Ở Việt Nam, văn hoá học không chỉ được nghiên cứu mà còn được giảng dạy trong các trường đại học. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu còn có nhiều ý kiến khác nhau. GS Trần Quốc Vượng là một trong những người khởi xướng chương trình môn học cũng đã khuyến nghị: “Văn hoá đã có từ lâu nhưng văn hoá học là một môn học mới được giảng dạy chưa lâu ở đại học Việt Nam. Các định nghĩa, khái niệm, phương pháp tiếp cận còn có nhiều cách hiểu.” (TQV,13). Ngay cả thuật ngữ văn hoá học (culturology) dường như mới chỉ nêu ra như một sự thăm dò của các nhà khoa học mong muốn có một khoa học độc lập về văn hoá. Trước đó, ở các nước khác nhau người ta đã dùng nhiều thuật ngữ như cultural studies, science de la culture…
Tuy nhiên, trên thực tế đã có nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu văn hoá như triết học văn hoá, xã hội học văn hoá, các ngành văn hoá nghệ thuật, đặc biệt là nhân học văn hoá. Trên thực tế lâu nay đã có một tổ hợp khoa học khác nhau được gọi là các khoa học về văn hoá (les sciences de la culture). Vấn đề đặt ra ở đây là văn hoá học với tư cách là một ngành khoa học độc lập có mối quan hệ như thế nào với các ngành khoa học đã có quá trình nghiên cứu lâu dài về văn hoá, hơn nữa các ngành này đã có đối tượng, cơ sở lý thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chuyên biệt của ngành đặc biệt là nhân học. Về vấn đề này, trước hết chúng ta phải quay trở lại trình bày về quan điểm của các nhà văn hóa học nước ngoài, đặc biệt là các nhà văn hoá học Việt Nam.
1. Quan điểm cùa các nhà văn hoá học nước ngoài và Việt Nam về đối tượng và phương pháp tiếp cận văn hoá học. Theo hiểu biết hạn hẹp của tôi, một người có tham gia xây dựng chương trình đào tạo nhân học, một ngành học mới ở Việt Nam thấy rằng, trong chương trình đào tạo của nhiều nước trên thế giới không có mã ngành văn hoá học, thí dụ các nước Tây Âu và Bắc Mỹ kể cả các nước Đông Nam Á mà chỉ thấy có ở chương trình đào tạo của một số nước thuộc Liên Xô cũ như Nga, Ucraina… Như vậy ở Việt Nam riêng Trường Đại học KHXH & NV thuộc Đại học quốc gia thành phố HCM là nơi đầu tiên xây dựng ngành học này (ở Đại học quốc gia Hà Nội chỉ mới dạy môn Cơ sở Văn hoá Việt Nam, văn hoá học như là một ngành học được đào tạo chính quy thì ngay cả chương trình cũng chưa có). Đây là dấu hiệu đáng mừng của sự phát triển nghiên cứu khoa học và đào tạo ở trường ta.
Tuy nhiên, để xây dựng một ngành học mới với tư cách là một ngành khoa học độc lập trước hết phải xác định rõ đối tượng, phương pháp tiếp cận, cơ sở lý thuyết (các trường phái và khuynh hướng nghiên cứu), phương pháp nghiên cứu chuyên biệt của ngành. Thiếu những cái này khó mà có được một ngành khoa học với ý nghĩa đầy đủ của nó.
Về thuật ngữ văn hoá học thì dường như các học giả trong và ngoài nước dễ dàng nhất trí với nhau, bởi vì tên gọi của ngành đã tự xác định nó. Đơn giản là, Văn hoá học là khoa học nghiên cứu về văn hoá. Tuy nhiên văn hoá là một khái niệm quá rộng, việc xác định nội hàm và ngoại diên của nó phụ thuộc vào những góc độ nghiên cứu khác nhau, của các ngành khoa học khác nhau khi nghiên cứu về văn hoá. Vì thế cho đến nay có tới hàng trăm định nghĩa về văn hoá. Dẫu vậy chúng ta thường hiểu văn hoá là tất cả những gì do con người sáng tạo ra khu biệt với tự nhiên mang bản chất người và chính con người cũng là đại biểu mang chở văn hoá. Cho tới hiện nay các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về văn hoá chia làm hai khuynh hướng chính: 1, không thừa nhận có một khoa học chung về văn hoá: 2, cho rằng có đủ cơ sở để xây dựng một ngành khoa học gọi là văn hoá học.
Những người thuộc về khuynh hướng thứ nhất, thí dụ như nhà nhân học nổi tiếng người Anh – Racliffe-Brown cho rằng, văn hoá là một khái niệm trừu tượng bởi giá trị và chuẩn mực của một xã hội là không thể quan sát được (BQT,14 ). Hoặc nhiều nhà nghiên cứu theo quan điểm phản thực chứng luận thì lại cho rằng, văn hoá nhân loại là không đồng nhất và vô cùng đa dạng, giữa chúng không có quy luật chung, vì thế văn hoá không thể nghiên cứu theo thực chứng luận. Cùng khuynh hướng trên Orlova cho rằng, có nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu về văn hoá, tất cả đều nghiên cứu văn hoá từ các phương diện khác nhau và theo các phương pháp khác nhau nên kết quả thu được là rất khác nhau. Vì vậy, văn hoá học mang tính chất không thuần nhất. Bà cho rằng, cách tiếp cận của triết học mang tính tiên nghiệm (mang tính chất siêu hình), cách tiếp cận lịch sử chỉ dừng lại việc miêu tả các sự kiện không vươn lên trình độ giải thích, cách tiếp cận xã hội học mang tính khách quan chủ nghĩa coi văn hoá như các hiện tượng xã hội, các cơ cấu, các thiết chế như là những sự vật khách quan và áp dụng phương pháp định lượng như khoa học tự nhiên (dẫn theo Phạm Đức Dương ;298). Cũng với quan điểm này V.M Megiuep viết “ có lẽ sẽ sai lầm nếu hiểu văn hoá học là một khoa học nào đó đã dứt khoát hình thành cùng với ranh giới được tách biệt rõ ràng của một bộ môn khoa học với một hệ thống tri thức đã hoàn toàn hình thành. Văn hoá học thực chất là một tên gọi chung để chỉ tổ hợp các khoa học khác nhau, nghiên cứu hành vi văn hoá của con người và của các cộng đồng người ở các giai đoạn tồn tại khác nhau của họ” (dẫn theo V.M Rôđin, 78 ).
Khuynh hướng thứ hai ngược lại cho rằng, văn hoá là một tồn tại khách quan, dù các hình thái của nó rất đa dạng nhưng người ta có thể trắc đạc nó một cách khoa học và có thể so sánh các biểu thị văn hoá để tìm ra những nét tương đồng, những quy luật chung trên cơ sở tính thống nhất chung của tinh thần nhân loại. Họ cho rằng, đã có đủ cơ sở để xây dựng một bộ môn khoa học văn hoá mới gọi là văn hoá học ( Bùi Quang Thắng,14). Đứng về quan điểm này có thể kể đến Phạm Đức Dương, Trần Ngọc Thêm, Đoàn Văn Chúc, Bùi Qang Thắng... ở Việt Nam.
Lý giải cho quan điểm này Bùi Quang Thắng cho rằng, các công trình đi theo hướng đơn ngành không thể nghiên cứu văn hoá một cách toàn diện và lại càng không đảm nhận được những nội dung ngày càng phức tạp mà thời đại đặt ra đối với văn hoá, đặc biệt nó càng có ý nghĩa đối với sự phát triển lý luận văn hoá ở Việt Nam. Ông cho rằng, văn hoá học là một bộ môn khoa học mới và đang trong quá trình hình thành trên thế giới và cả Việt Nam. Vì vậy vấn đề quan điểm và phương pháp nghiên cứu của nó đương nhiên chưa hoàn thiện và thống nhất. Việc nghiên cứu các quan điễm tiếp cận và phương pháp của các chuyên ngành khác nhau nhưng có cùng đối tượng là văn hoá để tìm ra những mặt mạnh và hạn chế của chúng đồng thời tìm ra những khả năng để liên kết các quan điểm, phương pháp ấy trong những tương quan bổ trợ lẫn nhau là yêu cầu cấp thiết.
Rất tiếc ở Việt Nam sách lý luận đại cương về văn hoá học còn rất ít, đa phần là giáo trình ở bậc đại học dưới hình thức “Cơ sở văn hoá Việt Nam”. Các giáo trình này chưa trực tiếp đề cập đến những vấn đề căn bản của một bộ môn khoa học độc lập như: đối tượng, hệ khái niệm chuyên ngành, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Để góp phần khắc phục tình trạng trên, V.M. Rôđin đã giành 239 trang sách để bàn về vấn đề này. Ở đây chúng tôi không nhắc lại những nội dung chính của cuốn sách mà chỉ nêu những quan điểm cơ bản của tác giả [1]. Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu văn hoá trong và ngoài nước của các chuyên ngành nghiên cứu về văn hoá, phân tích những mặt mạnh cũng như những mặt yếu trong hướng tiếp cận nghiên cứu văn hoá của các ngành nhân học, tâm lý học, xã hội học… tác giả đã đưa ra những quan điểm và phương pháp nghiên cứu của văn hoá học. Theo ông, có thể có một khoa học tổng hợp và liên ngành về văn hoá - đó là văn hoá học. Tính tổng hợp và liên ngành của văn hoá học không hoàn toàn đồng nghĩa với tính đa ngành của một số ngành nghiên cứu về văn hoá, ở đó người ta chia đối tượng nghiên cứu văn hoá thành nhiều thành tố, mỗi thành tố đó được một chuyên ngành nghiên cứu sâu, cuối cùng những kết quả của những nghiên cứu chuyên biệt ấy được “cộng” lại. Tính tổng hợp và liên ngành của văn hoá học được thể hiện trước hết ở cách nhìn tổng thể đối với đối tượng khảo cứu. Điều đó có nghĩa là bất cứ thành tố nào của tổng thể đều phải được nghiên cứu đồng thời từ nhiều góc độ theo một quan điểm nghiên cứu thống nhất. Thêm nữa, do đối tượng nghiên cứu là một hiện tượng tổng thể nên muốn hiểu biết nó một cách toàn diện và sâu sắc cả cấu trúc bề mặt và cả cấu trúc chiều sâu người ta phải sử dụng phương pháp nghiên cứu của các chuyên nghành khác nhau trong sự phối trí hợp lý.
Và tác giả đã cố gắng biện giải những quan điểm phương pháp luận như: cách nhìn nhận thực tế xã hội và văn hoá (như là thực tại khách quan và thực tại chủ quan); phương pháp luận cấu trúc thực chứng hay hành vi phản thực chứng. Đồng thời tác giả cũng đề cập phương pháp nghiên cứu liên ngành về các phương diện: kết hợp giữa lý thuyết và thực nghiệm; kết hợp giữa nghiên cứu lịch đại và nghiên cứu đồng đại; kết hợp giữa nghiên cứu đinh lượng và nghiên cứu định tính; kết hợp giữa nghiên cứu hiểu thực tế và khái quát thực tế.
Những quan điểm và phương pháp tiếp cận trên đây, theo tác giả là góp phần nhỏ bé vào việc khẳng định tính cần thiết xây dựng một khoa học văn hoá học mới – một khoa học có thể tích hợp các cách tiép cận khác nhau, những phương pháp nghiên cứu khác nhau để hiểu biết văn hoá sâu sắc và toàn diện hơn, điều mà các ngành khoa học khác không đơn phương làm được. Văn hoá học kết hợp được những thành tựu của các chuyên ngành nghiên cứu văn hoá khác như nhân học, xã hội học, tâm lý học theo cách hợp đề (nghĩa là kết hợp hữu cơ chứ không phải kết hợp có tính cách cơ giới).
Theo tôi, việc trình bày những phương pháp tiếp cận trên đây đã có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng một ngành khoa học mới nghiên cứu về văn hoá. Nhưng tôi cũng đồ chừng rằng để thực hiện được các cách tiếp cận này trong công tác nghiên cứu văn hoá học là một điều hết sức khó khăn không mấy dễ dàng không phải ai cũng hiểu được và làm được, công việc này dường như dành riêng cho những nhà nghiên cứu có tầm cỡ.
Cũng thuộc về khuynh hướng trên, GS Phạm Đức Dương đã giành riêng một chương (chương 6: Văn hoá học đối tượng và phương pháp tiếp cận) trong chuyên luận của mình “ Từ văn hoá đến văn hoá học”. Với một đề cương sơ lược rất khiêm tốn, tác giả không né tránh vấn đề phức tạp nhất khi đề cập đến văn hoá học như là một ngành khoa học độc lập. Tác giả đã nhấn mạnh, công việc đổi mới tư duy và phương pháp khoa học đã dẫn tôi đến một ý tưởng được xác định rõ ràng là cần phải có một môn là văn hoá học trong đó có văn hoá học đại cương và văn hoá học chuyên ngành và nó sẽ là ngành học mới góp phần vào xu thế chung của nền học vấn thế kỷ XXI: kiến thức đồng bộ, tư duy tổng hợp và phương pháp liên ngành.
Theo GS Dương, văn hoá là tất cả những gì do con người sáng tạo ra khu biệt với tự nhiên và phải được xem như là một khách thể đặc biệt toàn vẹn giống như một cơ thể sống, một hệ thống có quá trình hoạt động và có thể nhận diện qua thế giới biểu tượng như là một tổng thể những ký hiệu do con người sáng tạo ra… văn hoá học với tư cách là một bộ môn khoa học phải là bộ máy thao tác thích hợp để tiếp cận văn hoá nhằm khám phá ra mối quan hệ tương tác giữa ba thế giới: thế giới thực tại, thế giới ý niệm và thế giới biểu tượng để thông qua đó mà phát hiện ra nhân tính của loài người nói chung và tâm thức của từng cộng đồng tộc người nói riêng ( PĐD, 296).
Theo GS Dương, văn hoá học do đó sẽ được nhận thức như là một khoa học tổng hợp mang tính chất phương pháp luận với cách tiếp cận khoa học chung không phân biệt khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội. GS Phạm Đức Dương cũng nhấn mạnh, với bộ môn văn hoá học cái khó nhất là xác định đối tượng. Nếu chúng ta vận duụng phương pháp tư duy hệ thống( một cách vượt gộp) thì chúng ta có thể xác định rằng phải có một tầm mhìn vũ trụ mới làm sáng tỏ được văn hoá – thiên nhiên thứ hai theo cách nói của Mác) do con ngưòi sáng tạo ra trong mối quan hệ với tự nhiên. Sau khi phân tích ưu thế của tư duy hệ thống so với quan điểm tư duy phân tích cơ giới, GS đã nhấn mạnh, nghiên cứu văn hoá là thông qua quy luật tương tác trong hệ thống cũng như của hệ thống với môi trường bên ngoài mà phát hiện ra thuộc tính hợp trội(émergence) mang đặc trưng tổng thể chứ không phải là tính tổng hợp do các phần tử gộp lại.
Tiếp thu ý kiến của GS Phan Ngọc, GS Phan Đình Diệu, Ngô Thành Đồng tác giả cho rằng, đối tượng của văn hoá học phải được xác định ở nơi các mối quan hệ tương tác của văn hoá cho phép ta khám phá được đặc tính hợp trội (mang tính bản chất) của cái văn hoá toàn thể. Theo GS, quan hệ tương tác ấy của văn hoá nằm chính ngay nơi con người: quan hệ giữa CON ( tự nhiên) và NGƯỜI (văn hoá) và thế giới biểu tượng mà con người sáng tạo nên. Đó là tâm điểm của sự tương tác giữa ba thế giới ( thế giới thực tại, thế giới ý niệm và thế giới biễu tượng) và tính hợp trội hay tính đặc trưng của văn hoá sẽ được giải mã từ thế giới biểu tượng. Nói cách khác, nhiệm vụ của văn hoá học là giải mã tâm thức của loài người và từng cộng đồg dân tộc thông qua các hệ thống biểu tượng của văn hoá (PĐD, 307).
Về phương pháp tiếp cận, GS Dương nhấn mạnh, nếu chúng ta chấp nhận phương pháp tư duy hệ thống để tiếp cận nghiên cứu văn hoá như là một chỉnh thể toàn vẹn không thể tách rời thì phương pháp luận của văn hoá học phải đứng trên quan điểm tổng thể toàn cục và phương pháp tiếp cận liên ngành. Cũng như Bùi Quốc Thắng, GS Dương cũng đề nghị áp dụng phương pháp nghiên cứu lịch đại và đồng đai, phương pháp mô hình hoá và các phương pháp liên ngành với các ngành khoa học khác. Từ việc trình bày trên đây ít nhiều cung cấp những thông tin về những quan điểm của các nhà nghiên cứu bàn về đối tượng và phương pháp tiếp cận nghiên cứu văn hoá học, một vấn đề hiện nay được những nhà nghiên cứu, giảng dạy về văn hoá quan tâm.
2. Mối quan hệ giữa văn hoá học và nhân học từ phương pháp tiếp cận nghiên cứu văn hoá
Nhân học là một ngành khoa học nghiên cứu tổng hợp về bản chất của con người trên các phương diện sinh học, xã hội, văn hoá của các nhóm người, các cộng đồng dân tộc khác nhau trong lịch sử và hiện nay. Với bề dày lịch sử một thế kỷ rưỡi, Nhân học đã đạt dược nhiều thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu CON NGƯỜI SINH HỌC và CON NGƯỜI VĂN HOÁ với hai chuyên ngành lớn là Nhân học nhân thể và nhân học văn hoá. Khác với nhiều ngành khoa học nghiên cứu về văn hoá mang tính chuyên biệt như ngôn ngữ, các ngành nghệ thuật…Nhân học văn hoá trong quá trình phát triển đã sớm tích hợp những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học khác như folklor học, tôn giáo học, ngôn ngữ học, địa lý học, xã hội học, tâm lý học… và các ngành nghệ thuật khác hình thành những lĩnh vực nghiên cứu liên ngành của nhân học. Không chỉ tiếp thu những thành tựu tri thức của các ngành khoa học khác, nhân học văn hoá cũng đã tiếp thu cả về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học, bên cạnh đó vẫn giữ lại những nền tảng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu chuyên biệt của mình.
Có thể nói rằng, nhân học là một trong những ngành học tiên phong trong việc xây dựng những nền tảng cơ bản về lý thuyết và phương pháp tiếp cận nghiên cứu văn hoá. Các trường phái, các khuynh hướng lý thuyết nghiên cứu về văn hoá đều do các nhà nhân học văn hoá tạo dựng nên như: trường phái tiến hoá luận cổ điển mà sau này được bổ sung bằng tân tiến hoá, cấu trúc luận, chức năng luận, đặc thù luận lịch sử, sinh thái văn hoá, nhân học nhận thức, tâm lý nhân cách …cũng như những nhà nhân học văn hoá tiêu biểu của các trường phái, khuynh hướng nêu trên mà trong nhiều trường hợp các nhà nghiên cứu văn hoá học đều thừa nhận họ như những nhà văn hoá học tiền bối. Các trường phái lý thuyết trong nhân học văn hoá cũng như các đại biểu xuất sắc của chúng được các nhà văn hoá học coi chúng như những nền tảng lý thuyết cơ bản của mình và những nhà nhân học văn hoá tên tuổi nghiễm nhiên trở thành những nhà văn hoá học.
Nhân học văn hoá đã có một bước tiến dài trong quá trình phát triển, họ không dừng lại ở việc miêu tả như buổi đầu thành lập mà nó đã xây dựng được một hệ thống lý thuyết, phương pháp tiếp cận cũng như các phương pháp nghiên cứu liên ngành. Những cơ sở lý thuyết và phương pháp tiếp cận của văn hoá học được nêu ở trên không xa lạ với những nhà nghiên cứu nhân học văn hoá. Vì vậy, chúng ta không lấy gì lạ, những tri thức cũng như cơ sở lý thuyết và phương pháp tiếp cận của nhân học văn hoá được các nhà văn hoá học Việt Nam sử dụng khá phổ biến trong các công trình nghiên cứu cuủa mình. Có thể kể đến các nhà khoa học tiêu biểu như GS. Trần Quốc Vượng, GS. Phan Ngọc, GS. Trần Ngọc Thêm, GS. Phạm Đức Dương….Bàn về mối quan hệ giũa văn hoá học và nhân học văn hoá trên nền tảng lý luận và phương pháp tiếp cận, chúng ta có thể chia sẻ với ý kiến của GS Dương khi ông viết: “Chúng tôi cho rằng, nhiều người sẽ đồng tình với quan niệm của bộ môn nhân học văn hoá vì nó đã được hình thành trên cơ sở tích hợp các nghiên cứu về tiền sử học, dân tộc học, ngôn ngữ học, thần thoại học…với tư cách là khoa học về thế giới nhân tạo trong sự đối sánh với thế giới tự nhiên. Có thể cải hoán ngành nhân học văn hoá trong sự tích hợp với khoa học tự nhiên để hình thành ngành văn hoá học” (PĐD, 299). Ở trang khác GS Dương viết tiếp “Bằng nhận thức của mình về văn hoá, tôi cho rằng văn hoá học chính là nhân học, và đối tượng của nó chính là thế giới biểu tượng, thế giới do con người sáng tạo ra trong mối quan hệ tương tác giữa tự nhiên và con người mà tâm điểm là ở con người” (PĐD, 313)
Có lẽ về mối quan hệ giữa văn hoá học và nhân học văn hoá còn nhiều điều phải bàn mà trong báo cáo nhỏ này không thể trình bày hết mọi vấn đề. Chúng tôi với thiển ý rằng, nhân học văn hoá trong một chừng mực nhất định đã xây dựng những tiền đề cơ bản cả về lý thuyết và phương pháp tiếp cận cho văn hoá học; nói khác đi, nhân học văn hoá là tiền thân của văn hoá học. Sự phân định rạch ròi giữa văn hoá học và nhân học văn hoá về đối tượng nghiên cứu, phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu cụ thể ở các cấp độ khác nhau là việc làm hết sức khó khăn.
Đã đến lúc các nhà văn hoá học và các nhà nhân học cùng với một số nhà khoa học xã hội và nhân văn khác phải chụm đầu lại với nhau để làm sáng tỏ mối quan hệ liên ngành, đa ngành và xuyên ngành trong bối cảnh phát triển khoa học hiện nay để chúng ta cùng gánh vác những công việc trong bầu trời chung nhưng cũng phải phân định mảnh sân chơi riêng của mình để cùng hợp tác học hỏi lẫn nhau.
Tài liệu trích dẫn
1. V.M. Rôđin. Văn hoá học. Nxb Chính trị quốc gia, 2000.
2. Bùi Quang Thắng ( BQT). Hành trình vào văn hoá học. Nxb.Văn hoá thông tin, 2003.
3. Trần Quốc Vượng (TQV)…Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb.KHXH, 1996