Thật đau buồn khi tôi biết tin Samuel Huntington qua đời
vào đêm trước Lễ Giáng sinh. Ông là người thầy,
người bạn và là thành viên nhiều năm của Ban biên tập tạp chí The American
Interest. Tôi quen
Vì có lẽ trong thời
gian tới sẽ có nhiều bài viết ca ngợi Sam[2], tôi nghĩ mình nên tập
trung vào một khía cạnh đặc thù trong sự uyên bác của ông, điều thể hiện trong
công trình của ông về chính trị học so sánh. Cuốn Trật tự chính trị trong
các xã hội biến đổi được xuất bản lần đầu năm 1968, có lẽ là cố gắng cuối
cùng nhằm xây dựng một lý thuyết tổng quát về phát triển chính trị và đã để lại
một dấu ân sâu đậm trong toàn bộ lĩnh vực này. Năm 1997, khi chọn sách giới thiệu
trên tạp chí Foreign Affairs, tôi đã chọn cuốn Trật tự chính trị là
một trong 5 cuốn sách hàng đầu về chính trị quốc tế đã được phát hành trong 75
năm qua. Có lẽ vì thế, Sam đã đề nghị tôi viết lời tựa cho lần tái bản ấn phẩm
bìa mềm xuất bản vào năm 2006. Đó là vinh dự lớn mà tôi rất vui mừng tiếp nhận.
Tôi xin trích dẫn lại những điều tôi đã nói trong lời tựa đó:
“Để hiểu được ý nghĩa
sâu sắc của cuốn Trật tự chính trị, ta cần đặt nó vào bối cảnh các tư tưởng
bao trùm những năm 1950 và đầu những năm 1960. Đó là thời kỳ vàng son của “Lý
thuyết hiện đại hóa”, một tham vọng, có lẽ là lớn nhất của nước Mỹ muốn tạo ra
một thứ lý thuyết kinh nghiệm, tổng hợp về sự biến đổi của xã hội loài người.
Lý thuyết hiện đại hóa bắt nguồn từ các nhà lý luận xã hội châu Âu cuối thế kỷ
XIX như Henry Maine, Emile Durkhein, Karl Marx, Ferdinand Tonnies và Max Weber.
Các tác phẩm của các tác giả này đã xây dựng nên một loạt khái niệm nhằm miêu tả
sự thay đổi các chuẩn mực xã hội và các quan hệ xã hội diễn ra khi xã hội loài
người chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp (chẳng hạn như
các khái niệm: Địa vị xã hội / Khế ước xã hội; Quan hệ cơ giới / Quan hệ hữu
cơ; Cộng đồng / Xã hội; Quyền lực duy lý - Quyền lực quan liêu / Quyền lực xã hội).
Dựa vào kinh nghiệm của các nước đã hiện đại hóa trước đó như Anh và Mỹ, các
tác giả này, tìm cách phác họa nên các quy luật chung về sự phát triển xã hội.
“Lý thuyết xã hội
châu Âu đã bị phá sản cả về nghĩa đen và nghĩa bóng sau hai cuộc chiến tranh thế
giới; nhưng các tư tưởng do lý thuyết này sản sinh đã du nhập sang Mỹ sau chiến
tranh thế giới thứ hai trong khoa Chính trị học so sánh ở Đại học Harvard, tại
Trung tâm nghiên cứu quốc tế MIT hoặc trong Ban Chính trị học so sánh thuộc Hội
đồng nghiên cứu Khoa học xã hội. Lúc đó, các khoa tại Đại học Harvard do
Talcott Parsons lãnh đạo đi theo xu hướng của Weber hy vọng xây dựng được một
môn khoa học xã hội thống nhất, liên ngành kết hợp trong nó các ngành khoa học
chính trị, xã hội học, kinh tế học và nhân học.
“Từ cuối những năm
1940 đến đầu những năm 1960 là thời kỳ tan rã của các đế chế thực dân Châu Âu
và xuất hiện cái được biết với cái tên là thế giới thứ ba hoặc thế giới đang
phát triển, các nước mới độc lập khát khao hiện đại hóa và mong muốn đuổi kịp
các ông chủ thực dân trước đây của họ. Những học giả như Edward Shils, Daniel
Lerner, Lucian Pye, Gabriel Almond, David Apter và Walt Whitman Rostow đã xem
tiến trình phát triển vô cùng quan trọng như là cơ sở thí nghiệm cho lý thuyết
xã hội, cũng như là một cơ hội lớn để giúp các nước đang phát triển nâng cao mức
sống và dân chủ hóa hệ thống chính trị của họ.
“Các nhà lý luận về
hiện đại hóa đã đặt ra những chuẩn mực giá trị lớn cho hiện đại hóa và theo
quan điểm của họ, những cái tốt đẹp của hiện đại hóa đều có xu hướng đồng hành
với nhau. Phát triển kinh tế, biến đổi các quan hệ xã hội như đô thị hóa và
phân rã các nhóm tộc hệ cơ bản, nâng cao và mở rộng các trình độ giáo dục, chuyển
đổi chuẩn mực hướng tới các giá trị như “hoàn thiện” và duy lý, thế tục hóa và
phát triển các thiết chế chính trị dân chủ, tất cả đều được xem là một tổng thể
phụ thuộc lẫn nhau. Phát triển kinh tế sẽ nuôi dưỡng giáo dục tốt hơn từ đó dẫn
tới biến đổi giá trị, thúc đẩy nền chính trị hiện tại và cứ như vậy trong một
chu trình hợp lý.
Cuốn Trật tự chính
trị trong các xã hội biến đổi xuất hiện trên cái nền như vậy và thách thức
trực diện các giả thuyết sau. Thứ nhất,
“
“Ý nghĩa cuốn sách của
“
“Có thể yên tâm nói rằng
cuốn Trật tự chính trị cuối cùng đã loại bỏ lý thuyết hiện đại hóa. Nó
là bộ phận của cuộc tấn công gọng kìm mà nửa kia của nó là sự chỉ trích của
cánh tả cho rằng các lý thuyết gia về hiện đại hóa đã suy tôn mô hình phát triển
xã hội kiểu Bắc Mỹ hoặc Châu âu thành một mô hình phổ biến cho loài người. Khoa
học xã hội Mỹ đột nhiên thấy mất đi một lý thuyết bao trùm và bắt đầu chuyển dần
sang phương pháp luận hiện nay về Balcan hóa”.
“Cuốn Trật tự
chính trị trong các xã hội biến đổi là một trong những công trình sớm của
Tuy nhiên cuốn Làn
sóng thứ ba viết về dân chủ hóa lại khác với nhiều cuốn khác trong lĩnh vực
này, nó chú ý cả tới những tác động của dân chủ (như trong loạt tác phẩm
Schmitter- o’ Donnell-Whitehead) và cả tới các điều kiện về cấu trúc và tính ổn
định của nền dân chủ (như trong truyền thống từ Lipset qua Pzreworksi). Sam lưu
ý rằng đã có rất nhiều thay đổi theo kiểu Làn sóng thứ ba diễn ra tại
các quốc gia có nền văn hóa Cơ đốc giáo, một nền tảng tôn giáo khác biệt, sang
mô hình dân chủ hóa vào cuối thế kỷ XX. Đặc biệt thế giới công giáo đã bắt kịp
những người chủ xướng đầu tiên của đạo Tin lành, các xã hội công giáo đã đến
sau trong cuộc cách mạng tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên Làn sóng thứ ba không
phải là cách thể hiện của một tiến trình hiện đại hóa rộng lớn hơn giữa các nền
văn hóa, tiến trình cuối cùng sẽ bao quát tất cả các xã hội, nhưng là một tiến
trình có cội rễ trong một hệ thống đặc thù các giá trị văn hóa thừa kế từ cơ đốc
giáo phương Tây.
Mặc dù không biểu hiện
rõ rệt vào thời kỳ đó, nhưng cuốn Làn sóng thứ ba đã đưa ra những lập luận
này với nhiều vấn đề trước khi được lặp lại chi tiết hơn trong cuốn Sự đụng
độ giữa các nền văn minh và cuốn Chúng ta là ai? cũng như trong cuốn
Những vấn đề văn hóa (Cultural Matters) mà ông và Zarry Harrison phát
hành. Có lẽ ngay cả khi cự tuyệt với lý thuyết hiện đại hóa, lý thuyết
đã làm ông nổi tiếng trong Trật tự chính trị, Huntington vẫn thật sự tin
tưởng vào sự bền vững của các giá trị văn hóa và vai trò quan trọng của tôn
giáo như là một khuôn mẫu định hình nên quá trình phát triển chính trị quốc gia
cũng như các mối quan hệ quốc tế. Trước vấn đề này, toàn cầu hóa chỉ là một lực
lượng bề ngoài, được tạo nên một cách hời hợt bởi “những kẻ Davos” (Davos men)
- những người tham gia diễn đàn quốc tế Davos, do vậy sẽ không đảm bảo kết thúc
trong hòa bình và thịnh vượng. Và, Hoa Kỳ đã không trở thành đại diện cho đội
quân tiên phong của phong trào dân chủ toàn thế giới; mà lẽ ra, điều đó có thể
đã thành công nhờ có nguồn gốc từ một xã hội “Tin lành - Anh giáo”. Những cố gắng
cuối cùng về học thuật của ông trước khi ông qua đời đã tập trung vào tác động
của tôn giáo đối với nền chính trị của thế giới.
Tôi không đồng ý với
Sam về nhiều điểm trong các vấn đề này. Trong khi tôi hoàn toàn đánh giá cao sức
mạnh và tính lâu bền của văn hóa cùng với cái cách mà nền dân chủ tự do hiện đại
bắt rễ vào các giá trị văn hóa cơ đốc giáo, thì dường như đối với tôi lúc nào
cũng vậy, văn hóa luôn có ích khi lý giải về nguồn gốc hơn là độ bền của nền
dân chủ với tính cách là một hệ thống chính trị. Theo quan điểm của tôi, Sam đã
đánh giá thấp tính phổ biến của sức thu hút về cuộc sống trong các xã hội tự
do, hiện đại với các chính phủ chịu trách nhiệm. Lập luận của ông vẫn nặng về
quan niệm cho rằng hiện đại hóa và Phương Tây hóa là hai quá trình hoàn toàn
khác biệt, cái mà tôi khá hoài nghi. Bức tranh u ám mà ông vẽ nên về một thế giới
bị xâu xé bởi xung đột văn hóa là bức tranh mà những người dân tộc chủ nghĩa
Nga và Hồi giáo ưa chuộng, nhưng lại ít có ích khi lý giải về Trung Quốc hay ấn
Độ hiện nay, hoặc lý giải các động cơ của dân chúng không theo đạo hồi hoặc
không theo chủ nghĩa dân tộc trong thế giới Hồi giáo và Nga. Các nhà nước - dân
tộc không thuộc các nền văn minh cũng vẫn là những tác nhân chủ chốt trong nền
chính trị thế giới, họ thường bị thôi thúc bởi rất nhiều lợi ích và quyền lợi,
chứ không đếm xỉa đến các khuynh hướng văn hóa được thừa kế.
Mặc dù vậy, các luận
điểm của Sam vẫn luôn có một sức mạnh lớn lao, thông tuệ và có sức thuyết phục.
Thậm chí có ai đó không nhất trí với ông vẫn không thể không xem xét các luận
điểm của ông một cách nghiêm túc nhất. Các luận điểm của ông đã cung cấp từ vựng
và cấu trúc cho tất cả các cuộc luận đàm sau này về nhiều vấn đề, dù là nền
chính trị Mỹ, chính sách quốc phòng, quá độ dân chủ hay bản sắc Mỹ. Ngoài các
công trình văn bản, ông còn là người thày lớn và đã sản sinh ra một thế hệ học
trò thật sự tạo dựng lại tất cả các lĩnh vực của khoa học chính trị. Từ các bài
viết đầu tiên đến các công trình cuối cùng, ông đều đưa ra những lời phê phán mạnh
mẽ, đó là dấu ấn của một học giả đã nói lên những điều quan trọng và cơ bản.
Có thể hoàn toàn tin
rằng trong thời gian tới đây, chúng ta sẽ chẳng thấy được một người nào như
ông.
Nguồn: Thông tin Khoa học
xã hội, số 1 (313), 2009
[1] Hầu hết tên sách của Samuel Huntington ở đây đều được
Francis Fukuyama gọi tắt. Tên đầy đủ của những cốn sách này là: Quân nhân và
nhà nước: Lý thuyết và quan điểm chính trị của quan hệ dân sự - quân đội (1957),
Phòng thủ chung: Chương trình chiến lược trong chính trị quốc gia (1961),
Trật tự chính trị trong xã hội thay đổi (1968), Nền chính trị Mỹ: hứa hẹn
sự không hoà hợp (1981), Làn sóng thứ ba: Dân chủ hoá cuối thế kỷ XX (1991),
Sự đụng độ của các nền văn minh và trật tự thế giới (1996), Chúng ta là
ai? Những thách thức đối với bản sắc dân tộc của nước Mỹ (2004). Tất cả chú
thích trong bài là của người dịch.
[2] Tên gọi thân mật của Samuel Huntington.