Về văn hóa dân gian trong xã hội đương đại
Văn hóa dân gian thường được hiểu “là văn hóa do nhân dân lao động sáng tạo.Văn hóa dân gian nước ta chủ yếu do nông dân, thợ thủ công và một số trí thức Nho học sống gần gũi nhân dân sáng tạo ra.Văn hóa dân gian bao gồm phong tục, nghi lễ dân gian, văn học dân gian, đồ gia dụng trong dân gian…”(1).Thực tế thì thuật ngữ “Foklore” phổ biến trên thế giới-được phần lớn các nhà nghiên cứu Việt Nam gọi là “Văn hóa dân gian”- trong nghiên cứu đương đại bao hàm nhiều lĩnh vực hơn, rộng hơn, như ngoài phong tục, nghi lễ dân gian, văn học dân gian…- đã trích dẫn ở trên, còn có: “ âm nhạc dân tộc học, cử chỉ học, dân tộc học lời nói, diễn xướng múa, diễn xướng hát, lễ hội, văn hoá truyền miệng,tín ngưỡng dân gian, tôn giáo dân gian, đời sống dân gian,văn hóa dân gian mô phỏng, trí thức nghề, vật nhân tạo, y phục…”(2)
Đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, thế nhưng một định nghĩa được cộng đồng thế giới sử dụng nhiều và qua đó “xác tín”, cập nhật các lĩnh vực Folklore-đó là định nghĩa của UNESCO nêu trong “ Tuyên bố về chính sách văn hóa” tại Hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa của UNESCO từ ngày 26/7 đến ngày 6/8/1982 ở Mexico-“văn hóa là tổng thể những nét đặc thù về tinh thần và vật chất, về trí tuệ và xúc cảm quy định tính cách của một xã hội hay của một nhóm xã hội.Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của (tồn tại-being) người, những hệ thống giá trị, những truyền thống và tín ngưỡng.Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét (reflect-phản tư) về bản thân.Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt-con người, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý.Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân,tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm kiếm không mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt qua cả giới hạn của bản thân”(3)
Bởi luôn sống động trong đời sống con người, văn hóa luôn vận động trong không gian-thời gian, vì vậy, văn hóa với các giá trị, hệ giá trị của văn hóa- của các hiện tượng văn hóa- luôn biến đổi thông qua thực hành văn hóa, tiếp xúc văn hóa, tiếp biến văn hóa.Xét về mặt xã hội, điều dễ nhận diện là khi xã hội chuyển từ truyền thống nông nghiệp sang xã hội công nghiệp hiện đại và nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, quyền lực của các giá trị, chuẩn mực văn hóa cũng như mối quan hệ cố kết mang tính “làng xã”, cộng đồng, quan hệ của từng thành viên trong xã hội suy yếu nghiêm trọng.Chính sự suy giảm sức mạnh trên làm cho sự kiểm soát xã hội theo “dư luận dựa trên đạo lý cộng đồng truyền thống” mất hiệu lực – đó chính là một trong những nguyên nhân khiến đạo đức cộng đồng suy yếu, hành vi phản văn hóa, hành vi phạm tội của các thành viên tăng nhanh.
Trong xã hội đương đại, vai trò của văn hóa dân gian đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa quan tâm.Văn hóa dân gian được vận dụng để giải quyết bài toán giữa truyền thống và phát triển, bảo tồn bản sắc văn hóa của nhóm xã hội, xã hội trong giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác biệt.Văn hóa dân gian được xem là “cầu nối” giữa các giá trị “cổ truyền” và các giá trị ích dụng của đời sống đương đại tạo nên sự hài hòa, bền vững trong quá trình đô thị hóa.Văn hóa dân gian phát huy giá trị “cố kết cộng đồng”, “tương thân, tương ái”, “tình làng nghĩa xóm”, lòng yêu quê hương, nguồn cội, yêu quý tôn trọng thiên nhiên, yêu quý bản thân, tinh thần hiếu học…có được từ truyền thống lâu đời của cộng đồng trong việc xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, hoạt động giáo dục, hoạt động du lịch, thể dục thể thao.
Văn hóa dân gian trước thách thức “biến mất”
Trong hơn mấy chục năm qua, một ngành mới của văn hóa dân gian ra đời, đó là văn hóa dân gian ứng dụng (applied folklore).Văn hóa dân gian ứng dụng được nghiên cứu và thực hành để giải quyết những vấn đề xã hội như bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, vận dụng tri thức dân gian bản địa trong y học, phong tục, luật tục trong quy hoạch thành phố, việc chăm sóc người cao tuổi, trò chơi dân gian và không gian công cộng, vấn đề người nhập cư và đời sống tinh thần…
Ở bất kỳ một địa phương nào trên đất nước ta hiện nay, văn hóa dân gian cũng đang đối mặt với thách thức tồn tại hay không tồn tại, văn hóa dân gian đang biến đổi, giữ thành tố nào, bỏ thành tố nào, biến đổi như thế nào là thích hợp,là tương thích với cuộc sống đương đại-nghĩa là giữ gìn bản sắc trong sự đa dạng, trong sự phát triển bền vững giàu bản sắc từ dân tộc đến vùng, miền, địa phương, cộng đồng, nhóm xã hội.Dường như trong “tiếp xúc văn hóa” trong bối cảnh toàn cầu hóa , công nghiệp hóa, văn hóa dân gian không còn là một thực thể nghiêm ngặt, thống nhất với nhiều thành tố khác nhau hợp thành mà các thành tố đang phân rã, vỡ vụn làm biến đổi cả cấu trúc và chức năng.Một trường hợp rõ nhất là-trong âm nhạc-một số thành tố ca từ, giai điệu, điệu thức, phong cách… dân ca đã “biến đổi trong tích hợp” với các thành tố trong ca khúc đương đại để có tên gọi mới: “ca khúc dân gian đương đại”.Trong phong tục thì lệ cưới, tang ma, cúng kiếng đã có nhiều biến đổi, hoặc bớt đi những thành tố “không hợp thời, lạc hậu”, hoặc “thêm thắt” những thành tố mới-cả tích cực lẫn tiêu cực như việc không rải vàng mã trên đường di quan (tích cực), còn việc “múa lửa,lắc vòng, biểu diễn sex” như một số nơi ở trong Nam là phản cảm, phản văn hóa (tiêu cực) .Điều đáng lưu ý là một khi văn hóa dân gian mất đi cơ sở xã hội- môi trường bảo tồn và phát triển thì nguy cơ “biến mất” là thực tế khó tránh.Thế nhưng do trường tác động của văn hóa dân gian đối với một cộng đồng xã hội lại có những thành tố lâu bền-cho dù trải qua quá trình “giải cấu trúc” mạnh mẽ (chữ dùng của GS Tô Ngọc Thanh) thì những “mảnh vụn” của văn hóa dân gian vẫn tác động mạnh mẽ đến cuộc sống đương đại.Ở Quảng Nam chẳng hạn, sau một thời gian nghề tằm tơ tưởng chừng mai một lại được hồi sinh với làng lụa Quảng Nam do được bảo tồn tri thức dân gian về “tằm tang” và vận hội mới do du lịch mang đến, các điệu hò giã vôi, giã gạo tưởng đã mất cùng nghề cổ lại được phục dựng trên sân khấu quần chúng, sản phẩm tò he đất lại nuôi sống một bộ phận không nhỏ các hộ làm gốm ở Nam Diêu (Thanh Hà, Hội An), rồi nghề lồng đèn, nghề may, hô hát bài chòi, nghề vẽ mặt nạ tuồng, trang phục lễ hội, múa trong lễ hội…lại được “mô phỏng” trong các lễ hội du lịch, sự kiện văn hóa đương đại (các “Ngày hội văn hóa”,các liên hoan, hội diễn quần chúng…)
Từng có nhiều ý kiến “phản bác” khi đưa những thành tố văn hóa “truyền thống” vào sự kiện văn hóa đương đại thế nhưng vấn đề quan trọng là lựa chọn những thành tố nào là hợp lý-không làm ảnh hưởng tiêu cực đến thực thể folklore gốc- bởi giới nghiên cứu folklore đương đại gọi đích danh đó là ngành folklore mô phỏng (Folklorismus/Folklorism).Văn hóa dân gian mô phỏng được dùng để chỉ “ các tư liệu dân gian gây ấn tượng bằng thị giác và thính giác hoặc mang lại niềm vui thích về mặt thẩm mỹ như trang phục, biểu diễn trong lễ hội, âm nhạc hay nghệ thuật (kể cả món ăn), những tư liệu thích hợp mà người ta có thể tách chúng ra khỏi bối cảnh ban đầu của chúng để sử dụng theo một cách mới cho các nhóm công chúng khác, thường là đông hơn”(4).Như vậy, một số thành tố của văn hóa dân gian đang được “tái cấu trúc” góp phần tạo nên diện mạo của văn hóa xã hội đương đại.
Cần có chính sách văn hóa cho văn hóa dân gian
Thật vậy, trong quá trình phát triển văn hóa dân gian nói riêng, văn hóa nói chung luôn có quá trình biến đổi các giá trị, hệ giá trị-chính quá trình này đòi hỏi phải có những chính sách văn hóa kịp thời, tương thích, làm thế nào đó một hiện tượng, sự kiện văn hóa là một quá trình văn hóa biết kế thừa những giá trị cốt lõi, căn cơ làm nên ‘bản sắc” địa phương, dân tộc, quốc gia, đồng thời với quá trình điều hợp, điều chỉnh, hiệu chỉnh việc tiếp thu các thành tố văn hóa khác biệt để xác lập hệ giá trị mới phù hợp với cuộc sống mới, gắn với cái tốt, cái thiện, cái đẹp, thấm đẫm tính nhân văn.
Trong quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới hiện nay ở tỉnh ta rất cần những nghiên cứu về văn hóa dân gian ứng dụng để cư dân đô thị hóa vừa lưu giữ những giá trị tốt đẹp của ‘văn hóa làng” (phong tục , lễ tục kính ngưỡng tiên tổ, tiền hiền, tinh thần cố kết cộng đồng, các sinh hoạt văn nghệ dân gian, tri thức dân gian về nghề…) vừa “sáng tạo” những hình thức văn hóa dân gian mới như “Ngày hội hát hò khoan”. “Lễ hội thanh minh Gò Nổi-Điện Bàn”, “Ngày hội hiếu học”, “Đêm hội “Bông hồng cài áo Hội An”…có như vậy, văn hóa dân gian ứng dụng mới thực sự góp phần làm cho văn hóa dân gian không biến mất trong cuộc sống hiện đại.
================
(1) Chu Huy-Sổ tay kiến thức văn hóa dân gian Việt Nam-NXB Giáo Dục-Hà Nội 2014, tr. 10
(2) Ngô Đức Thịnh-Frank Proschan (chủ biên)-Folklore, một số thuật ngữ đương đại-NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2005 tr.443-444
(3) Dẫn theo -Dương Phú Hiệp (chủ biên)-Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam-NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2012 tr.35-36
(4) Ngô Đức Thịnh-sđd-tr 108