Kết quả khảo cổ chứng minh "từ cách đây hàng chục vạn năm, trên vùng đất Nam Bộ đã có người cổ sinh sống". Ðến thế kỷ 17, người Việt vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ lần lượt đến định cư, lập làng. Theo Quốc sử quán triều Nguyễn: "Ðời Tự Ðức ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nhà nước khuyến khích lập làng để thúc đẩy khẩn hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu hay dân nghèo".
Làng Nam Bộ là nơi bốn phương tụ lại, với "ruộng năm dây cò bay thẳng cánh", nên không khép mình trong một không gian chung đụng; thay vào đó, mỗi nhà có thể chọn cuộc đất riêng, nhưng vẫn giữ được quan hệ chòm xóm bằng khoảng cách hai nhà tương đương một "dặm hú" (khoảng cách nghe được tiếng gọi nhau). Dân lập vườn thường chọn hai bờ kênh, rạch, sau mới tiến dần đến những trục lộ giao thông. Ngày nay, đó là những miệt vườn nổi tiếng ở Tiền Giang, Ðồng Tháp, Long An... Ưu tiên chọn địa thế hai bờ sông, kênh, rạch, vì phương tiện giao thông bằng ghe, xuồng, bè, rất tiện và dễ mua sắm; sông rạch là nguồn sống, nguồn thức ăn, tiện sinh hoạt, tắm giặt, nấu nướng. Ðã là dân miệt vườn phải quen chèo ghe, bơi xuồng, lội nước. Ngôn ngữ đã phản ánh sự đa dạng về dáng vẻ, kích cỡ, chức năng của chúng: ba lá, tam bản, ghe bầu, ghe be, cà vom, ghe chài, ghe cui, ghe cửa, ghe đục, ghe giàn, ghe hàng, ghe hát, ghe hầu, ghe lồng, ghe lườn, ghe ngo, ghe rổi, tắc ráng, trẹt, vỏ lãi... thể hiện được sự thích nghi của người dân vùng sông nước. Ngày nay, ÐBSCL đã có những chiếc cầu hiện đại từ mối quan hệ hợp tác quốc tế và từ nội lực, như cầu Mỹ Thuận (2000), Rạch Miễu (2009) bắc qua sông Tiền nối tỉnh Tiền Giang với tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre; cầu Cần Thơ và cầu Hàm Luông (2010) nối tỉnh Vĩnh Long với TP Cần Thơ và hai bờ tỉnh Bến Tre, phá thế ngăn sông, tạo được sự giao lưu nhiều mặt giữa các tỉnh trong vùng và cả nước.
Dĩ nhiên, miệt vườn có mức sống, sinh hoạt cao hơn xứ ruộng. Miệt vườn là tiêu chuẩn mơ ước của nhiều người dân quê: "Mẹ mong gả thiếp về vườn..." là vì vậy. Theo Sơn Nam, "nơi không có đồi núi thì sông rạch làm tiêu chuẩn về phong thủy. Miệt vườn là nơi sông sâu nước chảy (thông lưu quán khái), hợp vệ sinh, nhiều phù sa, giao thông dễ dàng. Vì vậy mà con người không có óc địa phương, cực đoan. Rác rến trôi, phù sa ở lại". Ðó chính là đặc trưng tiêu biểu của làng Nam Bộ và tính cách của những con người Nam Bộ.
Vườn Nam Bộ thường được chọn từ cơ sở của một nhánh sông, rạch làm tiền án, ăn thông với một sông lớn. Sở dĩ như vậy, vì nếu chọn sông lớn thì con người phải đối mặt trực diện với thủy triều, sóng dữ. Ðó là điều người nông dân e ngại; nhưng mặt khác, quan trọng hơn là không thể có sự giao lưu qua lại giữa hai nửa của làng, vì không thể bắc cầu, hoặc không thể chèo chống, bơi lội tới lui khi hữu sự, tối lửa tắt đèn. Lối định cư chọn sông, rạch làm mặt tiền sẽ làm cho con người không thể lấn chiếm cất nhà tràn ra sông, rạch.
Nói về con người Nam Bộ, do điều kiện làng là dân "tứ chiếng", lại là những người cùng khổ, phiêu bạt, trước khi có đất định cư, có tiền dựng nhà, nên cũng phải nhờ người đến trước mách bảo nhiều điều, giúp đỡ nhiều cái, từ cái nhỏ đến cái lớn, từ ngày công, bữa ăn đến việc cho mượn tiền bạc, phương tiện... Vì vậy, họ hiểu thấu đáo giá trị của sự tương thân, tấm lòng tương trợ. Hơn nữa, mỗi người đều có gia cảnh riêng phù hợp với sở thích và điều kiện lao động của mình, nên không còn gì để phải kèn cựa, đố kị. Vả lại, điều kiện kinh tế vườn của họ đều có cái ăn, của để nên không sinh cực đoan mà sẵn lòng hỗ trợ bà con chòm xóm khi gia đình ai phải bệnh tật, tang chế hoặc nhiệt tình góp lòng, góp sức tham gia để chung vui khi nhà người có đám tiệc cưới hỏi, liên hoan. Ðức tính thuận thảo không chỉ dừng lại ở người chòm xóm mà còn được trải rộng với khách. Khách đến nhà người cũng là khách đến làng mình, nên sự thân thiện, mến khách luôn hiển hiện trên nụ cười, trong ánh mắt thân thiện chào hỏi của dân làng.
Cái tinh thần "rác rến trôi, phù sa ở lại" ấy, ngoài sự chắt lọc và thải loại còn hàm nghĩa sáng tạo để thích nghi trong thách thức, một truyền thống từ những ngày khẩn hoang vất vả. Rau đắng, bông điên điển còn đến bây giờ, bên cạnh đó là cả một kỳ công để tạo nên những giống lúa mới, cây ăn trái mới phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu nơi đây.
Hơn ba thế kỷ khai khẩn, ÐBSCL hiện đóng góp hơn 50% diện tích lúa của cả nước, 54% sản lượng gạo ở Việt Nam, 90% sản lượng gạo xuất khẩu từ những tỉnh có sản lượng lớn trên dưới hai triệu tấn/năm, như: An Giang, Ðồng Tháp, Kiên Giang, Tiền Giang và Long An... và nhiều vùng cây trái đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, như Chợ Lách, Mỏ Cày, Châu Thành (Bến Tre), Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành (Tiền Giang), Cao Lãnh, Lấp Vò, Lai Vung (Ðồng Tháp),... cùng sản lượng thủy sản các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu...
Vai trò của hai viện nghiên cứu: Viện Nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ) và Viện Cây ăn quả Long Ðịnh (Tiền Giang) đã có những đóng góp to lớn. Cái xử lý khôn khéo là nông dân ngày nay đã biết quan tâm tới giống lúa và giống cây đặc sản. 106 giống lúa OM được Viện Nghiên cứu lúa ÐBSCL đưa vào sản xuất; trong đó có khoảng 20 giống lúa có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là một thành tựu to lớn.
Về cây ăn trái, họ cũng đã sử dụng cây đầu dòng ưu tú, có năng suất, chất lượng và kháng bệnh do Viện Cây ăn quả miền nam cung cấp như: Xoài cát Hòa Lộc, xoài cát Chu, sầu riêng Chín Hóa, sầu riêng Ri-6, bưởi da xanh, bưởi Năm Roi, vú sữa Bơ, cam mật không hạt, rồi thanh long ruột đỏ, nhãn tiêu, khóm lai chất lượng cao...
Nhưng trong phát triển cái không khôn khéo là sự xâm hại quá nhiều vào các khu rừng được xem như những lá phổi của ÐBSCL: Ðồng Tháp Mười, Khu Tứ giác và nhất là rừng U Minh. Chưa có thống kê đầy đủ, nhưng chắc diện tích còn lại rất nhỏ. Ðồng Tháp Mười diện tích gần 700.000 ha, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang, Ðồng Tháp, nay chỉ còn trên dưới 7.620 ha, nằm gọn trong huyện Tam Nông thuộc tỉnh Ðồng Tháp. Hiện tượng lấn chiếm sông, kinh, rạch tạo những dòng nước đen đầy rác rến ở các khu đô thị diễn ra phổ biến, khiến vùng ÐBSCL vốn là xứ sở miệt vườn có "cây xanh, nước mát bốn mùa" cũng tràn ngập "máy lạnh". Sự biến đổi khí hậu dẫn đến nắng mưa thất thường, giông bão, ngập lụt liên miên là những cảnh báo mà người dân đồng bằng phải gánh chịu vì việc xử lý không khôn khéo của mình. Hiện tượng cạn kiệt tài nguyên sinh vật cũng đang ở mức báo động đỏ. Nguồn cá đen (cá đồng), cá trắng (cá biển) ngày nay cũng không còn nhiều như thuở mà nhiều xứ tự hào là "ăn cá bỏ đầu" hay như U Minh của bác Ba Phi tự hào là vựa "cá, tôm, rùa, rắn...". Nếu không khôn khéo, sự phong phú sản vật chỉ còn trong sách vở, bởi con người thiếu ý thức, đã săn bắt, tận diệt bằng nhiều phương tiện hiện đại như hóa chất, điện, lưới mùng.
Ba trăm năm không dài với lịch sử. Nhưng ÐBSCL đã có bước phát triển kinh tế, văn hóa đáng ghi nhận. Nhưng còn đó những điều đáng lo, đòi hỏi con người phải chung tay giải quyết.
Nguồn: Nhân Dân. Văn hóa – Tết Nhâm Thìn, 17/01/2012