Sản phẩm văn hóa nghệ thuật, tinh thần của bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng đều là thành quả chung của nhân loại. Chẳng ai từ chối ngồi xe hơi hay đi máy bay bởi vì đó không phải là phát minh hay sáng chế của “bản” văn hóa. Nhưng kể cũng đáng buồn, nếu chỉ có tiêu thụ mà không biết làm ra, chỉ biết có “quả” mà không biết có “nhân”. Thời buổi kinh tế tri thức hiện nay, trí tuệ, chất xám thường chứa đựng ở “nhân” còn tham lam, ngu dốt lại thường thể hiện ở “quả”. Những ai phát minh, sáng chế ra máy bay, tàu hỏa… đều đáng tạc tượng để đời chứ có ai hơi đâu mà đi tạc tượng những hành khách đi máy bay, tàu hỏa làm gì.
“Quả” thì có thể “đi tắt” hay “đón đầu” gì đó chứ “nhân” thì không. “Nhân” không thể mua được, cũng không thể “đi tắt” càng không thể “đón đầu”. Trên đời này chẳng ai có thể “đi tắt” từ thiếu niên đến tráng niên “bỏ qua” thời thanh niên được. Đó là lịch sử - tự nhiên, là khách quan, là khoa học. Mác chẳng phải đã nói rằng khoa học chẳng có con đường bằng phẳng nào cả đó sao! Đường bằng phẳng còn chưa có lấy đâu ra cái gọi là “đi tắt đón đầu”? Ăng-ghen có nói đến “thế mạnh” của người đi sau, nhưng cần có điều kiện, đó là khoảng cách giữa người đi sau và người đi trước không quá xa. Hơn nữa người đi sau phải thực hiện mọi công đoạn mà người đi trước đã làm nhưng số lượng đầu tư và thời gian có thể ít hơn. Vậy thì hãy bắt đầu từ cái gọi là “thế mạnh” của người đi sau có phải hay hơn chăng?
“Đi tắt đón đầu” hay là lặp lại những cái mà thiên hạ từ đầu đã không muốn mắc phải:
“Lòng tham lam đê tiện là linh hồn của thời đại văn minh từ ngày đầu của thời đại ấy cho đến tận ngày nay; giàu có, giàu có nữa và luôn luôn giàu có thêm, không phải là sự giàu có của xã hội mà là sự giàu có của cá nhân riêng rẽ nhỏ nhen đó là mục tiêu quyết định duy nhất của thời đại văn minh” (1).
Chắc không phải là “đi tắt” hay “đón đầu” mục tiêu của thời đại văn minh này? Nhưng dẫu sao nó cũng đã vạch đường, chỉ lối cho những “con hươu” gọi là “chủ nghĩa hình thức”, “chủ nghĩa thành tích”, “chủ nghĩa hữu danh vô thực”… chạy tràn lan không chừa nơi nào. Khoa học, công nghệ không những cần cả cuộc đời mà còn cần tích lũy của nhiều thế hệ. Dân tộc Việt Nam vốn hiếu học, nhưng nghiên cứu, học tập cả đời cuối cùng để làm gì? Xã hội đâu có cần những cái đó, chi bằng bỏ ít tiền “đi tắt” có phải nhanh hơn không?
“Đi tắt” còn bật đèn xanh cho những công trình quy mô bạc tỷ nhưng lại chưa được tính toán chu đáo. Thật thà, thẳng thắn, đạo đức trung thực e rằng khó mà tồn tại dưới gầm trời WTO “thật, giả đâu chân lý, hàng hóa lương tâm cũng thiếu thừa” này!
“Hàng hóa lương tâm” có “thiếu thừa” đôi chút liệu có thật quan trọng lắm không khi mà “kinh tế” được đặt vào vị trí “trung tâm”? “Kinh tế là trung tâm” chứ có phải “con người là trung tâm” đâu? Khi mà “kinh tế là trung tâm’’ thì chỉ tiêu để đo đạc mức độ trung tâm của nó lại là GDP. Cho nên “kinh tế là trung tâm” hay “GDP là trung tâm” cũng na ná như nhau. GDP tức là tiền, cho nên nếu “GDP là trung tâm” vậy thì cũng có thể nói “tiền là trung tâm”? Đã là “tiền” thì “tiền” xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa đâu có gì khác nhau, chẳng qua cũng chỉ là vật trung gian để mua bán mà thôi. Đồng tiền ngay ở thời trọng nông của ông Nguyễn Du cũng đã được “son khuyên ngược” rồi huống hồ ở thời buổi kinh tế thị trường hiện nay. Ai mà phân biệt được “đồng tiền” đang “định hướng” tới con người hay con người đang “định hướng” theo “tiền”?
Phàm bất cứ xã hội nào mà đồng tiền còn ngự trị thì làm sao có thể ngăn chặn sự “xuyên tạc” cũng như ma thuật biến thế thới thành “thế giới lộn ngược”:
“Tiền biến trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói xấu thành đức hạnh, tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành ngu… cho nên nó là sự lẫn lộn phổ biến và sự thay thế phổ biến mọi sự vật, nghĩa là thế giới lộn ngược là sự lẫn lộn và sự thay thế tất cả những phẩm chất tự nhiên của tính người” (2).
“GDP là trung tâm” hay “tiền là trung tâm” xem ra có vẻ không hợp lý lắm. Vậy nên hiểu “trung tâm” như thế nào cho đúng đây? “Trung tâm” có nghĩa là điểm hội tụ và cũng là điểm xuất phát, là vấn đề có tính chất quan trọng hàng đầu, là vấn đề cần được thực hiện càng sớm càng tốt. Nếu như “tiền là trung tâm” thì “con người” nên đặt ở đâu? Thành quả quan trọng của cách mạng tư sản phương Tây là thay đổi vị trí trung tâm. “Thượng đế là trung tâm” ở thời kỳ trung thế kỷ đã phải nhường chỗ cho “con người là trung tâm” bắt đầu từ thời Phục hưng. “Nhân bản” (Anthropology) đi liền với “kinh tế”, với khoa học, công nghệ, với cái gọi là “trạng thái tự nhiên”…
Tuy nhiên, khi mà khoa học tỏ ra ngạo mạn trước tự nhiên, dương dương tự đắc rằng sản xuất một ngày hôm nay bằng 20 năm trước đây cộng lại thì con người lại trở thành con vật khi nó lao động tạo ra của cải xã hội. Cho tới nay, kinh tế phát triển đã làm thay đổi giá trị của con người. Nhưng “con người” ở phương Tây vẫn là “con người - kinh tế”, mô hình của kinh tế hiện đại vẫn là mô hình “kinh tế - chính trị”, kinh tế quyết định chính trị chứ không phải chính trị quyết định kinh tế.
Ở Phương Đông, tác giả phương châm “kinh tế là trung tâm” chẳng phải ai khác ngoài Đặng Tiểu Bình. Hoàn toàn chính xác khi Đặng Tiểu Bình khôi phục lại vị trí hàng đầu của kinh tế để cứu vãn tình trạng kinh tế kiệt quệ lúc bấy giờ. Chủ trương chuyển hướng “chính trị là trung tâm” sang “kinh tế là trung tâm” của Đặng Tiểu Bình làm cho kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, liên tục, mức sống của người dân được nâng cao rõ rệt hơn bao giờ hết…
Tuy nhiên “kinh tế là trung tâm” cũng có bề mặt và cả bề trái của nó, tác dụng phụ của nó không ít và ngày càng ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Do nặng về kinh tế, nhẹ về các lĩnh vực khác, cho nên ý thức đạo đức xuống cấp, gây bất ổn không nhỏ đối với xã hội. Nếu không sớm khắc phục thì thành tựu kinh tế có nguy cơ bị phủ định. Để khỏi lệch về kinh tế, ngoài chủ trương “kinh tế là trung tâm” ra, Trung Quốc bổ sung thêm một cái “gốc con người” hay là “lấy người làm gốc” (dĩ nhân vi bản). Vậy là vừa có “trung tâm” lại vừa có “gốc”, chẳng biết “trung tâm” quan trọng hơn hay là “gốc” quan trong hơn? Làm thế nào để đặt “trung tâm” và “gốc” trong quan hệ thống nhất chứ không phải quan hệ mâu thuẫn? Cũng không ít ý kiến cho rằng chủ trương “kinh tế là trung tâm” đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó ở giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, lịch sử đã sang trang, xem ra chủ trương này không còn thích hợp nữa.
Đó là vấn đề cấp thiết không những của xã hội Việt Nam hiện nay. Trung Quốc bổ sung bằng phương châm “nhân bản”, nhưng Việt Nam vẫn còn giữa phương châm “dân bản” từ thời phong kiến. Xem ra cự ly từ “nhân bản” đến “kinh tế là trung tâm” gần hơn cự ly từ “dân bản” đến “kinh tế là trung tâm”. Đương nhiên cự ly gần hơn thì công việc điều chỉnh quan hệ giữa kinh tế và con người có thể dễ dàng hơn.
Văn hóa truyền thống của Việt Nam là văn hóa đạo đức, đạo đức lại là cơ sở của chính trị. Chính trị ở phương Đông không giống với phương Tây ở chỗ chính trị của phương Tây là “biểu hiện tập trung của kinh tế”, chính trị từ kinh tế mà ra, chính trị dựa trên cơ sở kinh tế, biến thiên theo biến thiên của kinh tế. Còn ở phương Đông, đạo đức, hệ tư tưởng mới là cơ sở của chính trị. Chính trị có vững hay không chủ yếu là do đạo đức, tư tưởng có vững hay không. Minh triết phương Đông từ rất xa xưa đã “phát hiện” điều này:
“Tử Cống hỏi làm chính trị thì cần những điều gì? Khổng Tử đáp: “Lương thực đầy đủ, quân đội hùng mạnh và được dân tin”. Tử Cống hỏi: “Nếu như trong ba điều đó không thể làm được cả ba thì nên bớt lại điều nào trước?”. Khổng Tử đáp: “Quân đội”. Tử Cống hỏi: “Nếu trong hai điều còn lại cần thiết phải bớt thì nên bớt điều này trước?”. Khổng Tử đáp: “Bớt lương thực, từ xưa đến nay ai mà không chết, nhà nước mà không làm cho dân tin thì thà chết còn hơn, bởi vì dân mà không tin thì không thể tồn tại được”. (Luận ngữ, Nhan Uyên).
Chữ “tín” ở đây thuộc phạm trù đạo đức. Đạo đức mới chính là cơ sở là điểm tựa của hệ thống chính trị phương Đông, cho nên Khổng Tử đã đặt đạo đức cao hơn cả kinh tế và quân sự. Nho giáo nguyên thủy xem chính trị chỉ là phương tiện, đạo đức mới là mục đích. Nhưng càng về sau, vị trí này được đảo ngược. Chỉ có đạo đức nào hướng về chính trị, có lợi cho việc củng cố vương quyền thì đạo đức đó mới có thể tồn tại.
Chính trị ở phương Tây là “biểu hiện tập trung của kinh tế” nhưng kinh tế của phương Đông lại là “biểu hiện tập trung của chính trị”. Chính trị đẻ ra kinh tế chứ không phải kinh tế đẻ ra chính trị. Kinh tế phát triển gì thì phát triển chẳng qua cũng giống như Tôn Ngộ Không đằng vân giá vũ trong lòng bàn tay của Phật Như Lai mà thôi. Đổi mới ở Việt Nam không phải đặt kinh tế “đối lập” với chính trị như ở Trung Quốc. Cũng không phải chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống sang mô hình kinh tế phương Tây hiện đại. Đổi mới chỉ là thay đổi phần nào quan hệ chính trị và kinh tế, hay nói đúng hơn là thay đổi cách quản lý bao cấp của chính trị đối với kinh tế. Kinh tế của Việt Nam cho tới nay về cơ bản, vẫn tiếp tục mô hình truyền thống. Tuy nhiên, trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, khi đã bước chân vào WTO thì không thể không chịu tác động của mô hình kinh tế phương Tây, mô hình kinh tế - chính trị chứ không phải đạo đức - chính trị. Mỗi mô hình kinh tế đều có hai mặt, kinh tế truyền thống có lợi cho sự ổn định của hệ thống chính trị nhưng lại không tạo được điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. Mô hình kinh tế phương Tây tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển nhưng lại không có lợi cho sự ổn định của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại, đan xen giữa hai mô hình kinh tế, giá trị đạo đức và giá trị con người đang bị chao đảo. Một giá trị có thể là “dương” ở mô hình này lại có thể là “âm” ở mô hình kia. Cuối cùng “khổ” nhất vẫn là thân phận của đạo đức. “Đạo đức” trước đây nếu không được xem là mục đích, ít ra cũng được xem là phương tiện, nhưng càng về sau mô hình kinh tế truyền thống có vẻ “nuông chiều” kinh tế hơn, cho nên nó bị cả “hai họ” (cả mô hình kinh tế hiện đại) bỏ mặc cho bèo giạt mây trôi… Một xã hội mà đạo đức đang xuống thấp thì tìm đâu ra đồng thuận chính trị cao bao giờ?
Đã đến lúc chính trị - kinh tế minh triết hơn để lắng nghe tiếng đời thì lẽ nào “đạo đức” lại nỡ đành dứt đi không hẹn ngày trở về trong một buổi chiều tàn thu lá bay nào đó?...
CHÚ THÍCH:
(1) Cac Mac Phri - drich Ăngghen tuyển tập (6 tập), T.6, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.271.
(1) Cac Mac Phri - drich Ăngghen tuyển tập (6 tập), T.6, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.135.
Nguồn: Xưa & Nay, số 361