đại học Đại cương của Bộ Giáo dục và Đào tạo họp tại Đà Lạt, Tên môn học Cơ sở văn hoá Việt Nam và chương trình môn học do GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm xây dựng cho khối đại học ngoại ngữ năm 1990, với một số bổ sung và sửa chữa, đã được công nhận làm chương trình chính thức của môn học này cho toàn bộ hệ thống đại học Việt Nam. Sau hội nghị, Ban chương trình đã bổ sung thêm Chương trình Cơ sở văn hoá Việt Nam thứ hai do GS. Trần Quốc Vượng soạn thảo. Cùng năm, giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm được Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM xuất bản, cuốn hút sự quan tâm rộng rãi của công luận. Ở dạng rút gọn, giáo trình này được Trường tái bản năm 1996 và NXB Giáo dục xuất bản năm 1997. Trong năm 1997, giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam do GS. Trần Quốc Vượng chủ biên cũng được biên soạn và xuất bản. Năm 2002 có thêm giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam do PGS. Chu Xuân Diên biên soạn (Trường ĐH KHXH-NV xuất bản).
Trong bối cảnh khi mà vấn đề văn hoá hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi việc, BCH TW Đảng CSVN khóa VIII trong phiên họp vào tháng 7 năm 1998 đã thông qua Nghị quyết 5 về việc "Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Sự ra đời của Nghị quyết 5 của BCH TW Đảng như một bản đề cương văn hóa mới cho thấy việc bảo tồn và phát triển văn hoá không còn là công việc của riêng ai. Nó đã trở thành nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
Lúc này, không còn nghi ngờ gì nữa, toàn xã hội đang có một nhu cầu lớn về đào tạo văn hoá và văn hoá học. Ở khu vực phía Nam, đáp ứng nhu cầu này là trách nhiệm của Đại học Quốc gia Tp. HCM, mà cụ thể là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, với tư cách là một trong hai trung tâm đào tạo hàng đầu về khoa học xã hội và nhân văn của cả nước.
Mở ngành và thành lập Bộ môn
Trước tình hình đó, năm 1999, khoa Đông phương học thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (lúc đó trưởng khoa là GS.TS. Bùi Khánh Thế với hai phó trưởng khoa là PGS.TS. Đinh Lê Thư và GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm) đã đưa ra đề án mở ngành đào tạo thạc sĩ văn hoá học. Đúng lúc đề án được phê duyệt thì GS. Trần Ngọc Thêm được mời đi giảng dạy tại Trường Đại học Quốc tế học Hàn Quốc (Hankuk University of Foreign Studies) ở Seoul trong hai năm 2000-2001. Bởi vậy trong hai năm này việc quản lý ngành đào tạo cao học văn hoá học đã được Trường giao cho Bộ môn Văn học Dân gian (do PGS. Chu Xuân Diên phụ trách) thuộc Khoa Ngữ văn - Báo chí.
Đầu năm 2002, sau khi GS. Trần Ngọc Thêm từ Hàn Quốc trở về, Bộ môn Văn hóa học trực thuộc Trường đã được chính thức thành lập theo quyết định số 96/QĐ-TCCB ký ngày 18-4-2002. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Trưởng Khoa Đông phương học, được giao kiêm nhiệm chức vụ Trưởng Bộ môn Văn hoá học trực thuộc. Sau một thời gian phụ trách cùng lúc hai đơn vị, vào tháng 7-2003 ông đã chủ động xin thôi chức Trưởng Khoa Đông phương học để tập trung xây dựng ngành văn hoá học.
Quá trình phát triển tổ chức
Từ khóa cao học đầu tiên năm 2000 với 17 học viên, đến nay ngành cao học Văn hoá học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã luôn là một trong 3 ngành có số lượng tuyển sinh cao nhất trường với số thí sinh hàng năm trung bình khoảng 70-85 người và số học viên nhập học hàng năm trung bình khoảng 35-40 người (x. bảng 1).
Bảng 1: Số thí sinh và học viên cao học hàng năm
Khóa cao học |
Tổng số thí sinh dự thi Cao học của trường |
Số ngành đào tạo Cao học của trường |
Số thí sinh dự thi CH Văn hóa học |
Số trúng tuyển và nhập học CH văn hoá học |
2000 |
205 |
7 |
25 |
17 |
2001 |
254 |
9 |
50 |
32 |
2002 |
326 |
8 |
50 |
37 |
2003 |
671 |
11 |
61 |
38 |
2004 |
715 |
16 |
35 |
23 |
2005 |
718 |
17 |
64 |
37 |
2006 |
876 |
18 |
84 |
42 |
2007 |
934 |
18 |
107 |
34 |
2008 |
1079 |
18 |
140 |
34 |
2009 |
1171 |
20 |
102 |
29 |
2010 |
1077 |
20 |
79 |
31 |
Những con số này là một bằng chứng cho thấy nhu cầu đào tạo về văn hóa học trong xã hội hiện nay là rất lớn. Ngành văn hoá học luôn là một trong ba ngành cao học có nhu cầu xã hội cao nhất Trường (x. bảng 2).
Bảng 2: Số học viên nhập học hàng năm
Năm |
Tổng số học viên nhập học của Trường |
Số học viên cao học nhập học mỗi ngành |
||||
Ngôn ngữ học so sánh |
Giảng dạy tiếng Anh |
Văn hoá học |
Số HV / Số ngành còn lại |
Số HV trung bình của các ngành còn lại |
||
2000 |
124 |
28 |
41 |
17 |
38/5 |
7,5 |
2001 |
158 |
23 |
35 |
34 |
66/6 |
11 |
2002 |
204 |
33 |
57 |
39 |
75/5 |
15 |
2003 |
255 |
53 |
39 |
43 |
120/8 |
15 |
2004 |
226 |
39 |
45 |
23 |
119/13 |
9 |
2005 |
338 |
48 |
53 |
37 |
200/14 |
14 |
2006 |
336 |
42 |
44 |
42 |
208/15 |
13 |
2007 |
229 |
39 |
48 |
34 |
108/15 |
7 |
2008 |
200 |
24 |
43 |
34 |
99/15 |
6.5 |
2009 |
385 |
23 |
39 |
29 |
294/17 |
17 |
2010 |
436 |
24 |
39 |
31 |
342/17 |
20 |
Nhu cầu xã hội về đào tạo cao học văn hóa học đã như vậy thì nhu cầu xã hội về đào tạo đại học văn hóa học tất yếu còn lớn hơn rất nhiều. Nắm bắt được nhu cầu này, từ năm 2003, Bộ môn Văn hóa học đã đưa trình đề án mở ngành đào tạo cử nhân văn hoá học (bậc đại học). Cho đến tháng 12-2006, Bộ môn Văn hóa học đã hai lần tổ chức hội thảo bàn về việc mở ngành đào tạo đại học văn hoá học. Mỗi năm đều đưa ra sửa chữa và hoàn chỉnh một lần – tổng cộng đến tháng 12-2006, Bộ môn Văn hóa học đã sửa chữa, hoàn chỉnh và đưa trình tới lần thứ tư . Và cuối cùng, ngày 30-11-2006 Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Tp.HCM TS. Nguyễn Đức Nghĩa đã ký quyết định số 1145/QĐ-ĐHQG-ĐT cho phép Bộ môn Văn hóa học mở ngành đào tạo cử nhân văn hoá học hệ chính quy từ năm 2007.
Đồng thời, sau 6 năm đào tạo và đã có khoá cao học thứ 7, một số lượng lớn thạc sĩ văn hoá học đã tốt nghiệp ra trường. Một bộ phận không nhỏ trong số họ có nhu cầu được đào tạo tiếp ở bậc tiến sĩ. Đáp ứng nguyện vọng này, tháng 10-2006 Bộ môn Văn hóa học đã trình đề án mở hệ đào tạo tiến sĩ văn hoá học. Đề án này đã được thông qua tại phiên họp của Hội đồng xét duyệt mở ngành đào tạo sau đại học cấp ĐHQG-HCM do Phó giám đốc phụ trách ĐHQG-HCM Phan Thanh Bình chủ trì vào ngày 26/01/2007.
Như vậy, từ tháng 1-2007, Bộ môn Văn hoá học Đại học Quốc gia Tp.HCM chính thức tiến hành đào tạo ở cả ba hệ: đại học - cao học và nghiên cứu sinh.
Ngày 24-10-2008, Giám đốc ĐHQG Tp.HCM PGS.TS. Phan Thanh Bình đã ký quyết định số 1198/QĐ-ĐHQG-TCCB về việc Thành lập Khoa văn hoá học thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG Tp.HCM trên cơ sở Bộ môn Văn hóa học. Như vậy, sau 8 năm tồn tại hệ cao học, 6 năm tồn tại Bộ môn Văn hóa học, 2 năm tồn tại hệ đại học và nghiên cứu sinh, đến tháng 10-2008 ngành Văn hóa học ĐHQG Tp.HCM đã có được một tổ chức hoàn chỉnh tương xứng với chức năng và nhiệm vụ mà lâu nay thực hiện. Lần đầu tiên trong hệ thống Đại học Quốc gia Việt Nam có được một ngành đào tạo Văn hóa học ở cả ba cấp và một Khoa Văn hóa học.
Ngày 3-11-2008, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV, PGS.TS. võ Văn Sen đã ký quyết định thành lập 4 bộ môn thuộc khoa Văn hóa học và bổ nhiệm các trưởng Bộ môn:
Bộ môn Lý luận văn hóa, do GS.TSKH Trần Ngọc Thêm kiêm Trưởng Bộ môn
Bộ môn Văn hóa Việt Nam, do TS. Nguyễn Văn Hiệu làm Trưởng Bộ môn
Bộ môn Văn hóa Thế giới, do TS.Đinh Thị Dung làm Trưởng Bộ môn
Bộ môn Văn hóa ứng dụng, do PGS.TS Phan Thu Hiền kiêm Trưởng Bộ môn.
Quá trình phát triển nhân sự
Tiếp theo GS. Trần Ngọc Thêm, từ năm 2002, các thành viên được nhận về Bộ môn/Khoa Văn hóa học lần lượt như sau:
Năm 2002:
2) CN. Nguyễn Ngọc Thơ (từ khoa Đông phương học, bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn tháng 12-2003),
3) CN. Lê Thuỳ Trang (tốt nghiệp Khoa Đông phương học ở Hà Nội, bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn tháng 1-2006),
4) TS. Phan Thu Hiền (từ khoa Ngữ văn và Báo chí, được bổ nhiệm làm Phó trưởng Bộ môn văn hoá học tháng 2-2003 và được phong PGS tháng 11-2003).
Năm 2003:
5) TS. Nguyễn Văn Hiệu (từ Cao đẳng SP Quảng Ngãi)
6) TS. Lê Trung Hoa (từ Viện KHXH tại Tp.HCM, được phong PGS tháng 11-2003).
Năm 2004:
7) CN. Ngô Anh Đào (tốt nghiệp Khoa ngữ văn, học cao học văn hoá học khóa 5 tại bộ môn).
8) TSKH. Phan Đình Tân (từ Nga về)
Năm 2005:
9) CN. Phan Anh Tú (từ Bảo tàng LSVN Tp.HCM, bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn tháng 11-2005),
10) TS. Đinh Thị Dung (từ khoa lịch sử Đại học KH Huế)
11) ThS. Nguyễn Thị Phương Duyên (HVCH giữ lại, bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn tháng 9-2005).
Năm 2006:
- Tháng 10, TSKH. Phan Đình Tân thôi việc chuyển về UBND Tỉnh Đà Nẵng, còn 10 người.
11) TS. Trần Ngọc Khánh (từ Viện KHXH tại Tp.HCM).
Năm 2007:
12) Nguyễn Thuý Vy (HVCH giữ lại, từ 1-10, bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn tháng 12-2007)
- Tháng 11, ThS. Lê Thuỳ Trang thôi việc định cư tại Mỹ, còn lại 11 người.
Năm 2008:
12) TS. Trần Long (từ Học viện CT-HC quốc gia HCM, về ngày 1-1)
13) ThS. Lê Thị Ngọc Điệp (bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn, từ Phòng SĐH-QLKH về ngày 7-1, hiện là NCS văn hoá học khóa 1).
- Tháng 2, PGS.TS. Lê Trung Hoa chuyển công tác sang khoa ngữ văn, còn lại 12 người.
13) TS. Lý Tùng Hiếu (từ Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ về vào tháng 9).
14) CN/ThS. NguyễnThị Tuyết Ngân (về tháng 11, bằng ThS tương đương do Nga cấp, HVCH VHH khóa 7, bảo vệ LV ThS ngày 22-12-2009, hiện là NCS văn hoá học khóa 4),
15) ThS. Trần Duy Khương (về tháng 11, bảo vệ ThS. văn hoá học tại bộ môn).
Năm 2009:
16) ThS. Lê Thị Trúc Anh (nguyên là Phó trưởng Khoa CNXHKH, Trưởng BM Văn hóa - Xã hội Trường Cán bộ Tp.HCM về tháng 1, hiện là NCS văn hoá học khóa 2).
17) ThS. Trần Phú Huệ Quang (từ Trường Đại học An Giang chuyển về tháng 3, hiện là NCS văn hoá học khóa 1)
Năm 2010:
18) ThS. Trương Thị Lam Hà (Học viên cao học VHH khóa 7, bảo vệ LV ThS ngày 22-12-2009, về Khoa từ 1-2-2010).
19) TS. Nguyễn Ngọc Trân Châu (TS ngữ văn Anh tại Moskva, Nga năm 2002, về Khoa từ 1-2-2010).
- Ngày 15-3-2010, PGS.TS. Phan Thu Hiền được Trường điều động sang làm Trưởng Bộ môn Hàn Quốc học trực thuộc Trường, còn lại 18 thành viên.
20) PGS.TS. Nguyễn Tri Nguyên, nguyên phó viện trưởng Viện Văn hóa - Nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Hà Nội) là giảng viên hợp đồng của khoa từ 1-8-2010.
21) CN. Nguyễn Hữu Duy Viễn, tốt nghiệp ngành bản đồ - viễn thám khoa Địa lý, về khoa từ 1-9-2010.
Năm 2011:
* Tháng 2: ThS. Trần Duy Khương chuyển công tác theo nguyện vọng cá nhân.
Tổng cộng, đến tháng 2-2011 Khoa Văn hóa học có đội ngũ cán bộ với 19 thành viên, trong đó có 10% cán bộ là giáo sư /phó giáo sư, 40% là tiến sĩ trở lên, 95% là thạc sĩ trở lên.
Cập nhật lần 4 ngày 21-2-2011