Người đời đã tìm thấy ở nó cả một kho thuốc vô cùng hiệu nghiệm. Không một bộ phận nào của con hổ là không dùng làm thuốc được: Tinh hoàn hổ chữa lao phổi, da hổ chữa các bệnh về tinh thần, mỡ hổ chữa các bệnh nôn mửa, trĩ, thịt hổ bổ dạ dày, lá lách, trị sốt rét, lông hổ đốt lên xua đuổi được rắn rết, côn trùng, óc hổ chữa mụn và chứng uể oải; mũi hổ chữa động kinh và các cơn co giật ở trẻ em, răng hổ chữa dại, chữa suyễn, ria mép hổ chữa đau răng, huyết hổ giúp con người tăng cường thể trạng và ý chí; thận hổ chữa suy nhược; dạ dày hổ chữa dạ dày người và đuôi hổ chữa các bệnh về da. Nhưng quý nhất trong con hổ phải kể đến bộ xương. Toàn bộ tinh lực, tinh khí và thần khí của con vật đều tích tụ vào đó. Cao hổ cốt giúp con người bồi bổ gân cốt, tăng cường thể lực một cách toàn diện, kéo dài tuổi thọ, tuổi thanh xuân... Trong Lịch pháp phương đông, hổ là một trong 12 con giáp. Tháng giêng, tháng mở đầu trong năm là tháng hổ (dần). Người đàn ông khỏe mạnh ngày xưa là người "mình hổ tay vượn", người cương trực thường có tướng "mắt hổ, râu xồm", bậc hào kiệt là bậc " râu hùm hàm én". Viên tướng võ khỏe mạnh được gọi là "hổ oai tướng quân" (Lưu Bị có "ngũ hổ đại tướng quân": Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung. Hứa Chử, một viên tướng của Tào Tháo được tôn xưng là "hổ hầu". Một vị đô đốc của vua Quang Trung cũng được tôn xưng thế (Hám hổ hầu), trạng nguyên họ Lê vì ăn rất khỏe nên được gọi là "Lê Như Hổ"). Nơi làm việc của tướng soái ngày xưa gọi là "hổ trướng" (Trướng hùm mở giữa trung quân - Nguyễn Du)... Con hổ vừa gây kinh hoàng cho con người bởi tính hung dữ, man rợ, bởi địa bàn cư trú là đại ngàn mênh mông , vừa thâm u vừa bí mật lại vừa gây cho con người sự quyến rũ, say mê bởi nó là biểu trưng cho sức mạnh, gắn liền với sức mạnh và vẻ đẹp, sự oai phong... Trong tâm thức người đời, hổ là con "vật thiêng", hổ được gọi là "ông Kễnh", "ông ba mươi", là "ngài", là "quan lớn", không chỉ là "chúa sơn lâm" mà còn là vị tướng trấn thủ ở cả cõi âm lẫn các cửa tiên, cửa thánh (có đền phủ nào mà trước cửa không có một vài "ông kễnh" bằng đá, bằng xi măng hay bằng sứ ngồi chồm hỗm?) trấn trị cả năm phường, trừ tà ma, trị hung hiểm. Điều đó thể hiện rất rõ trong tranh "ngũ hổ", một bức tranh dân gian thuộc dòng tranh Hàng Trống.
Khác với mọi bức tranh dân gian khác. Tranh "ngũ hổ" không được bày bán mà là tranh thờ trong các thần điện của đạo giáo phù thuỷ. Hay chỉ được "trưng" lên khi các thầy phù thuỷ lập đàn. đạo giáo phù thuỷ có gốc Trung Quốc, thâm nhập vào ta từ quãng thế kỷ II và nhanh chóng hòa quyện với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền của người Việt (theo tiến sĩ Trần Ngọc Thêm - tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam), tạo được một chỗ đứng rất vững chắc từ cung đình đến dân gian. đạo giáo phù thuỷ Việt Nam, bên cạnh việc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão Quân, Trấn Vũ, Quan Thánh đế Quân như của Trung Quốc, còn thờ rất nhiều vị thần "quốc nội": đức thánh Trần, Bà chúa Liễu, Mẫu Tam phủ, Tứ phủ; Thần Tam Bành, Thần độc Cước, Thần Huyền đàn, Quan lớn tuần Tranh và ông Năm Dinh. Ông Năm Dinh gọi là "Ngũ Dinh quan lớn", tức Ngũ hổ.
Vì là tranh thờ của đạo giáo nên nó có hình dáng như một lá bùa. Nền tranh màu xanh được viền bằng những đám mây cuộn ngũ sắc. ở trung tâm là một "ông ba mươi" ngồi chồm hỗm, mặt quay về hướng chính Bắc (các vị thần tổ của đạo giáo đều là ... người phương Bắc), lưng phía chính Nam. Lơ lửng trên đầu "ông" là một mặt nguyệt và dưới mặt nguyệt là một chòm 7 ngôi sao trong "nhị thập bát tú" (hướng chính Nam ứng với vòm Chu Tước, xuất hiện vào mùa hạ, bẩy ngôi sao đó là: Tinh - Trương - Dực - Chẩn - Tỉnh - Quỷ - Liễu). Hai chân và hai tay "ông ba mươi" này chồng lên nhau, cùng quắp chặt một cái ống đựng bùa. Bên trái "ông" là một hàng năm lá cờ ngũ sắc; bên phải một giá cắm đủ 5 thanh kiếm (bùa, cờ, kiếm là những vật thường dùng của đạo giáo. Khi lên đàn thì xõa tóc cắp kiếm, lưng đeo cờ lệnh, đốt bùa để cầu đảo hay sai khiến thần linh). Bốn "ông ba mươi" khác từ bốn hướng: đông Bắc, tây Bắc, đông Nam, Tây Nam (đúng ra là phải 4 hướng chính. Nhưng vì lý do nghệ thuật nên người ta vẽ chệch đi cho đẹp, cho cân đối. Vậy nên ta có thể xem như con hổ hướng đông Bắc là Bắc; Tây Bắc là Tây; đông Nam là đông và Tây Nam là Nam) cùng cong đuôi chầu về "ông kễnh" trung tâm. Về kích thước, thì "ông kễnh trung tâm" to gấp đôi các "ông" kia (Thế nên dân gian chỉ gọi nôm na là hổ mẹ, hổ con). Về màu sắc, ta thấy mỗi "ông" một màu. Sự bố trí màu ở đây hoàn toàn không phải là sự ngẫu nhiên, sự tuỳ hứng mà có cơ sở từ thuyết ngũ hành. Theo thuyết này, thì hành Thổ ở trung ương, về vật chất là đất, thuộc dương (đất là dương với nước nhưng lại âm với trời) ứng với màu vàng. Nên con hổ ở trung tâm màu vàng. Tiếp đó là hành Thuỷ, về vật chất là nước, thuộc âm nên phải ở hướng Bắc (đông Bắc theo hình vẽ) vì phương Bắc thuộc âm, ứng với màu đen. Nên con hổ phương Bắc màu đen. đối lập với hành Thuỷ là hành Hỏa (lửa) thuộc dương, màu đỏ, ứng với phương Nam. Nên con hổ phía Nam màu đỏ. Phương đông thuộc hành Mộc, về vật chất là cây cối, hoa lá, thuộc dương, sắc xanh. Con hổ phía đông vì vậy màu xanh. Và cuối cùng phương Tây thuộc hành Kim, sắc trắng (về vật chất là kim loại) thuộc âm. Nên con hổ phía Tây màu trắng.
Bắt đầu từ con hổ có màu trắng, nối chúng với nhau theo chiều kim đồng hồ. đến con hổ đỏ thì cắt một đường thẳng vào con hổ trung tâm, ta sẽ được một vòng tròn khuyết. Vòng tròn khuyết đó biểu hiện sự tương sinh của ngũ hành: Kim sinh Thuỷ - Thuỷ sinh Mộc - Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ. Nếu dịch con hổ vàng, tức hành Thổ ở trung tâm vào chỗ khuyết của vòng tròn đó (khoảng cách giữa 2 con hổ trắng và đỏ) rồi nối từng cặp theo đường thẳng, bắt đầu từ con hổ vàng. Ta thấy đó là sơ đồ của Ngũ hành tương khắc: Thổ khắc Thuỷ - Thuỷ khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc.
Vì hổ là biểu trưng cho sức mạnh, lại đã "đầu quân" vào cửa Tiên, cửa Thánh nên "Ngũ Dinh quan lớn" bốn chân ấy mà đã trấn trị ở ngũ phương thì tà ma chỉ có đường "cút hết, cút ráo, cút tiệt" (Lời thầy phù thuỷ trong vở chèo Kim Nham). Tuy mang mục đích tôn giáo, nhưng vì là tranh dân gian, nên nó mang đầy đủ phong cách dân gian: Nét vẽ thô mộc, chắc khỏe, sống động và rất... hiền. Nhìn cả năm "ông ba mươi" ấy, chả thấy gì là oai phong, dữ tợn cả mà người ta chỉ thấy một bầy hổ con vô tư quấn quýt nô đùa quanh hổ mẹ. Ấm áp như là những bức tranh lợn me, lợn con, gà mẹ gà con của dân gian vậy.
Sức sống của bức tranh chính là ở chỗ nó đã thoát được khỏi cái vòng tôn giáo ấy.
Nguồn: suutap.com