Tác động của toàn cầu hóa đến văn hóa
Toàn cầu hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu, chi phối các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến văn hóa, từ kỹ thuật, công nghệ đến chính trị, tư tưởng. Đặc điểm nổi bật của toàn cầu hóa là mối quan hệ đa diện, đa chiều, nhiều cấp độ giữa các quốc gia, khu vực trong không gian mở. Ở đây mối quan hệ mang tính toàn cầu tạo nên một bức tranh đa sắc màu, về mặt hình thức tỏ ra phức tạp, song trên thực tế lại diễn ra theo những quỹ đạo nhất định. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập đã diễn ra quá trình làm gần những môtíp và chuẩn mực tư duy, nói khác đi, phát triển những môtíp và chuẩn mực đó từ tầm mức dân tộc, khu vực lên tầm mức nhân loại. Càng gần với thời đại chúng ta, quá trình này càng diễn biến nhanh chóng dưới tác động của khoa học và công nghệ hiện đại. Mọi toan tính “bế quan toả cảng” ở khía cạnh văn hóa trở nên khó khăn, nếu không nói là không thể. Tuy vậy, toàn cầu hóa là một quá trình năng động, do đó không tồn tại một quỹ đạo bất biến, một khuôn mẫu định sẵn cho các quốc gia.
Bản thân quá trình toàn cầu hóa, dù muốn hay không, cũng mang trên mình nó nhân tố văn hóa, trước hết là văn hóa tinh thần. Trong lĩnh vực văn hóa, tác động của toàn cầu hóa thể hiện trước hết ở sự va chạm và giao thoa của những cách tiếp cận khác nhau trong nhận thức và ứng xử văn hóa, trong việc xác lập những chuẩn mực, những giá trị một mặt đảm bảo sự cân bằng đa văn hóa, mặt khác buộc hệ thống chính trị cũng phải điều chỉnh, đổi mới, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của hội nhập, trước hết là hội nhập kinh tế, và cùng với nó là giao lưu văn hóa, tiếp thu và tiếp biến giá trị. Hệ thống chính trị chỉ tỏ ra có hiệu quả nếu vận hành trong mối quan hệ hài hòa với các thành tố xã hội, nhất là lĩnh vực văn hóa, là lĩnh vực chịu tác động của toàn cầu hóa hết sức nhanh chóng và có tính lan tỏa.
Trong thời đại ngày nay các quốc gia, các dân tộc đều mong muốn hướng đến tinh thần khoan dung, trong đó có khoan dung văn hóa như một tất yếu trên con đường hội nhập, cùng phát triển. Khái niệm “khoan dung” từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay được phổ biến không kém gì những vấn đề vốn trở thành điểm nóng của các cuộc tranh luận như dân chủ, nhân quyền, nhân văn, tự do v.v… Không phải ngẫu nhiên mà 5 năm sau khi chấm dứt “chiến tranh lạnh” Liên hợp quốc đã khởi xướng Năm quốc tế về khoan dung. Văn kiện cơ bản của UNESCO (1996) đã chỉ rõ một số điểm cơ bản của khoan dung: thứ nhất, khoan dung là sự tôn trọng và đánh giá cao tính đa dạng, phong phú của các nền văn hóa, của những phương thức biểu hiện phẩm chất con người, được khuyến khích bằng tri thức, sự cởi mở, giao tiếp, tự do tư tưởng và niềm tin, nói khác đi, hòa hợp trong sự khác biệt; thứ hai, khoan dung vượt ra khỏi tính quy định về đạo đức, dần dần mang ý nghĩa của một yêu cầu chính trị và pháp quyền, trở thành một yếu tố chủ đạo góp phần thay thế văn hóa chiến tranh bằng văn hóa hòa bình; thứ ba, khoan dung không phải là sự nhượng bộ, mà là một thái độ ứng xử tích cực xuất phát từ việc thừa nhận các quyền phổ quát của con người, trước hết là quyền sống và quyền tự do, không áp đặt hệ giá trị và quan điểm của mình lên người khác; thứ tư, hình thành thiết chế xã hội bảo đảm điều kiện tối đa cho cá nhân phát huy tính sáng tạo của mình, do đó khoan dung bác bỏ chủ nghĩa giáo điều và nền chuyên chế trong hoạt động của con người; thứ năm, khoan dung trong thế giới hôm nay cũng cần tính đến sự cộng hưởng và chấp nhận lẫn nhau để cùng chung sống vì một tương lai không có xung đột, chiến tranh(1). Bên cạnh đó, tính chất mâu thuẫn của toàn cầu hóa đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của nhiều dân tộc, nhất là những dân tộc vừa thoát ra khỏi bóng mây của chế độ thực dân, đế quốc, tìm kiếm cho mình một phương thức phát triển đặc trưng. Toàn cầu hóa phá vỡ những rào cản, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, khai thông con đường cho sự phát triển theo những quy chuẩn phổ biến, mở rộng không gian cho sự liên kết và chuyển giao, sự đồng thuận và trách nhiệm chung, nhưng lại dẫn đến nguy cơ suy giảm chủ quyền quốc gia và vai trò của nhà nước dân tộc. Toàn cầu hóa có thể tạo nên hệ biến thái mới, làm thay đổi các chuẩn mực, các giá trị, khiến cho cái hôm qua từng bị xem là cá biệt, nhưng hôm nay lại trở thành cái phổ biến, và ngược lại, cái hôm qua được tôn vinh như chân lý không thể bác bỏ, hôm nay có thể bị kết án như cái lỗi thời, không phù hợp với xu thế chung. Song, quá trình toàn cầu hóa rất có thể nuốt chửng cả một nền văn hóa, nếu nền văn hóa ấy không đủ sức vượt qua thách thức. Chúng ta từng biết đến trong lịch sử bài học về sự không tương thích giữa sức mạnh quân sự và sức mạnh văn hóa. Chẳng hạn, vào thời cổ đại, đế quốc La Mã – kẻ đi chinh phục Hy Lạp bằng vũ lực, rốt cuộc lại bị chinh phục bằng sức mạnh của tinh thần Hy Lạp. Do đó mà xuất hiện khái niệm “Hy Lạp hóa”, cho dù nghĩa của nó về sau được giải thích rộng hơn cách hiểu ban đầu.
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và toàn cầu hóa ngay từ đầu đã đã vận động trong môi trường văn hóa châu Âu, nên khi thâm nhập vào các quốc gia khác cũng kéo theo những biến chứng văn hóa đối với người bản địa. Những nhân tố tạo nên môi trường văn hóa của chủ nghĩa tư bản tiếp tục thống trị trong thời đại ngày nay, khi mà toàn cầu hóa vẫn còn chịu sự chi phối mạnh mẽ của các cường quốc tư bản chủ nghĩa. Ở khía cạnh hoạt động, chúng ta có thể nhận diện văn hóa thực dụng với những nét tích cực lẫn tiêu cực đan xen nhau. Một mặt, văn hóa thực dụng nhấn mạnh tính hiệu quả, hướng đến đông đảo công chúng thông qua sự đa dạng của các môtíp và phương thức sáng tạo. Mặt khác, tư duy thực dụng trong văn hóa ngày nay có thể đụng chạm đến những chuẩn mực, những giá trị truyền thống của nhiều dân tộc. Thực dụng hóa lối sống tạo nên hiệu ứng tiêu cực trong các quan hệ xã hội, trong đạo đức và văn hóa ứng xử. Tương tự, chủ nghĩa cá nhân, vốn mang ý nghĩa cách mạng vào thời Phục hưng, giờ đây biến dạng thành thứ chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, cùng với sự sùng bái đồng tiền và quyền lực đến mức xuyên tạc cả những chuẩn mực của xã hội công dân. Ở bình diện quốc tế các nước giàu có tự nhận mình là đại diện cho trật tự thế giới mới, thao túng sinh hoạt quốc tế, áp đặt “luật chơi” cho cả các thành viên của Liên hợp quốc(2). Sự thao túng của các tập đoàn tư bản lớn trong nhà nước pháp quyền khiến cho các giá trị chính trị, hay các chuẩn mực của văn hóa chính trị, bị đẩy đến tình trạng một chiều, thành đặc quyền chính trị, và kết quả là những lý tưởng cao đẹp như tự do, dân chủ, bình đẳng, các quyền cơ bản của công dân… được hiểu như thứ trò chơi chính trị hay món hàng trao đổi vì những mục đích cá nhân.
Ba nguy cơ chính đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, là: 1) sự xáo trộn tự phát trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa; 2) chủ nghĩa lãng mạn ngây thơ, dẫn đến hiện tượng tha hóa bản sắc; 3) nghịch lý giữa tính mở của không gian giao tiếp và sự biệt hóa ngày càng sâu sắc giữa các cá nhân, các nhóm xã hội, các dân tộc và các khu vực. Đề cập đến thực trạng này, GS. TS. Lê Hữu Nghĩa viết: “Toàn cầu hóa trong điều kiện do các thế lực tư bản chi phối lại tạo nguy cơ làm mai một nền văn hóa dân tộc, mâu thuẫn với việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Thông qua toàn cầu hóa, mở cửa, dễ du nhập những quan niệm sai trái, đạo đức suy đồi, lối sống thực dụng, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân, “văn hóa phẩm” độc hại… Đã có nhiều người trên thế giới lên tiếng cảnh báo về nguy cơ “Mỹ hóa toàn cầu”(3). Một số người khác lại cảnh báo về khả năng “chú cừu Dolly - sự sinh sản vô tính trong văn hóa”, hiểu theo nghĩa sự đồng hóa và đánh mất cái Tôi dân tộc trong cơn sóng triều toàn cầu hóa. Cái đáng quan tâm chính là làm sao hiểu và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo quan điểm định hướng “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, nghĩa là hiểu và vận dụng biện chứng cái phổ biến – cái đặc thù.
Bản sắc, hiểu như cái bản chất đặc trưng của mỗi dân tộc, luôn luôn thể hiện ra một cách sinh động, thông qua hoạt động của con người, và được thẩm định bằng chính sự tồn tại và phát triển của nó. Sự thể hiện đó về mặt lịch sử tạo nên một con đường trải từ quá khứ đến hiện tại, kết nối cái đã qua và cái đang tồn tại, hình thành một dòng chảy không phân chia giữa các yếu tố góp phần tôn vinh và khẳng định thế đứng của dân tộc trong một thế giới đa dạng, hay có thể nói là đa bản sắc nhưng thống nhất vì mục tiêu chung, mang ý nghĩa nhân loại.
Các dân tộc không tồn tại một cách biệt lập, khép kín, mà liên hệ với nhau ngày càng mở rộng và phong phú. Song chính vì thế mà trong quá trình tồn tại và phát triển, bên cạnh những mối liên hệ và quan hệ tích cực, còn tồn tại những hiềm khích dân tộc, những cuộc xung đột, chiến tranh. Nguyên nhân của các cuộc xung đột, xét đến cùng, đều liên quan trực tiếp đến lợi ích dân tộc, trong đó có những lợi ích cục bộ, và được xác định là những lợi ích mang tính sống còn, nghĩa là những lợi ích mà vì nó một dân tộc sẵn sàng chấp nhận hy sinh để không bị hòa tan cái Tôi của mình vào những cái Khác xa lạ.
“Phản ứng bản sắc” thường diễn ra trong quá trình tiếp nhận và xử lý các giá trị văn hóa ngoại lai, là cách thức đáp trả lại những tác động từ bên ngoài đến bản sắc của một dân tộc, những tác động làm biến dạng nó, hay nói khác đi, làm mất “nguyên bản” của nó. Phản ứng có thể diễn ra khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của chủ thể tiếp nhận và xử lí các giá trị du nhập từ bên ngoài. Phản ứng cực đoan còn được diễn đạt bằng khái niệm cố chấp bản sắc. Trong bài Bản sắc tộc người và bạo lực chính trị, Maila Joseph nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa ngay từ ban đầu đã có một hiện tượng tương đồng hóa những lối ứng xử và những khát vọng. Nền văn minh phương Tây chuyển tải những lí tưởng được tiêu chuẩn hóa của một nền văn hóa kĩ thuật, tiêu dùng và hoan lạc chủ nghĩa. Sự phản ứng mang tính bản sắc có thể được giải thích một phần như là một sự phản ứng đối mặt với sự áp đặt những mô hình văn hóa ngoại lai. Đợt kịch phát bản sắc trong phạm vi phản ứng với sự tha hóa bản sắc và ít ra cũng có sự khẳng định mình một cách quá mức mà khước từ một nền văn hóa khác, không đặc sắc và phi nhân tính”(4). Trong bối cảnh hiện nay trên thế giới, sự cố chấp bản sắc có thể đưa đến những xung đột bản sắc nhân danh quá trình quay trở về với cội nguồn. Chủ nghĩa khủng bố thực chất là mạo xưng bản sắc để thực hiện những cuộc tấn công có chủ đích và phi nhân tính vào các đối tượng mà nó gọi là kẻ thù không đội trời chung. Cho dù tên gọi “chủ nghĩa khủng bố” đôi khi mang tính chủ quan, áp đặt, thậm chí miệt thị, song những diễn biến chính trị gần đây cho thấy trong các hành vi bạo lực ẩn chứa không ít những biểu hiện của cố chấp bản sắc, mà hành động quân sự được hiểu là “không còn cách nào khác” để chứng tỏ thái độ phản kháng đối với thế giới phương Tây.
Để bảo vệ cái Tôi dân tộc và những giá trị truyền thống, không ít quốc gia trên thế giới đã huy động cả một guồng máy lớn để ngăn chặn sự xâm nhập của những giá trị và chuẩn mực từ bên ngoài. Hệ thống thiết chế xã hội, được sự đồng thuận về cơ bản của các tầng lớp nhân dân, phát huy tối đa công tác tuyên truyền chống lại “những nền văn minh xa lạ”, thực hiện biện pháp cấm đoán gay gắt, kể cả truy bức những người có quan điểm trái với tư tưởng chính thống. Nhưng cũng chính từ đây xuất hiện những nghịch lý, trước hết là nghịch lý giữa nhu cầu giao lưu, hợp tác và khả năng cái Tôi dân tộc bị biến dạng do thiếu những phương thức điều tiết thích hợp, giải quyết không hiệu quả mối quan hệ giữa bảo tồn và thích ứng, giữa truyền thống và đổi mới. Ở một thái cực khác, toàn cầu hóa đòi hỏi khả năng thích ứng trong hệ thống ứng xử văn hóa. Nếu nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa không dựa trên quan điểm cân bằng và tác động hỗ tương giữa hai lĩnh vực, sẽ rơi vào mâu thuẫn, bởi lẽ bản thân văn hóa, với tính cách nền tảng tinh thần của xã hội, có tính độc lập tương đối. Nếu không có giải pháp linh hoạt, sự trả giá cho cách tư duy kinh tế hóa hoạt động văn hóa là điều tất yếu.
Quản lý văn hóa - những vấn đề đặt ra
Toàn cầu hóa kinh tế thường dẫn đến việc hình thành những hình mẫu nhiều tầng, từ hình mẫu toàn cầu đến hình mẫu theo khu vực lớn và theo tiểu khu vực. Cách tiếp cận này một mặt cho phép nhận diện bức tranh tổng thể của toàn cầu hóa với những diễn biến sống động của nó, mặt khác tạo cơ hội cho sự đối thoại song phương và đa phương, khắc phục tính một chiều, thúc đẩy quan hệ đa chiều giữa các quốc gia, vốn được phân định theo khu vực và trình độ phát triển. Trong văn hóa thật khó suy luận về nền văn hóa thấp hay văn hóa cao theo phép tính của kinh tế, cũng như chỉ ra bảng phân tầng theo định lượng một cách minh bạch. Tuy nhiên, toàn cầu hóa lại tạo khả năng cho các siêu cường tác động đến đường lối chính trị và văn hóa của các nước đang phát triển. Áp lực này đòi hỏi các nước có điểm xuất phát thấp như Việt Nam tìm ra phương thức thích ứng và chuyển đổi trong lĩnh vực văn hóa, để không bị cuốn theo cơn lốc của sự xâm thực văn hóa.
Chuyển đổi và hình thành cách tiếp cận đa chiều về văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa không hề đơn giản như trong lĩnh vực kinh tế, điều mà chúng ta đang thực hiện với những kết quả tích cực. Lời đáp cho bài toán này, theo tôi, nằm ở hai yếu tố - con người và cơ chế. Con người tạo ra cơ chế, nhưng đôi khi lại không đủ bản lĩnh thay đổi cơ chế, vì những lý do khách quan lẫn chủ quan, những lý do có thể giải thích, và có thể không cần giải thích.
Văn kiện có tính định hướng căn bản về văn hóa hình thành cách đây đã 11 năm. Trong văn kiện đó, 4 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ đã được nêu ra, tập trung vào hai yêu tố vừa nêu trên(5). Xin trưng dẫn ba nhiệm vụ - bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa; củng cố, xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa. Ba nhiệm vụ đó có mối liên hệ hữu cơ với nhau, hướng đến mục tiêu “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nhưng từ đó đến nay dường như những tư tưởng chỉ đạo được hiện thực hóa ở mức độ khiêm tốn, thiếu đồng bộ. Nguyên nhân của thực trạng trên nằm ở đâu, bất kỳ người nào đang hoạt động trong lĩnh vực văn hóa đêu hiểu rõ.
Cơ chế quản lý đối với lĩnh vực văn hóa ở nước ta vẫn còn chứa đựng những dấu vết và thói quen của thời kỳ trước đổi mới, với những mâu thuẫn và bất cập khá phổ biến. Việc tạo ra những “vùng cấm” đối với sáng tạo văn hóa ở chỗ này, nhưng lại thả nổi ở chỗ khác, mặc dù bản chất sự việc không khác nhau mấy, khiến cho quá trình tạo ra những sản phẩm văn hóa mang tầm thời đại trở nên khó khăn. Những sản phẩm văn hóa thực sự đi vào những điểm nóng của đời sống xã hội, có thể gây “sốc” (thực chất là thể hiện dấu ấn của cái Tôi đặc trưng, không lặp lại của cá nhân) đối với dư luận, đang trở nên ít dần. Quan điểm về tự do sáng tạo không được cụ thể hóa, thể chế hóa, khiến cho khái niệm đó vẫn chỉ đáng được xem là một lời động viên. Hàng loạt biện pháp xử lý trong hoạt động văn hóa không được giải thích theo khung pháp lý nhất quán. Nhiều văn bản pháp quy về văn hóa thiếu tính chặt chẽ và liên tục gặp phải phản ứng từ dư luận xã hội, từ đội ngũ những người hoạt động văn hóa và từ các tầng lớp nhân dân.
Sự bất cập trong việc nhận thức dẫn đến cách thức giải quyết vấn đề mang tính một chiều, theo chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa hình thức. Việc quản lý văn hóa hiện nay tại một số nơi đang chịu áp lực bởi hai tầng chủ nghĩa kinh nghiệm: chủ nghĩa kinh nghiệm trong công tác cán bộ (bổ nhiệm, phân nhiệm) và chủ nghĩa kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa. Chủ nghĩa kinh nghiệm trong quản lý văn hóa thể hiện ở sự hạn chế tầm nhìn chiến lược, thiên về xử lý vụ việc một cách thụ động, cứng nhắc, ở sự thiếu lòng tin vào lực lượng sáng tạo trẻ, ở sự dè dặt trong tiếp thu cái mới.
Có một nghịch lý đang diễn ra là trong khi công tác quản lý văn hóa còn mang nặng tính hành chính thì ở một bộ phận dân chúng đã tự mình xác lập cách tiếp cận thực tế hơn đối với vấn đề này, vì thế mà bên cạnh các chính sách của chính quyền, ở một số địa phương nhân dân đã chủ động phục hồi các nghi lễ, phong tục cổ truyền, sau đó mới đề xuất đến các cấp quản lý. Song do “vướng” cơ chế, nên không phải mọi đề xuất đều được chấp thuận. Sự thiếu linh hoạt của bộ máy quản lý đã làm cho mối quan hệ giữa sáng tạo của quần chúng và sự định hướng theo chuẩn mực chung không phải lúc nào cũng diễn ra một cách suôn sẻ.
Điều đáng lo ngại hiện nay là do năng lực quản lý văn hóa hạn chế, tại nhiều khu vực của đồng bằng sông Cửu Long, cũng như Nam Bộ nói chung, song song với việc thực hiện biện pháp “siết chặt, ngăn chặn” một cách thái quá là hiện tượng “thả nổi” trong sinh hoạt văn hóa, tạo nên những khoảng trống văn hóa nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn vùng.
Xin được nêu lại vấn đề trong một bài tham luận trước đây – vấn đề tha hóa bản sắc dưới tác động của toàn cầu hóa. Sự tha hóa thể hiện trước hết ở lối sống thực dụng, sự thương mại hóa hoạt động văn hóa, chạy theo thị hiếu tầm thường, xa rời nguồn cội, là ở thứ triết lý vọng ngoại, đi ngược lại truyền thống dân tộc. Có vẻ như mức độ hội nhập càng cao thì hiện tượng tha hóa bản sắc càng gia tăng. Hiện tượng mô phỏng, bắt chước, đua đòi, tâm lý hưởng thụ xâm nhập vào tất cả các đối tượng, không phân biệt trình độ học vấn, từ người nông dân đến nghệ sĩ, nhà trí thức. Tuy nhiên trong báo cáo tổng kết về công tác văn hóa hàng năm của một số địa phương vẫn tỏ ra bình thản trước nguy cơ này. Những báo cáo ấy quá ngắn gọn, chỉ điểm lại những việc đã làm và sẽ làm, với những con số về thành tích, cùng với phương hướng thiên về quản lí hành chính trong văn hóa, thiếu những điểm nhấn, những gợi mở liên quan đến đổi mới tư duy trong công tác văn hóa, đáp ứng những đòi hỏi về sáng tạo và hưởng thụ văn hóa trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa.
Văn hóa thực dụng đang xâm nhập vào hệ thống ứng xử, phong cách tư duy và định hướng giá trị, tạo nên những hiện tượng tiêu cực trong sinh hoạt của các đô thị, và từng bước len lỏi vào cả các vùng nông thôn, nơi từng được biết đến với biểu tượng của tính đa dạng văn hóa của từng vùng miền, trải dài trên lãnh thổ Việt Nam. Chưa có các con số điều tra xã hội học về quá trình thực dụng hóa văn hóa miệt vườn, nhưng dư luận về sự mất dần các thói quen ứng xử văn hóa mang đậm chất Nam Bộ trước sức ép của kinh tế thị trường là có thực. Sự đánh mất cái Tôi trước cái Khác đang xâm nhập vào những nẻo đường miền quê vốn một thời yên ả, thanh bình.
Trong khi đó ở chiều ngược lại, tức là việc tổ chức những lễ hội dân gian truyền thống nhằm giới thiệu văn hóa truyền thống dân tộc ra thế giới lại ngày càng tỏ ra thiếu hiệu quả, mang nặng tính hình thức, không tạo ra sức hấp dẫn thường xuyên và đặt trong một vòng quay khép kín, từ tổ chức du lịch văn hóa, thưởng ngoạn cảnh sắc, đến giới thiệu những nét đặc trưng của văn hóa và kinh doanh văn hóa.
Mấy năm gần đây việc đầu tư cho các lễ hội, từ lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội làng nghề, tôn vinh các nghề thủ công và các sản vật của các địa phương, đến lễ hội tưởng nhớ và tôn vinh các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hóa, các bậc hiền tài của từng địa phương, được quan tâm thường xuyên và khá dồi dào về vật chất. Hàng loạt cuộc liên hoan nghệ thuật được quảng bá rầm rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các lễ hội diễn ra dù sôi động, tập hợp nhiều người, nhưng lại thiếu bàn tay tổ chức chu đáo và hiệu quả của chính quyền, an ninh trật tự không được đảm bảo, gây nên tâm lý bất an cho du khách và những người tham dự. Sức hấp dẫn của các lễ hội đối với giới trẻ không cao, nếu không nói là không đáng kể. Họ không tìm thấy vị trí của mình ở đó. Các cuộc liên hoan nghệ thuật diễn ra khá trang trọng, với sự hiện diện của đại diện cấp ủy, chính quyền, các nhà quản lí văn hóa, nhưng hiệu ứng tích cực sau liên hoan thì không. Vì thế mới xảy ra nghịch lí giữa một bên là nhu cầu mở rộng không gian giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua giao lưu, đối thoại, nhưng lại chưa đủ lực, và một bên là những biện pháp bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc trong văn hóa và giới thiệu chúng ra thế giới, nhưng lại chưa đủ linh hoạt để tạo sức hấp dẫn. Tính hình thức, thiếu đồng bộ và thiếu tính chuyên nghiệp của sự tổ chức văn hóa và sự nghèo nàn sân chơi văn hóa là một trong những nguyên nhân của tình trạng tha hóa bản sắc. Điều đó tạo ra mảnh đất màu mỡ cho các giá trị, các chuẩn mực từ bên ngoài (mà không phải tất cả đều phù hợp với tính cách người Việt) phát triển, phổ biến, phá vỡ hoặc làm biến dạng các giá trị truyền thống.
Sự biến dạng giá trị có tính hai mặt, một mặt các giá trị truyền thống chịu sự phản biện khắt khe của những chuyển biến kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi đưa vào nội hàm của mình những tính quy định mới, những yếu tố mới, nếu không muốn bị coi là lỗi thời - đó là biến dạng tích cực, biến dạng để thích nghi; mặt khác, sự lắp ghép gượng ép truyền thống với hiện đại nhân danh “hiện đại hóa truyền thống” trên thực tế đã loại bỏ truyền thống, nghĩa là loại bỏ cái nguyên bản, cái hồn vốn có của nó dưới tác động đa chiều của hội nhập, toàn cầu hóa và kinh tế thị trường.
Hiện đại hóa không có nghĩa là đưa hip-hop vào cải lương như ở một sân khấu tại TP. Hồ Chí Minh vừa qua, đưa chủ nghĩa hậu hiện đại (đích thị là của phương Tây) vào việc trùng tu các công trình văn hóa có từ hàng ngàn, hàng trăm năm của người Việt, hay nhuộm tóc vàng, nhảy disco hát khúc dân ca Nam Bộ …Hiện đại hóa khác xa lai căng.
Đôi điều suy ngẫm
Chúng ta nói nhiều về thích ứng và bảo tồn, nghĩa là về sự điều chỉnh thường xuyên hệ biến thái để tạo được sự phát triển bền vững, kết hợp hài hòa giữa giữ gìn bản sắc dân tộc và tích cực hội nhập với thế giới, học hỏi, tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngoài, làm phong phú văn hóa bản địa. Do đó rất cần một triết lý về văn hóa dựa trên nhận thức biện chứng cái phổ biến - cái đặc thù, tính dân tộc và tính thời đại, giáo dục ý thức tự hào dân tộc với ý thức hội nhập.. Tuy nhiên đôi khi cái đặc thù được nhấn mạnh một cách thái quá, bỏ qua cái phổ biến. Theo chúng tôi, cùng với việc bảo tồn các giá trị truyền thống, đã được thử thách suốt hàng ngàn năm của lịch sử dân tộc, thì việc giáo dục ý thức hội nhập cũng góp phần khắc phục những phản ứng cực đoan như vừa nói trên trước tác động của toàn cầu hóa và liên kết kinh tế quốc tế.
Chúng ta nói nhiều về việc giữ gìn thuần phong mỹ tục, và liệt kê một số yếu tố thuần phong mỹ tục để đưa vào hệ giá trị riêng có (đặc thù) của chúng ta, sử dụng những yếu tố đó làm áp lực đối với một số hoạt động văn hóa bị xem là “trái với thuần phong mỹ tục”. Nhưng thực ra, thứ nhất, trong một thế giới mở, đa dạng như hôm nay, rất cần sự “lọc bỏ biện chứng” đối với cái hiện tồn, để đón nhận cái mới, cái phù hợp với tiến trình hội nhập của đất nước. Thứ hai, cái phổ biến và cái đặc thù, cái hiện đại và cái truyền thống là hai mặt đối lập, nhưng là đối lập biện chứng, có sự chế ước, ràng buộc và chuyển hóa vào nhau. Nhân đây, xin trích lại nhận định của GS Đình Quang trong “Nhận thức và xử lý văn hóa trên thế giới”, cách đây vừa tròn mười năm: “Việc tiếp thu, lựa chọn cái hay của hiện đại thường khó khăn phức tạp. Cái truyền thống là cái đã tồn tại, ta có thể kiểm nghiệm nó dễ dàng hơn. Còn cái hiện tại là cái mới nảy sinh hoặc sẽ đến. Thời gian không phải lúc nào cũng ửng hộ chúng ta trong việc tỉnh táo gạn đục khơi trong ngay được”(6). Mặt khác, do sự vận động của thực tiễn, những cái từng được xem như giá trị trong nhiều thời đại vẫn có thể cần được xem xét lại dưới ánh sáng của thời đại mới.
Trong lĩnh vực văn hóa chúng ta tự hào trước những công trình nghiên cứu lý luận mang tầm vĩ mô, có tính hàn lâm cao, song vẫn còn ít công trình tập trung vào việc xây dựng hệ chuẩn văn hóa, từ ứng xử văn hóa đến cách thức tổ chức hoạt động văn hóa, để quảng bá văn hóa dân tộc ra thế giới một cách hiệu quả và mang tính ổn định (chứ không phải mang tính thời vụ và chụp giựt như tại một số địa phương hiện nay). Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập, cần hình thành đội ngũ những người quản lý không chỉ chú trọng tuyên truyền văn hóa một cách chung chung, sáo mòn, mà còn biết “làm” văn hóa, biết biến ưu thế văn hóa thành sản phẩm văn hóa hiệu quả, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Nghĩa là, cần hình thành văn hóa quản lý trong quản lý văn hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) UNESCO: Tạp chí “Người đưa tin”, tháng 3/1996; bản tiếng Việt, tr. 34; http//www.unesco.org/tolerance/report.htm
(2) J. Derrida: Những bóng ma của Mác. - Nxb Chính trị Quốc gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994, tr. 173 – 174
(3) GS. TS Lê Hữu Nghĩa, TS. Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên): Toàn cầu hóa – những vấn đề lí luận và thực tiễn. - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 12 – 13
(4) Nhiều tác giả: Căn tính tộc nguời. (sách dịch), Nxb Thông tin Khoa học xã hội – chuyên đề, Hà Nội, 1998, tr. 206
(5) Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 54 – 69
(6) GS.TS Đình Quang: Nhận thức và xử lý văn hóa trên thế giới. Nxb Chính trị Quốc gia; Hà Nội, 1999, tr. 62.
Người post bài: Nguyen Thanh Tung
Cập nhật ( 09/02/2012 )