II- Thư từ trao đổi của một HVCH với GS. Trần Ngọc Thêm
về ảnh hưởng của tư tưởng văn hoá học trong giáo dân
Thư của một HVCH VHH (viết ngày 21-11-2010)
Thưa Thầy, một năm về trước, em đã có dịp tâm sự với Thầy về niềm thao thức nơi em với ước mong giảng học thuyết văn hóa của Thầy cho anh em trong giới Công giáo. Khi có cơ hội trò chuyện với anh em đồng nghiệp cùng tôn giáo, em đều dùng nhãn quan Hệ thống loại hình mà gắng giải thích các việc diễn ra khắp nơi. Chưa hẳn em đã suy tư được việc gì sâu sắc nhưng điều đáng mừng là mặc cho một số người phản đối quyết liệt chuyện bị gọi là "nông nghiệp", đa phần đều hưởng ứng nhiệt tình, những người hưởng ứng nhất hầu hết lại là những anh em ít bằng cấp, công nhân, thợ may, tu sĩ...
Em vẫn chỉ dám tâm niệm rằng, học thuyết của Thầy không phải duy nhất, nhưng nó phù hợp với khả năng của em nhất, và có lẽ, nó cũng phù hợp với những anh em kia.
Thưa Thầy, ngày hôm nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam khai mạc cuộc tập họp Đại hội Dân Chúa lớn nhất lịch sử 477 năm, chắc chắn sẽ có nhiều đổi mới tiếp theo đó. Buổi tối, khi vào xem thông tin, em thực sự vô cùng bất ngờ khi đọc bản "Văn kiện Góp ý của Giáo lý viên Tổng Giáo phận Tp.HCM". Lần đầu tiên, Giáo lý viên Tp.HCM lên tiếng mạnh mẽ với những đề nghị của mình, và họ đề nghị dạy "Cơ sở Văn hóa Việt Nam" trong chương trình đào tạo Giáo lý viên ở các nhà thờ Việt Nam như môn nhiệm ý (Giáo trình ắt là của Thầy, vì với họ, nói đến sách văn hóa tức là cuốn ấy). Cũng trong văn kiện, xuất hiện hàng loạt khái niệm như “cảm tính”, “duy lý”, “trọng già trọng trẻ”, “mê hình thức”, v.v. rất quen thuộc với những ai từng nghe thầy giảng bài..
Có nghĩa rằng, hiện đang có nhiều anh em trẻ tâm đắc với tư tưởng hệ thống - Loại hình của thầy, và em vui mừng vì góp được một phần nhỏ sức mình trong việc mở rộng nó, không phải vì em là học trò Thầy, mà cơ bản là vì nó có giá trị riêng.
Em kính gửi đến Thầy toàn văn bản góp ý đó như lời tri ân, vì với em, nó là một sự vui mừng lớn. Nhân đây và nhân dịp 20-11 này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy, vì ngoài những cống hiến trực tiếp, Thầy cũng đã cố lo liệu để chúng em được học tập với những Thầy Cô tài đức, tận tâm khác. Cuộc sống luôn có những sự việc không thuận ý con người, khoa học lại càng như thế, nhưng vượt trên tất cả, em luôn ghi nhớ tấm chân tình của Thầy và tất cả các Thầy Cô trong Khoa.
Một HVCH VHH
Thư trả lời của GS. Trần Ngọc Thêm (ngày 24-11)
Thầy vui mừng về các thông tin em cung cấp.
Lúc nào gặp em thầy muốn trao đổi để hiểu rõ hơn về “sự phản đối "tính nông nghiệp" của anh em giáo sĩ. Có phải vì họ bị nhiễm văn hoá phương Tây nhiều quá hay không? Còn những người ủng hộ khái niệm “văn hoá nông nghiệp”, có phải vì trình độ của họ thấp nên họ không bị văn hoá phương Tây chi phối?
Trần Ngọc Thêm
Thư hồi đáp của HVCH (ngày 24-11)
Dạ, em cảm ơn Thầy đã dành thời gian cho em.
Em xin phép được nói thêm một chút về vấn đề này Thầy ạ.
Các Giáo sĩ và tu sĩ không ai (hoặc em chưa thấy ai) phản đối ạ, những người phản đối là một số người trí thức, có bằng cấp tương đối. Cái mà họ không chấp nhận là hai việc: một là việc họ bị gọi là "gốc nông nghiệp", vì họ cực đoan đồng nhất nông nghiệp với cái gì đó thấp kém, ít chất xám, lôi thôi, nói đúng hơn họ cho "nông nghiệp" là "Hai lúa". Hai là họ cố chấp hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp, xếp văn hóa ngang với chính trị, xã hội, kinh tế... Cái đầu chỉ là quan điểm, nhưng cái thứ hai theo em có vẻ nghiêm trọng hơn, có lẽ vì xưa nay, họ cứ hiểu văn hóa phải là cái gì đó "tốt đẹp", tức phải là "văn hóa tinh hoa".
Tuy nhiên, dấu hiệu đáng mừng là nhiều học giả Công giáo đã không hiểu như họ. Em xin đưa một vài dẫn chứng:
- Hồng y Phạm Minh Mẫn luôn sử dụng cụm từ "Văn hóa Sự sống và Văn hóa Sự chết" (rõ ràng là đã hiểu tính giá trị theo kiểu Hệ thống - Loại hình, vì xưa nay, ai cũng phản đối rằng sự chết sao có thể là văn hóa [giống như không thể có “văn hoá bài tiết” vậy!]).
- Giám mục Nguyễn Khảm cũng nhận định rằng văn hóa Việt Nam là văn hóa nông nghiệp, có lần Giám mục về giảng lễ ở chỗ em, đã khen ngợi nếp sống đùm bọc cộng đồng làng xã nhưng cũng cảnh báo về môi trường cho những dư luận "truyền tai" và tin đồn thất thiệt.
- Giám mục Trần Xuân Tiếu nhiều lần nhận mình là Giám mục nông dân với tư duy nông nghiệp.
- Linh mục Đặng Không Sơn trong cuốn "Tín ngưỡng dân gian Việt Nam" năm 2006 đã lập luận dựa trên việc thừa nhận tiền đề "Văn hóa Việt Nam là âm tính và nặng về nữ tính" (tr3).
- Linh mục Sử gia Nguyễn Thế Thoại trong cuốn "Giáo hội đi trong nhân loại" 1991 không những công nhận hai loại hình văn hoá du mục và nông nghiệp, mà còn nói thêm về mặt Thần học: "Nếu tin ở bàn tay quan phòng của Thượng Đế, người ta nói: Thiên Chúa chọn văn minh La Mã để Tin Mừng của Ngài mau chóng loan truyền khắp nơi" (tr. 56).
..................................................
Thưa Thầy, bản thân em chủ quan nghĩ rằng, có lẽ đã đến lúc người Việt Nam quan tâm hơn đến văn hóa, muốn hiểu hơn về văn hóa, ngay cả những người lao động ở khu phố em, mỗi khi nói gì đến văn hóa là họ nhắc ngay đến Thầy và cô Hiền. Trong lễ tang, lễ cưới, họ hay gọi em đến xem giúp "liệu sắp xếp vầy được chưa" khi biết em học văn hóa học. Em đến, nghe họ liên tục nói đến Thầy và cô Hiền, em rất vui nhưng chưa dám cho họ biết em là học trò của Thầy, phần vì em chưa hoàn thành một học vị nào cả, phần vì nếu biết, họ sẽ không chừa một phút nào để hỏi thăm về Thầy cô. Họ thần tượng nhất năm người: giáo sư Trần Ngọc Thêm, phó giáo sư Phan Thu Hiền, cô Lý Thị Mai, giáo sư Trần Văn Khê và giáo sư Ngô Bảo Châu.
Họ tư duy suy luận theo kiểu đồng hóa rất nhiệt tình. Họ cho rằng, một khi họ quen em, mà em lại là học trò Thầy, thì như thế là họ đã "quen Thầy", mà đã quen, nhất định phải hỏi thăm Thầy thông qua em, và em có nghĩa vụ phải cho họ biết tất cả mọi chi tiết "ngoài học thuật" về Thầy, vd: Thầy cô giờ ở đâu, sắp làm gì, thích ăn món gì, có nuôi chó không, có khi nào bị công an phạt vì lấn đường như họ không... Và hàng tá chuyện cười ra nước mắt khác.
Em cảm ơn Thầy đã dành thời gian cho em, em rất mong lúc nào đó sẽ có dịp gặp Thầy ở trường để xin được chia xẻ vài vấn đề về học thuyết của Thầy. Em rất mong mỏi sẽ sớm hoàn tất mọi sự để tập trung tìm hiểu sâu hơn về Lý thuyết Hệ thống - Loại hình. Như chúng em đã thấy qua lời Thầy giảng, tất cả lý luận ấy có thể gói gọn trong 10 phút hoặc hai trang giấy A4 là đủ. Nhưng với chúng em, thật không dễ để hiểu thấu đáo, lại càng không dễ để diễn giải đơn giản rõ ràng lại cho người khác được. Vì vậy, em càng trân trọng tất cả những tình cảm và cố gắng mà Thầy và Khoa đã dành cho chúng em.
Kính chúc Thầy sức khỏe và bình an.
Một HVCH VHH
III- Trích TỔNG HỢP GÓP Ý CHO ĐẠI HỘI DÂN CHÚA
của GIÁO LÝ VIÊN TỔNG GIÁO PHẬN TP.HCM
Fri, 19/11/2010
Văn bản tổng hợp dựa trên ý kiến đóng góp của Giáo lý viên các giáo xứ thuộc tổng Giáo phận TP.HCM. Văn bản gồm 3 phần chính ứng với 3 chiều kích của cuộc sống người Giáo lý viên nói riêng và người Kitô hữu nói chung: (1) Tương quan chiều dọc: với Thiên Chúa; (2) Tương quan chiều ngang: với tha nhân; (3) Tương quan chiều sâu: với bản thân mình. Vanhoahoc.edu.vn trích giới thiệu mục 1 của phần 2
2. Tương quan chiều ngang: Tương quan với tha nhân:
2.1. Với xã hội:
a. Thực trạng:
Mối tương quan của Giáo lý viên với xã hội thể hiện qua việc giữ gìn và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc và qua sự đối thoại với các tôn giáo bạn. Mà hiện nay mối tương quan này đang gặp phải nhiều khó khăn, thử thách.
• Văn hóa xã hội:
- Sự du nhập ồ ạt văn hóa phương Tây khiến xã hội VN hiện nay đang đánh mất dần những nét đẹp văn hóa truyền thống.
- Giáo dục con người vì mục đích mưu sinh hơn là vì mục đích đào tạo.
- Xã hội tràn lan những bệnh thành tích, gian dối từ chính những mầm non tương lai của đất nước. Đây cũng là tình trạng đáng báo động trong chính các lớp giáo lý, thậm chí các lớp đào tạo Giáo lý viên, chủ yếu để có tấm bằng.
• Đối thoại liên tôn:
- Trên địa bàn TP hiện nay có sự góp mặt của nhiều tôn giáo bạn, đòi hỏi phải có sự đối thoại, hợp tác.
- Một số giáo dân, đặc biệt là các bạn trẻ, khi tìm hiểu về tôn giáo bạn, trong khi đó lại chưa hiểu biết đủ về đạo Công Giáo, dễ dàng bị lung lay, thậm chí mất đức tin, hoặc có thái độ độc tôn (Công Giáo là tuyệt đối, là nhất), hoặc có thái độ ba phải (Công Giáo là đạo ăn ngay ở lành như các đạo khác).
- Sự gặp gỡ và những cuộc hôn nhân khác đạo, khác miền cũng là tiền đề cho việc đối thoại tôn giáo trên bình diện dạy giáo lý. Điều này đòi hỏi Giáo lý viên nói chung, đặc biệt là Giáo lý viên dự tòng và hôn nhân gia đình nói riêng, phải có những kiến thức nhất định về các tôn giáo.
b. Giải pháp đề nghị:
• Nỗ lực khám phá ra vẻ đẹp và hạt giống Lời Chúa trong văn hóa dân tộc:
- Trong công tác dạy và học giáo lý:
* Giảng dạy giáo lý khởi đi từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của người dân Việt: đặt niềm tin vào Đấng tối cao (ông trời), kính già yêu trẻ, hòa nhã, tương thân tương ái, cần cù, chịu khó…
* Tái khám phá chân dung đức tin của các vị tiền nhân: học hỏi nhiều hơn nữa về các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Đề nghị:
* Đem những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc vào Phụng vụ và các sinh hoạt tôn giáo: mỹ thuật thánh, thánh nhạc (thánh nhạc mang âm hưởng nhạc dân tộc)…
* Giáo Hội mạnh dạn lên tiếng trước những hoạt động, trào lưu làm băng hoại xã hội, những ảnh hưởng của nền văn hóa sự chết.
• Nỗ lực đem Tin Mừng đối thoại với các nền văn hóa và các tôn giáo khác.
- Học hỏi:
* Trao đổi, học hỏi với các tôn giáo bạn qua các dịp lễ lớn của họ và của Công Giáo.
- Đề nghị:
* Khuyến khích giao lưu, đối thoại liên tôn cấp giáo phận, giáo hạt, giáo xứ trên tinh thần tôn trọng, bác ái.
* Có các khóa học cấp giáo hạt, giáo xứ (cấp giáo phận đã có một số môn học tại Trung tâm mục vụ), tài liệu về đối thoại liên tôn dễ hiểu và phổ thông.
* Giảng dạy phần “Nhập môn Tôn giáo học” và “Cơ sở văn hóa Việt Nam” như môn nhiệm ý cho Giáo lý viên trong quá trình đào tạo (không bắt buộc).
IV- Kitô giáo và văn hóa Việt Nam
(Trích từ cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam của GS. Trần Ngọc Thêm,
bản in năm 2004, tr. 533-535, minh họa bằng video, nguồn Youtube)
Trong cuộc giao lưu và tiếp xúc với Kitô giáo, văn hóa Việt Nam không chỉ giành được quyền được tôn trọng, mà trong một số trường hợp, nó còn khiến cho Kitô giáo khi vào Việt Nam đã được bản địa hóa, tiếp nhận những dấu ấn của văn hóa Việt Nam.
Chúa Giêsu là người sáng lập ra Kitô giáo cho nên lẽ hiển nhiên là trong Kitô giáo, Người luôn luôn là nhân vật trung tâm, nổi bật. Nhưng khi Kitô giáo vào Việt Nam thì văn hóa Việt Nam, với truyền thống trọng nữ, truyền thống thờ Mẫu, đã đặc biệt chú ý tới đức Mẹ Maria. Bà trở thành nhân vật được nhắc đến rất nhiều trong Kitô giáo Việt Nam, tên Bà được đặt cho rất nhiều thánh đường. Thậm chí, đã hình thành cả một truyền thuyết về đức Mẹ Maria Việt Nam, Đức Mẹ La Vang.
Tôn vinh Mẹ La Vang
nhạc và lời: Vũ Thái Hòa
La Vang là một vùng rừng núi hẻo lánh thuộc huyện Triệu Hải (Quảng Trị), vốn xưa có tên là “phường Lá Vằng”, vì nơi đây có nhiều lá vằng, một loại lá cây có vị đắng mà người phụ nữ lúc sinh đẻ thường dùng nấu nước để làm thuốc uống, rồi sau này “Lá Vằng” được đọc chệch ra thành “La Vang”.
Vào năm 1798, vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung) ra sắc dụ cấm đạo từ Phú Xuân đến Bắc Hà. Để lẩn tránh quan quân Tây Sơn, giáo dân quanh vùng đã trốn vào ẩn náu trong phường Lá Vằng. Theo truyền thuyết, vào một đêm, họ thấy đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần chầu hai bên, xuất hiện ở một cây đa cổ thụ ngỏ lời an ủi họ, bảo họ hái lá cây làm thuốc và hứa ban ơn cho những ai đến cầu khẩn tại chốn này.
Để kỷ niệm việc này, trước năm 1885 ở đây đã có một nhà thờ, rồi sau đó, năm 1901 một nhà thờ kiên cố đã được khánh thành tại đây với tước hiệu “Đức Bà phù hộ các giáo hữu” và từ đó cứ ba năm một lần tổ chức đại hội La Vang vào tháng 8 (dịp đức Mẹ hồn xác lên Trời). Ngày 22-8-1961, Tòa Thánh Vatican sắc phong đền thờ Đức Mẹ La Vang lên bậc Vương Cung Thánh Đường. Ngày 1-5-1980, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thống nhất họp tại Hà Nội đã biểu quyết công nhận La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc.
Hành hương về Mẹ La Vang tại Washington DC, 2008
Ngay cả ngôi nhà thờ Kitô giáo vốn nổi tiếng khắp nơi về sự rập khuôn cứng nhắc theo lối kiến trúc gô-tích cao vút có đỉnh tháp nhọn hoắt, thì ở Việt Nam, từ thế kỷ XIX cũng đã có những ngôi nhà thờ được xây dựng với lối kiến trúc và trang trí hoàn toàn độc đáo theo kiểu Việt Nam, mà nhà thờ Phát Diệm là một điển hình.
Nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình) là một trong những công trình kiến trúc độc đáo của Việt Nam và đồng thời cũng là một trong những nhà thờ Kitô giáo vào loại cổ nhất ở Đông Nam Á và Đông Á. Đây là một quần thể kiến trúc gồm một nhà thờ lớn ở chính giữa và năm nhà thờ nhỏ bao quanh trên một khu đất rộng hơn hai héc-ta. Khác hẳn với hình ảnh phổ biến của nhà thờ theo kiểu châu Âu, nhà thờ lớn Phát Diệm mang dáng dấp của một ngôi chùa với kiến trúc thấp trải rộng, mái cong mang tính dân tộc rõ nét. Người thiết kế và chỉ đạo xây dựng nhà thờ này là Cha Sáu (quê ở Thanh Hóa) một người không hề học qua một trường lớp kiến trúc - xây dựng nào.
Nhà thờ Phát Diệm (Vietnam voyage)
Nhà thờ lớn Phát Diệm được xây dựng trong khoảng 26 năm (1875-1901) bằng những phiến đá lớn lấy từ Ninh Bình (mỗi tấm nặng trung bình khoảng trên 20 tấn) và các cây gỗ quý làm cột và xà lấy từ Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây (mỗi cây dài trung bình khoảng 11m, đường kính 2,3m, nặng 7 tấn). Tất cả đều được chở về bằng đường thủy. Trước khi dựng nhà thờ, Cha Sáu đã cho làm ba hang động nhân tạo với khối lượng đá tương đương ở xung quanh phía sau để thử độ lún của đất; hiện nay ba hang động này tiếp tục tô điểm cho cảnh quan nhà thờ thêm sinh động. Đứng trên tháp chuông của Nhà thờ lớn Phát Diệm có thể nhìn bao quát được 20 nhà thờ khác trong vùng, tiếng chuông của nó có thể nghe thấy từ cách xa 10 cây số.
Các phần trang trí của nhà thờ sử dụng các họa tiết hình cây tre, cây trúc, hình con rồng thời Lý, v.v. là những thứ mà hiển nhiên là các nhà thờ phương Tây không bao giờ có. Trang phục, mũ mão của hình người giáo sĩ được chạm khắc trên đá ở ngay lối vào với những hoa văn trang trí xung quanh tạo nên cảm giác giống như không khí nhà Phật.
Một buổi lễ ở Nhà thờ đá - Phát Diệm
Đối với kiến trúc sư Terunobu Fujimori, giáo sư Trường Đại học Tokyo, nhà thờ Phát Diệm đã thực sự gây cho ông một cú sốc. Ông viết: “Tôi không thể tưởng tượng được là có thể có một kết cấu kiến trúc to lớn <…> ở Việt Nam, và vẻ uy nghi của nhà thờ công giáo Việt-Âu này đã gây được ấn tượng rất sâu sắc. Nó mang tính Việt Nam về phong cách và lối bố trí sắp đặt, ở đó có một cái ao trong sân trước và một bãi rộng ở đằng trước nhà thờ để cầu nguyện theo kiểu cách của đạo Phật <…>. Chỉ có một điểm chung với các nhà thờ châu Âu đó là mặt bằng của lòng nhà thờ dài lê thê” [Fujimori 1966: 79].
Hiện nay, vào ngày chủ nhật, ta vẫn gặp các giáo dân Việt Nam đi lễ nhà thờ trong những trang phục cổ truyền. Để bày tỏ lòng thành kính của mình, các giáo dân vẫn thắp nơi chân tượng Đức Mẹ và Thiên Chúa những cây hương (nhang) theo đúng truyền thống thờ cúng của người Việt Nam.
Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn, nơi diễn ra Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010
Vanhoahoc.edu.vn