Print this page
Monday, 04 February 2008 23:23

Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa VN

Người post bài:  TT VHH

 

 

 

 Image

 

Tác giả cuốn sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ thống - loại hình mà tôi đang giới thiệu với các bạn - Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm - vốn xuất thân là một nhà ngôn ngữ toán rồi trở thành một chuyên gia ngôn ngữ học nghiên cứu về ngữ pháp - ngữ nghĩa văn bản. Anh có cái nền của tư duy toán học và thế mạnh của phương pháp ngôn ngữ học... Nhờ vận dụng nhuần nhuyễn hệ phương pháp này, Trần Ngọc Thêm đã hoàn thành được một công trình khảo cứu về văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam không những có thể dùng để biên soạn giáo trình giảng dạy ở bậc đại học đại cương mà còn lần đầu tiên cung cấp cho các nhà nghiên cứu một chuyên khảo toàn diện, có hệ thống.

GS. Phạm Đức Dương

NỘI DUNG

Lời giới thiệu (của GS. Phạm Đức Dương)

Lời nói đầu bản in lần thứ ba

Lời nói đầu bản in lần thứ nhất

Quy ước trình bày

 

 Image

Image

         NXB Tp.HCM, 1996  Bản tiếng Pháp, in lần 1 (2001)

 

Chương Một: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO CÁCH NHÌN HỆ THỐNG - LOẠI HÌNH VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Tiểu dẫn

§1. Văn hóa và cấu trúc văn hóa

1.1. Khái niệm văn hóa. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa. 1.2. Văn hóa với các khái niệm văn minh, văn hiến, văn vật. 1.3. Cấu trúc của hệ thống văn hóa.

§2. Loại hình văn hóa

2.1. Văn hóa học so sánh: từ đa dạng đến tương đồng. 2.2 Nguyên lý phân định loại hình văn hóa. 2.3. Những đặc trưng của hai loại hình văn hóa.

§3. Tọa độ của văn hóa Việt Nam

3.1. Hệ tọa độ ba chiều. 3.2. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam ­ chủ thể văn hóa. 3.3. Bối cảnh địa lý - khí hậu, không gian văn hóa và các vùng văn hóa Việt Nam. 3.4. Bối cảnh lịch sử - xã hội của văn hóa Việt Nam (hay văn hóa Việt Nam trong quan hệ cội nguồn với văn hóa Trung Hoa).

8 Mở rộng 1: W.G. Solheim II - Tia sáng mới rọi vào quá khứ bị lãng quên (nguyên tác tiếng Anh: W.G. Solheim II. New Light on a Forgotten Past )

§4. Tiến trình văn hóa Việt Nam

4.1. Lớp văn hóa bản địa. 4.2. Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực. 4.3. Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây.

8 Mở rộng 2: Vấn đề nguồn gốc Nam Á của Thần Nông và một số nhân vật thần thoại Trung Hoa

8 Mở rộng 3: Hà Văn Tấn - có một hệ thống chữ Việt cổ thời các vua Hùng

 

Chương Hai: VĂN HÓA NHẬN THỨC

Tiểu dẫn

§5. Tư tưởng xuất phát về bản chất của vũ trụ: Triết lí âm dương

5.1. Triết lí âm dương: quá trình hình thành, bản chất và khái niệm. 5.2. Hai quy luật của triết lí âm dương (trong sự so sánh với logic học phương Tây). 5.3. Tính âm dương của hai loại hình văn hóa. 5.4. Tính âm dương của cặp trái- phải. 5.5. Nguồn gốc phương Nam của triết lí âm dương và tính cách người Việt. 5.6. Hai hướng phát triển của triết lí âm dương.

§6. Triết lí phương Nam về cấu trúc không gian của vũ trụ: Mô hình tam tài, ngũ hành

6.1. Tam tài. 6.2. Những đặc trưng khái quát của ngũ hành. 6.3. Hà Đồ ­ cơ sở của ngũ hành. 6.4. Ngũ hành theo Hà Đồ. 6.5. Lạc Thư và ngũ hành tương khắc. 6.6. Ứng dụng và nguồn gốc phương Nam của ngũ hành.

§7. Triết lí phương Bắc về cấu trúc không gian của vũ trụ: Mô hình tứ tượng, bát quái

7.1. Tứ tượng. 7.2. Bát quái tiên thiên. 7.3. Bát quái hậu thiên. 7.4. So sánh bát quái với ngũ hành: những bằng chứng bổ sung về nguồn gốc phương Nam của ngũ hành và nguồn gốc phương Bắc của bát quái.

§8. Triết lí về thời gian của vũ trụ: Lịch âm dương và hệ can chi

8.1. Lịch và lịch âm dương. 8.2. Hệ đếm can chi. 8.3. Những bằng chứng về nguồn gốc Nam-Á của lịch âm dương.

8 Mở rộng 4: Cách đổi tháng, ngày dương lịch sang hệ can chi

§9. Nhận thức về con người

9.1. Con người tự nhiên như một mô hình âm dương ngũ hành. 9.2. Nhận thức về con người xã hội.

 

Chương Ba: VĂN HÓA TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG: ĐỜI SỐNG TẬP THỂ

l Tiểu dẫn

§10. Tổ chức nông thôn

10.1. Tổ chức nông thôn theo huyết thống: gia đình và gia tộc. 10.2. Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú; xóm và làng. 10.3. Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: phường và hội. 10.4. Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: giáp. 10.5. Tổ chức nông thôn về mặt hành chính: thôn và xã. 10.6. Tính cộng đồng và tính tự trị; hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam. 10.7. Làng Nam Bộ.

§11. Tổ chức quốc gia

11.1. Từ làng đến nước: lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân. 11.2. Nước với nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội. 11.3. Nước với truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp.

§12 Tổ chức đô thị

12.1. Đô thị Việt Nam trong mối quan hệ với quốc gia. 12.2. Đô thị Việt Nam trong mối quan hệ với nông thôn. 12.3. Quy luật chung của tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống.

 

Chương Bốn: VĂN HÓA TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG: ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN

l Tiểu dẫn

§13. Tín ngưỡng

13.1. Sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người: tín ngưỡng phồn thực. 13.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. 13.3. Tín ngưỡng sùng bái con người. 13.4. Khái quát về tín ngưỡng Việt Nam.

§14. Phong tục

14.1. Phong tục hôn nhân và tính cộng đồng. 14.2. Phong tục tang ma và triết lý âm dương. 14.3. Phong tục lễ tết, lễ hội và tính hệ thống của chúng.

8 Mở rộng 5: Vũ Bằng - Những ngày giáp Tết

8 Mở rộng 6: Chợ Tết cầu may

§15. Văn hóa giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ

15.1. Các đặc trưng cơ bản trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam. 15.2. Tính biểu trưng, tính biểu cảm và tính linh hoạt trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam.

8 Mở rộng 7: Nguyễn Thị Tuyết Ngân - Trần Ngọc Thêm. - Người Việt chửi

§16. Nghệ thuật thanh sắc

16.1. Vài nét về nghệ thuật âm nhạc, dân ca và sân khấu Việt Nam. 16.2. Tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc Việt Nam. 16.3. Tính biểu cảm, tính tổng hợp và tính linh hoạt của nghệ thuật thanh sắc Việt Nam.

§17. Nghệ thuật hình khối

17.1. Vài nét về nghệ thuật hội họa và điêu khắc Việt Nam. 17.2. Tính biểu trưng của nghệ thuật hình khối Việt Nam. 17.3. Tính biểu cảm và tính tổng hợp của nghệ thuật hình khối Việt Nam

 

Chương Năm: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN

l Tiểu dẫn

§1 8. Tận dụng môi trường tự nhiên: Ăn uống và giữ gìn sức khỏe

18.1. Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam. 18.2. Tính tổng hợp và tính cộng đồng trong lối ăn của người Việt. 18.3. Tính biện chứng, linh hoạt trong lối ăn của người Việt.

8 Mở rộng 8: Võ Thị Hảo. - Có phải duyên nhau thì thắm lại

8 Mở rộng 9: Món ăn Việt Nam dưới mắt một nhà ẩm thực Đài Loan

8 Mở rộng 10: Tục uống rượu cần

§19. Đối phó với môi trường tự nhiên: Mặc và làm đẹp con người

19.1. Quan niệm về mặc và nguồn gốc nông nghiệp trong chất liệu may mặc của người Việt. 19.2. Cách thức trang phục qua các thời đại và tính linh hoạt phù hợp với môi trường trong cách mặc của người Việt.

§20. Đối phó với môi trường tự nhiên: Ở và đi lại

20.1. Đối phó với khoảng cách: giao thông. 20.2. Đối phó với thời tiết, khí hậu: nhà cửa, kiến trúc. Tính hài hòa, tính linh hoạt và tính biểu trưng của lối ở Việt Nam.

 

Chương Sáu: VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI

l Tiểu dẫn

§21. Giao lưu với Ấn Độ: Văn hóa Chăm

21.1. Bàlamôn giáo từ Ấn Độ và ba nguồn gốc của văn hóa Chăm. 21.2. Những đặc điểm của kiến trúc Chăm. 21.3. Những đặc điểm của điêu khắc Chăm. 21.4. Sức mạnh bản địa hóa ảnh hưởng Bàlamôn giáo và Hồi giáo.

§22. Phật giáo và văn hóa Việt Nam

22.1. Sự hình thành và nội dung cơ bản của Phật giáo. 22.2. Quá trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. 22.3. Tính tổng hợp và tính linh hoạt như những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt Nam.

§23. Nho giáo và văn hóa Việt Nam

23.1. Sự hình thành của Nho giáo. 23.2. Nội dung cơ bản, nguồn gốc nước đôi và tính cách hai mặt trong sự phát triển của Nho giáo. 23.3. Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo Việt Nam.

§24. Đạo giáo và văn hóa Việt Nam

24.1. Từ Đạo gia đến Đạo giáo: một triết thuyết và một tôn giáo của người nông nghiệp. 24.2. Sự thâm nhập và phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam.

§25. Phương Tây với văn hóa Việt Nam

25.1. Kitô giáo và văn hóa Việt Nam. 25.2. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với văn hóa Việt Nam trên các phương diện còn lại.

§26. Văn hóa đối phó với môi trường xã hội. Tính dung hợp như một đặc điểm điển hình của văn hóa ứng xử với môi trường xã hội

26.1. Văn hóa đối phó với môi trường xã hội: lĩnh vực quân sự, ngoại giao. 26.2. Dung hợp và dung hợp văn hóa khu vực: Tam giáo. 26.3. Dung hợp văn hóa Đông-Tây: Từ lăng Khải Định đến đạo Cao Đài. 26.4. Tích hợp văn hóa Đông-Tây với lý tưởng xã hội chủ nghĩa: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

THAY LỜI KẾT LUẬN

§27. Văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại

27.1. Nhìn lại bản sắc và tính cách của văn hóa Việt Nam. 27.2. Văn hóa cổ truyền đứng trước công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa. 27.3. Vấn đề bảo tồn và phát triển, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

8 Mở rộng 11: Đức Tế - Chuyển hệ tăng-gô (tạp bút)

PHỤ LỤC

I- Đối thoại cùng bạn đọc

A- Về khái niệm "văn hóa" và cấu trúc văn hóa . B- Về hai loại hình văn hóa . C- Về vấn đề văn hóa phương Nam và phương Bắc . D- Vấn đề âm dương - ngũ hành . E- Các vấn đề khác.

II- Gặp gỡ cuối tuần: Tương lai bản sắc văn hóa Việt Nam: hài hòa thiên về dương tính (báo Lao động)

III- Một vài nhận xét...

Tài liệu tham khảo

Bảng chỉ dẫn khái niệm

Danh mục hình (hình vẽ, tranh, ảnh)

Danh mục bảng

Contents: Discovering the Identity of Vietnammese Culture

Mục lục

 


LỜI GIỚI THIỆU

GS. PHẠM ĐỨC DƯƠNG

Chủ tịch Hội Đông Nam Á học VN, Tổng biên tập tạp chí "Việt Nam & Đông Nam Á ngày nay", Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á

Chúng ta đang ở vào thời điểm bước ngoặt của thời đại với mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại, đan xen giữa hai quá trình của sự phát triển thế giới: đó là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và cuộc cách mạng xã hội. Mọi tín điều cũ đều không còn hoàn toàn phù hợp, mọi cách tiếp cận xưa đều không đủ khả năng cung cấp cho ta chìa khóa vạn năng để đi vào tương lai. Do vậy, nền học vấn hiện đại đòi hỏi phải có kiến thức đồng bộ, tư duy tổng hợp và phương pháp tiếp cận liên ngành trên cơ sở tích hợp các dữ liệu của nhiều khoa học. Văn hóa học đáp ứng được đòi hỏi đó.

Mặt khác, với những thành tựu khoa học và công nghệ kỳ diệu, ngày nay con người đã và đang thực hiện những ước mơ của mình trong việc chinh phục vũ trụ, thám hiểm đại dương... Nhưng cũng kèm theo đó là biết bao hậu quả nghiêm trọng đe dọa cuộc sống con người như nạn ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh tật... Để lập lại sự cân bằng giữa tự nhiên và con người, giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định và phát triển hài hòa, nhân loại mong muốn xây dựng một môi trường xã hội nhân bản, bền vững, an khang, trong đó văn hóa đóng vai trò vừa là động lực, vừa là hệ điều chỉnh cho sự phát triển kinh tế- xã hội.

Là nhân tố quan trọng trong nền sản xuất tổng hợp, văn hóa như chất keo kết dính các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội... tạo nên hình hài và bản sắc mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Văn hóa có khả năng bao quát một cách trực tiếp, đảm bảo tính bền vững của xã hội, tính kế thừa của lịch sử và không bị trộn lẫn ngay cả khi hội nhập vào những cộng đồng lớn hơn. Trong quá trình hội nhập thế giới, trong khi khoa học kỹ thuật càng nhất thể hóa bao nhiêu thì, ngược lại, văn hóa lại càng được khu biệt bấy nhiêu. Như những dòng sông, văn hóa của các dân tộc bền bỉ tích luỹ, thâu nhận, gạn lọc tinh hoa từ muôn dặm nẻo, không ngừng chuyển tải và biến đổi, không ngừng giao lưu và mở rộng để rồi góp phần của riêng mình vào đại dương văn hóa mênh mông của nhân loại.

Nếu như ta hiểu văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội thì mọi cái liên quan đến con người đều có mặt văn hóa của nó. Chả thế mà ngày nay chúng ta có tới mấy trăm định nghĩa về văn hóa, và trong khoa học nhân văn không có một khái niệm nào lại mơ hồ như khái niệm văn hóa. Văn hóa đã tồn tại cùng với quá trình phát triển loài người, nhưng thế giới mới chỉ xây dựng bộ môn văn hóa học từ cuối thế kỷ 19 với nhiều quan điểm, nhiều cách tiếp cận, nhiều trường phái khác nhau. Ở Việt Nam, bộ môn văn hóa học cũng chỉ mới hình thành gần đây; trước đó chỉ có những công trình về lịch sử văn hóa, nhưng khá tản mạn, thiếu hệ thống và chưa dựng được bức tranh toàn cảnh về cấu trúc văn hóa trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Khó khăn lớn nhất của bộ môn văn hóa học là việc xác định đối tượng và phương pháp tiếp cận thích hợp.

Tác giả cuốn sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ thống - loại hình mà tôi đang giới thiệu với các bạn - Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm - vốn xuất thân là một nhà ngôn ngữ toán rồi trở thành một chuyên gia ngôn ngữ học nghiên cứu về ngữ pháp - ngữ nghĩa văn bản. Anh có cái nền của tư duy toán học và thế mạnh của phương pháp ngôn ngữ học. Nếu như văn hóa là tổng thể các hệ thống tín hiệu khổng lồ mang tính thiết chế xã hội bao trùm lên mọi hoạt động của cộng đồng người, thì ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu quan trọng bậc nhất được xây dựng dựa trên năng lực đặc biệt chỉ có ở hoạt động có ý thức của con người: năng lực biểu trưng hóa (symbolizing). Như vậy, ngôn ngữ vừa là công cụ của tư duy và công cụ giao tiếp chủ yếu, vừa là phương tiện của văn hóa làm tiền đề cho văn hóa phát triển. Mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và các khía cạnh khác của văn hóa gần gũi tới mức không một bộ phận nào thuộc về văn hóa của một cộng đồng người nhất định lại có thể nghiên cứu tách rời khỏi các biểu trưng ngôn ngữ trong hoạt động của chúng. Nhờ xác lập được cho mình một hệ phương pháp tiếp cận rất có hiệu quả, đặc biệt là phương pháp hệ thống - cấu trúc của loại hình học động, ngôn ngữ học đã trở thành một ngành mũi nhọn trong khoa học nhân văn.

Nhờ vận dụng nhuần nhuyễn hệ phương pháp này, tiến sĩ Trần Ngọc Thêm đã hoàn thành được một công trình khảo cứu về văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam không những có thể dùng để biên soạn giáo trình giảng dạy ở bậc đại học đại cương mà còn lần đầu tiên cung cấp cho các nhà nghiên cứu một chuyên khảo toàn diện, có hệ thống. Với gần 700 trang sách đầy ắp các tri thức, các dữ kiện tổng hợp từ rất nhiều công trình đông tây kim cổ thuộc nhiều lĩnh vực văn hóa khác nhau (thư mục chứa trên 400 tên gọi), bằng phương pháp cấu trúc - loại hình, tác giả đã xâu chuỗi các sự kiện thành một bức tranh tổng quan về văn hóa Việt Nam với cách trình bày hết sức mạch lạc, sáng rõ.

Đó là cấu trúc văn hóa với những đặc trưng và chức năng, các loại hình văn hóa (những vấn đề văn hóa học đại cương) để từ đó xác định tọa độ và con đường phát triển của văn hóa Việt Nam. Đi vào các yếu tố văn hóa, tác giả tập trung khảo cứu lĩnh vực văn hóa nhận thức dựa trên cơ sở triết lý âm dương, mô hình tam tài, ngũ hành của phương Nam (trong đó có Việt Nam) và chỉ ra sự khác biệt của chúng với con đường phát triển tư duy phương Bắc (chủ yếu là Trung Hoa) cũng đi từ triết lý âm dương (được gọi là "lưỡng nghi") đến mô hình tứ tượng, bát quái. Về văn hóa tổ chức cộng đồng, tác giả đi vào hai lĩnh vực: đời sống tập thể (với các tổ chức từ nông thôn đến đô thị và quốc gia) và đời sống cá nhân (tín ngưỡng, phong tục, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ngôn từ - thanh sắc - hình khối). Từ cấu trúc văn hóa nêu trên, tác giả phân tích cách ứng xử của người Việt với môi trường tự nhiên (ăn, mặc, ở, đi lại) và môi trường xã hội (sự giao lưu văn hóa với các giá trị ngoại lai du nhập vào Việt Nam: các tôn giáo, các nền văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, phương Tây...) và sự đối phó, dung hợp văn hóa Đông-Tây.

Tất cả các dữ liệu, các kiến thức rất đa dạng đó đều đã có sẵn và được các học giả đi trước lý giải, nhưng khi chúng được tác giả sắp xếp theo một cấu trúc loại hình, được so sánh đối chiếu trong không gian và thời gian theo những quan hệ mới thì chúng lại đem đến cho ta những thông tin và những ý nghĩa mới, những phát hiện lý thú và đôi lúc bất ngờ! Đây là một cách tiếp cận rất khoa học và cũng rất thông minh. Dù đồng tình hay phản bác, dù còn có thể gặp những sai sót nhỏ (mà trong một công trình lớn thế này thật khó tránh khỏi), người đọc vẫn phải thừa nhận tính nhất quán, chặt chẽ và lôgic trong cách lập luận của tác giả. Giá trị của công trình còn ở chỗ nó được trình bày với một văn phong trong sáng và một hệ thống bảng biểu tổng hợp làm nổi bật bộ khung phân tích và tập hợp được một khối lượng tư liệu khổng lồ của các nền văn hóa Đông-Tây, Nam-Bắc, giúp cho người đọc nhận diện được bản sắc văn hóa Việt Nam.

Không phải ngẫu nhiên mà trên cơ sở công trình này cùng những công trình khác của tác giả về văn hóa học và ngôn ngữ học, vào đầu tháng 10 năm 1999 vừa qua, Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm đã được bầu làm Thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm Khoa học Tự nhiên Nga.

Trong mấy năm gần đây, tôi có tham gia giảng dạy bộ môn văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam ở một số trường đại học, tôi đã sử dụng công trình này như một tài liệu tham khảo chủ yếu. Tôi rất cảm ơn Tiến sĩ - Viện sĩ Trần Ngọc Thêm đã dành cho tôi vinh dự được giới thiệu công trình của anh với bạn đọc. Tôi hy vọng các bạn sẽ tìm thấy ở đây nhiều điều bổ ích và lý thú.


P. Đ. D.

 


LỜI NÓI ĐẦU BẢN IN LẦN THỨ NHẤT

Ở Việt Nam, với câu hỏi "Đàn Nam Giao là gì ?", một phiên dịch viên lâu năm trả lời: "Đó là một loại đàn cổ"! Đưa khách tham quan Viện bảo tàng, một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp không trả lời nổi câu hỏi của một khách nước ngoài: "Tại sao các ông vua Việt Nam ngày xưa mặc áo màu vàng?"[1]. Không chỉ trong giao lưu trực tiếp, mà cả trong các ấn phẩm đủ loại, ta có thể gặp không ít những "lỗi văn hóa" rất đáng trách. Một cuốn an-bom ảnh giới thiệu về Huế mang nhan đề "Huế ngàn năm văn vật", trong khi thành phố này mới có lịch sử ba trăm năm. Trong một bài giới thiệu về "Trống đồng Ngọc Lũ" trên một tạp chí, dưới hình họa tiết người đánh chiêng có dòng chú thích là "Nhà đánh trống", còn dưới hình họa tiết người đánh trống thì lại chú thích là "Nhà giã gạo"[2], v.và v.v...

Cuộc điều tra trong 1.800 thanh niên Tp.HCM thực hiện vào năm 1994 cho ta những con số giật mình: 39% không biết Hùng Vương là ai (trong đó có cả một số học sinh Trường PTTH Hùng Vương!); 49% không biết Trần Quốc Toản - người anh hùng trẻ tuổi trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông (có người cho Trần Quốc Toản là ông của Trần Phú!); 64,6% không biết Trương Công Định - người anh hùng chống Pháp nổi tiếng của Nam Bộ (có người thậm chí còn khẳng định ông là một trong 108 hảo hán Lương Sơn Bạc!). Riêng trong 468 sinh viên của 9 trường đại học được điều tra thì 44% không biết Chu Văn An - nhà giáo dục lớn đời Trần; 59% không biết Lương Thế Vinh - nhà toán học Việt Nam danh tiếng thế kỷ XV! [Nguyễn Minh Hòa 1995: 22].

Ở các nước công nghiệp tiên tiến, tình hình cũng không khá hơn: Ở Pháp, 30% thanh niên không biết Victor Hugo là ai. Với câu hỏi "Hitler là ai?", có thanh niên Pháp đã trả lời: "Một nhà văn tên tuổi!". Mà không phải chỉ một vài người, mà có tới trên 50% trả lời sai, 30-40% thì trả lời không biết hoặc không quan tâm[3]! Ở Mỹ, có những thanh niên cho rằng cư dân châu Mỹ La-tinh nói tiếng La-tinh, còn Toronto (một thành phố Nam Canada - láng giềng nước Mỹ) thì nằm ở Ý! [Hirsh 1987].

Tình hình này dẫn đến những hậu quả rất tai hại, nhất là vào thời điểm khi mà sự liên minh, liên kết quốc tế đang ngày càng mở rộng không ngừng. Sự giao lưu quốc tế này bây giờ không còn giới hạn ở phạm vi quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia, mà đang ngày càng thâm nhập vào từng ngõ ngách. Trong bối cảnh những biến động lớn về chính trị - xã hội trên phạm vi toàn thế giới, sự quan tâm đến văn hóa và văn hóa dân tộc đang trở thành một vấn đề quốc tế nóng bỏng. Người ta nhận thấy rằng kinh tế ngày càng phát triển thì hố ngăn cách giữa các nước giàu nghèo càng làm căng thẳng thêm các mâu thuẫn xã hội, các hiểm họa có tính chất toàn cầu càng gia tăng, thậm chí có nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của văn minh nhân loại. Theo UNESCO, một trong những nguyên nhân quan trọng của tình hình trên là trong các chương trình phát triển quốc gia cũng như quốc tế của mấy thập kỷ vừa qua, người ta chỉ chú trọng đến các mục tiêu phát triển kinh tế tách rời khỏi môi trường văn hóa, trong khi chính VĂN HÓA mới là yếu tố chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển. Các kế hoạch phát triển không chú ý đến yếu tố văn hóa sớm muộn đều dẫn đến thất bại.

Đại hội đồng Liên hiệp quốc họp tháng 12-1986 đã quyết định phát động Thập kỷ phát triển văn hóa thế giới 1988 - 1997 với bốn mục tiêu:

(a) Đảm bảo coi trọng một cách thích đáng vai trò của văn hóa trong các kế hoạch, chính sách và dự án phát triển;

(b) Khẳng định và đề cao các bản sắc văn hóa dân tộc, khuyến khích tài năng sáng tạo và cuộc sống có văn hóa;

(c) Mở rộng việc huy động các nguồn lực và khả năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng tham gia vào đời sống văn hóa;

(d) Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa.

Về phương diện lý luận, nhu cầu đẩy mạnh việc nghiên cứu văn hóa hoàn toàn phù hợp với sự gia tăng xu hướng tích hợp của khoa học mà chúng ta đang là nhân chứng. Sau nhiều thế kỷ đi sâu phân tích, chia tách, mấy chục năm trở lại đây các khoa học đang có xu hướng tích hợp; xuất hiện hàng loạt khoa học liên ngành. Văn hóa chính là một đối tượng liên ngành hơn đâu hết.

Trong khi hiểu biết về văn hóa dân tộc quá thấp, nhu cầu phổ cập văn hóa dân tộc rất cao và vai trò của văn hóa dân tộc càng ngày càng lớn, thì khoa học nghiên cứu về văn hóa lại phát triển quá chậm. Văn hóa như một thực thể khách quan đã tồn tại từ lâu cùng với con người. Song có lẽ vì nó bao quát một phạm vi quá rộng cho nên lâm vào tình trạng "cha chung không ai khóc"; một thời gian dài, người ta chỉ chú ý đến các khoa học bộ phận. Ở phương Tây, khái niệm "văn hóa" được sử dụng lần đầu tiên ở Đức vào giữa thế kỷ XVIII bởi nhà luật học Pufedorf, nhà triết học Herder, nhà ngôn ngữ học Adelung... Và mãi đến năm 1871, "văn hóa" mới được E.B. Taylor định nghĩa lần đầu tiên trong tác phẩm Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture) gồm 2 tập xuất bản ở London. Nhưng văn hóa như đối tượng của một khoa học độc lập thì phải đến năm 1885 mới hình thành rõ nét với công trình hai tập mang tên Khoa học chung về văn hóa của Klemm người Đức, trong đó ông trình bày sự phát sinh phát triển toàn diện của loài người như một lịch sử văn hóa. Bản thân thuật ngữ "văn hóa học" (t. Đức Kulturkunde, t. Anh Culturology) thì xuất hiện vào năm 1898 tại Đại hội các giáo viên sinh ngữ họp ở Viên (thủ đô nước Áo), song mãi đến sau công trình The Science of Culture của L.White xuất bản ở Mỹ năm 1949, nó mới trở thành phổ biến.

Trong sự phát triển của khoa học văn hóa học nửa đầu thế kỷ XX có sự đóng góp quan trọng của các nhà nhân học văn hóa người Mỹ về việc mở rộng đối tượng và quy mô (những năm 30-40 của thế kỷ XX, phong trào nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ của các thổ dân Mỹ phát triển khá rầm rộ), và của C. Lévi-Strauss về phương pháp (cuốn Anthropogogie Structutral của ông xuất bản tại Paris năm 1958 đánh dấu việc đưa phương pháp cấu trúc từ lĩnh vực ngôn ngữ học áp dụng vào việc nghiên cứu văn hóa).

Về văn hóa Việt Nam, cho đến nay, tuyệt đại bộ phận các công trình được viết ra theo hướng "lịch sử văn hóa" mang tính chất miêu tả rất công phu, tỷ mỉ như Lê Quí Đôn (1773), Phan Kế Bính (1915), Đào Duy Anh[4] (1938), Nguyễn Văn Huyên (1944), L. Cadière (1944-1957), P. Huard và M. Durand (1954), Toan Ánh (1966-1969), Lê Văn Siêu (1972), v.v... Bên cạnh giá trị tư liệu hết sức quý báu, các công trình loại này có ba nhược điểm chủ yếu: a) tản mạn, thiếu tính hệ thống, tính quy luật; b) do vậy mà còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội tại; và c) thường bị chi phối một cách vô thức bởi căn bệnh "lấy Trung Hoa làm trung tâm". Chỉ có một số ít tác giả đã ít nhiều thoát ra khỏi tình trạng trên như Kim Định [xem, ví dụ: 1973c], Trần Quốc Vượng [xem, ví dụ: 1980], Phan Ngọc [1994], nhưng các công trình này hoặc còn mang nhiều chất cảm tính - cực đoan (như Kim Định) hoặc là chưa tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh.

Trong tình hình như vậy, khó có thể đòi hỏi được gì nhiều ở các nhà văn hóa học nói chung và các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nói riêng. Song, mặt khác, những yêu cầu khoa học của thời đại không cho phép chúng ta dẫm chân tại chỗ, bằng lòng với cách hiểu thiếu tính hệ thống mà lại chứa nhiều mâu thuẫn và với căn bệnh "lấy Trung Hoa làm trung tâm" mà nhiều nhà Đông phương học thế giới đã thoát ra từ lâu. Những yêu cầu thực tiễn của một xã hội đang đi vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa không cho phép chúng ta bằng lòng với lối miêu tả tản mạn các tư liệu, sự kiện mà thiếu khái quát hóa. Những yêu cầu của giáo dục hiện đại đòi hỏi phải trao cho người học những chìa khóa của tư duy.

Để đáp ứng dù chỉ phần nào các yêu cầu đã nêu, tác phẩm đang giới thiệu với bạn đọc này được xây dựng theo hướng đi tìm những nét bản sắc - đó là những đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc hiểu văn hóa Việt Nam cùng những quy luật hình thành và phát triển của chúng. Trong công trình này, chúng tôi đã vận dụng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết hợp với phương pháp so sánh - loại hình để tiến hành khảo sát văn hóa Việt Nam trong một bức tranh toàn cảnh, trên cơ sở so sánh nó với những nền văn hóa xa (của thế giới) là văn hóa các dân tộc phương Tây và một nền văn hóa gần (của khu vực) có liên hệ mật thiết là văn hóa Trung Hoa, đồng thời chỉ ra được những mối liên hệ mang tính quy luật chặt chẽ giữa các thành tố (trên bình diện đồng đại) và giữa các thời kỳ phát triển (trên bình diện lịch đại) của văn hóa Việt Nam.

Với cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc nhằm xác định những đặc trưng bản sắc của văn hóa Việt Nam này, tất yếu phải dùng đến phương pháp diễn dịch. Về nguyên tắc, phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp đều có thể được sử dụng với xác suất như nhau trong các khoa học khác nhau. Song do bản chất của khoa học là đi từ dễ đến khó, từ cái đã biết đến cái chưa biết mà đối tượng của các khoa học lại không giống nhau, cho nên trên thực tế, việc sử dụng hai phương pháp này ở các khoa học không giống nhau. Trong lịch sử phát triển của mình, các khoa học tự nhiên do có đối tượng là những vật thể tự nhiên dễ quan sát cho nên thường dùng phương pháp diễn dịch (đi từ tổng thể đến các bộ phận); còn các khoa học xã hội do có đối tượng là những cơ cấu, tổ chức vô hình khó nắm bắt cho nên thường dùng phương pháp quy nạp (đi từ bộ phận đến tổng thể). Nhưng dù dùng phương pháp nào thì cũng cần phải có phương pháp kia bổ sung, hỗ trợ. Bởi vậy, trong lĩnh vực khoa học xã hội, sau một thời gian tích lũy tư liệu và đi theo hướng quy nạp, cần dừng lại để có một cái nhìn bao quát theo hướng diễn dịch nhằm điều chỉnh những sai sót, mâu thuẫn gặp phải.

Chính vì vậy, trong công trình này, những kết quả nghiên cứu của các khoa học cụ thể (dân tộc học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, văn học, nghệ thuật...) được sử dụng như những chất liệu để xây nên ngôi nhà cơ sở văn hóa học. Khi gặp trường hợp những tư liệu thuộc các ngành khoa học cụ thể này xung khắc, mâu thuẫn với nhau (là hệ quả không tránh khỏi của phương pháp quy nạp), việc xử lý được tiến hành theo hai cách: a) chọn một "phương án tối ưu" mà theo đó các mâu thuẫn đều được giải quyết và mô hình - hệ thống hoạt động tốt (cái tối ưu bao giờ cũng gần với thực tế hơn cả); b) nếu không chọn được phương án như thế hoặc với phương án đã chọn, mô hình - hệ thống hoạt động một cách gượng ép thì tiến hành kiểm tra để điều chỉnh lại mô hình. Đó là cách làm vẫn được sử dụng trong các khoa học lâu nay.

Văn hóa có tính lịch sử, cho nên để xử lý đúng một hiện tượng văn hóa hiện tại, phải hiểu được nguồn gốc, quy luật vận động của nó trong suốt chiều dài lịch sử. Vì vậy, công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam này cố gắng kết hợp một cách hài hòa giữa cách nhìn đồng đại và lịch đại. Trong sách, hệ thống văn hóa Việt Nam được xem xét theo các thành tố (đồng đại), nhưng trong mỗi thành tố, mỗi bộ phận của thành tố lại chú trọng đến tính lịch đại của nó. Tiến trình văn hóa Việt Nam không chỉ được xác lập và giới thiệu trong §4, mà còn bao trùm lên toàn bộ cuốn sách: Khởi đầu từ các điều kiện vật chất quy định văn hóa (§3 về tọa độ), ta thu được cái tinh thần là văn hóa nhận thức và văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng (thượng tầng kiến trúc), để rồi cái tinh thần đó lại tác động trở lại cuộc sống vật chất (ăn-mặc-ở và đi lại), cũng như cả vật chất lẫn tinh thần (văn hóa ứng xử với môi trường xã hội). Ở đây, từ quá khứ (giao lưu với khu vực), chúng ta đã đi dần đến hiện tại (giao lưu với phương Tây), và cuối cùng kết thúc bằng việc xem xét cuộc "đối mặt" đang diễn ra giữa văn hóa cổ truyền với nền kinh tế thị trường và sự thâm nhập của văn minh phương Tây hiện đại.

Trong cặp phạm trù "cổ truyền" - "hiện đại" thì hiển nhiên cái hiện đại là quan trọng. Nhưng cái cổ truyền cũng quan trọng không kém, bởi nếu không hiểu rõ quá khứ thì không thể có cách ứng xử đúng trong hiện tại. Trong lĩnh vực văn hóa, cái cổ truyền lại càng bội phần quan trọng, bởi lẽ văn hóa tự thân nó đã có tính lịch sử rồi. Hơn nữa, vì văn hóa là tiếp nối, thời gian văn hóa là khái niệm mờ, một giai đoạn văn hóa ngắn nhất cũng phải tính bằng vài thế kỷ, cho nên mấy chục năm tồn tại của giai đoạn văn hóa hiện đại chưa đủ để cho phép tổng kết đầy đủ những đặc điểm của nó - đây là một giai đoạn văn hóa đang định hình (§4.3.2). Cho nên, với mục đích "tìm về bản sắc", dễ hiểu là tại sao công trình này chú trọng đến khía cạnh cổ truyền nhiều hơn.

Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa tộc người, song trong công trình này chúng tôi đã không dành những chương mục riêng nói về nền văn hóa của từng tộc người mà chọn cách trình bày đan xen. Sở dĩ như vậy là vì tuy đa tộc người, nhưng đây lại là một nền văn hóa thống nhất. Cho nên, chỉ có cách trình bày đan xen chứ không tách bạch mới có thể làm rõ tính hệ thống và thống nhất của bản sắc văn hóa Việt Nam (người đọc có thể thấy thông tin về các hiện tượng, sự kiện văn hóa các dân tộc anh em có rải rác ở nhiều chương mục)[5]. Tất nhiên, ngay trong cách trình bày đan xen thì cũng không thể dàn đều, mà trọng tâm chủ yếu phải dành cho văn hóa Việt, bởi lẽ đây là tộc người chiếm 86% dân số và đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, đối tượng của công trình này là các đặc trưng, các quy luật văn hóa chứ không phải bản thân các sự kiện văn hóa.

Về mặt địa lý, không gian gốc của văn hóa Việt Nam là vùng Bách Việt - Nam-Á, cho nên dễ hiểu là trong việc đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc thì những sự kiện văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã phải được chú ý nhiều hơn. Chúng tôi cũng có ý thức tìm hiểu đặc trưng văn hóa của khu vực đồng bằng sông Cửu Long (xem, chẳng hạn §10.7 và rải rác trong các chương mục), song còn ở mức độ hạn chế do việc nghiên cứu văn hóa khu vực này mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu, tư liệu còn ít.

Trong những năm qua, các kết quả đã từng được công bố dưới nhiều hình thức. Nhờ vậy, chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các bậc cao niên, bạn bè đồng nghiệp và bạn đọc gần xa. Đặc biệt, chúng tôi đã nhận được những ý kiến góp ý và sự giúp đỡ về tư liệu của PGS Vũ Ngọc Khánh (Viện Văn hóa dân gian), GS Nguyễn Tài Cẩn (Khoa ngữ văn ĐHQG Hà Nội), GS Phạm Đức Dương (Viện Đông Nam Á), PGS.TS Lê Sĩ Giáo (Khoa Sử ĐHQG Hà Nội), GS Nguyễn Tấn Đắc (Viện KHXH tại Tp.HCM), GS Lương Duy Thứ (Khoa Ngữ văn ĐHQG Tp.HCM), PGS.TS Tạ Văn Thành (Ban KHXH Thành ủy Tp.HCM), GS Lý Chánh Trung (Liên Hiệp các hội KH & KT Tp.HCM), học giả Minh Chi (Viện nghiên cứu Phật học), PGS.TS Ngô Văn Lệ (Khoa Sử ĐHQG Tp.HCM), nhà nghiên cứu Lê Anh Dũng (Trường ĐH Kinh tế Tp.HCM) và nhiều vị khác. Những ý kiến trao đổi của PGS Trần Thanh Đạm, GS.TS Dương Thiệu Tống, PGS.TS Trần Trọng Đăng Đàn, PGS.TS Mai Quốc Liên, các nhà nghiên cứu Mai Thúc Luân, Trần Khuê, ... phát biểu ở Hội thảo về công trình này tổ chức tại Trung tâm Quốc học ngày 5-3-1996 đã giúp chúng tôi điều chỉnh và làm rõ thêm nhiều điều. Chúng tôi cũng đã nhận được không ít thư từ động viên, góp ý của bạn đọc[6]. Đó là sự ủng hộ và giúp đỡ vô giá.

Các hình minh họa trong sách một phần là của chúng tôi, phần còn lại được rút từ nhiều tài liệu tham khảo, sách báo. Xin mạn phép các tác giả và xin các tác giả nhận nơi chúng tôi lòng biết ơn chân thành.

Chúng tôi gửi lời cám ơn tới các vị đã tham dự những buổi thuyết trình, các anh chị em sinh viên thuộc nhiều thế hệ đã nghe các bài giảng của chúng tôi trong những năm 1990-1996 tại nhiều nơi: ĐHQG Hà Nội, ĐH Ngoại ngữ Hà Nội, ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, ĐHSP Huế, ĐH Tổng hợp Huế, ĐHSP Ngoại ngữ Đà Nẵng, ĐHQG Tp.HCM, ĐHSP Tp.HCM, ĐH Kiến trúc Tp.HCM, ĐH Mở-BC Tp.HCM, ĐH Đà Lạt; các cơ sở đào tạo tại chức của ĐHQG Tp.HCM và ĐHNN Hà Nội tại Tp.HCM, Đồng Tháp và nhiều nơi khác. Những câu hỏi và ý kiến của các vị và các bạn đã yêu mến dành cho là nguồn động viên rất lớn đối với chúng tôi.

Người viết hiểu rõ ràng trong phạm vi một cuốn sách không thể giải đáp được đầy đủ và thỏa đáng mọi câu hỏi về bản sắc văn hóa Việt Nam. Tham vọng của tác giả chỉ là đào xới lên vấn đề, gợi mở một hướng đi, đưa ra một trong số những mô hình có thể cho phép miêu tả và giải thích các hiện tượng văn hóa. Tác giả cũng biết rằng bàn về một lĩnh vực mông mênh dường này, những sai sót là khó bề tránh khỏi, kính mong các bậc cao minh và bạn hữu gần xa chỉ giáo để cho mỗi lần tái bản, sách sẽ một hoàn thiện hơn (thư từ xin gửi về địa chỉ: 705B Bùi Đình Tuý, phường 12, Q. Bình Thạnh, Tp.HCM hoặc theo địa chỉ e-mail: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.).

TÁC GIẢ

 


 

[1] Câu trả lời xin xem §6.6.1

[2] Nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn này, xin xem §13.1.3

[3] Theo tin trên báo Sài Gòn giải phóng số 128, ngày 26-6-1993.

[4] Nhiệm vụ mà cụ Đào Duy Anh đặt ra là: "thu thập những tài liệu hiện có... để giúp cho những nhà nghiên cứu văn hóa sử đỡ công tìm kiếm" [1938 : VIII]

[5] Ngoại lệ chỉ có văn hóa Chăm (§21), nhưng chính việc tách riêng ra này đã cho thấy nét khu biệt của nó nhiều hơn (sự giao lưu với Ấn Độ).

[6] Trong số các ý kiến góp ý, có nhiều ý kiến chúng tôi đã tiếp thu sửa chữa, nhưng cũng có những đề xuất mà chúng tôi chưa thể triển khai. Thành thật mong các học giả và bạn đọc thông cảm và lượng thứ.


 


§1. VĂN HÓA VÀ CẤU TRÚC VĂN HÓA

1.1. Khái niệm văn hóa. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa

1.1.0. Từ "văn hóa" có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn),... "Đề cương về văn hóa Việt Nam" của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1943 đã xếp văn hóa bên cạnh kinh tế, chính trị và xem nó bao gồm cả tư tưởng, học thuật (= khoa học, giáo dục), nghệ thuật. Ủy ban UNESCO của Liên hiệp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn hóa.

Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: "Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise"[1]. Chính với cách hiểu rộng này, VĂN HÓA mới là đối tượng đích thực của VĂN HÓA HỌC.

Trong các công trình nghiên cứu, ngay cả với một cách hiểu cũng đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Thông thường, do phải trình bày một cách rất ngắn gọn (mà đã ngắn gọn thì khó mà có thể đầy đủ được), cho nên các định nghĩa thường là đầu mối của những cuộc tranh luận nhiều khi vô bổ. Bởi vậy, điều quan trọng hơn cả không phải là định nghĩa như thế nào, mà là định nghĩa đó nói lên được những gì. Để có được định nghĩa khái niệm, trước hết cần xác định được những đặc trưng cơ bản của khái niệm.

1.1.1. Văn hóa trước hết phải có tính HỆ THỐNG. Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Nhược điểm lớn nhất của nhiều định nghĩa văn hóa lâu nay là ở chỗ coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận. E.B. Taylor định nghĩa văn hóa như một "phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cũng như mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội tiếp thu được" [xem Lévi-Strauss 1958: 315]. Định nghĩa văn hóa trong các loại từ điển, các công trình nghiên cứu... thường mở đầu bằng câu: "Văn hóa là một tập hợp (hoặc phức hợp) của các giá trị..." Quan niệm cảm tính này là sản phẩm của lịch sử, của thời kỳ chia tách các khoa học - khi mà văn hóa chưa được coi là đối tượng của một khoa học độc lập.

Với tư cách là một khoa học lý luận, VĂN HÓA HỌC có nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa như một đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư liệu do các ngành khác (dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo học...) cung cấp với mục đích phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển. Nghiên cứu văn hóa dân tộc theo lối này không chỉ là tìm hiểu "Cái gì?", mà chủ yếu là tìm hiểu "Tại sao?" và "Như thế nào?" Nhờ đi vào bề sâu, tìm những mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học sẽ cho phép ta, chẳng hạn, nếu biết được một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể nói được rằng dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào... Từ đó, người đọc có thể suy ngẫm và lý giải các tư liệu văn hóa mà anh ta bắt gặp.

Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

1.1.2. Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính GIÁ TRỊ. Trong từ "văn hóa" thì văn (ở Đông phương đối lập với "võ") có nghĩa là "vẻ đẹp" (= giá trị), hóa là "trở thành", văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần). Theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ (chân, thiện, mỹ). Các giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ đều thuộc phạm trù giá trị tinh thần.

Giá trị tinh thần còn bao gồm các tư tưởng có giá trị sử dụng (khoa học, giáo dục...), trong đó có cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua kinh nghiệm ngàn đời, con người đã tích lũy được. Theo nghĩa này, văn hóa có thể được xem như một dạng hoạt động: Theo L. White [1949], văn hóa là một phạm trù khoa học biểu thị một lĩnh vực hoạt động đặc biệt chỉ có ở riêng xã hội loài người, với những quy luật hành chức và phát triển riêng của mình. Tuy nhiên, tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của nó hoặc những hiện tượng phi văn hóa, loại ra những cách hiểu quá rộng, quy về văn hóa mọi hoạt động của con người. Chẳng hạn, theo L. White [1975: 68-70] thì thậm chí ngay cả những hiện tượng như tội ác có tổ chức (maphia) cũng được xem là một loại "véctơ văn hóa"!

Theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện hành và giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời. Nhờ vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Chẳng hạn, việc chửi nhau hoặc chiến tranh thuộc số những biện pháp giải quyết xung đột (= có phần giá trị!). Ngược lại, ô-tô, máy bay, công trình thủy điện... trong khi đem lại lợi ích rõ rệt cho con người thì đồng thời cũng làm ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái... (= phi giá trị!). Muốn kết luận một hiện tượng, sự vật có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa mức độ "giá trị" và "phi giá trị" của chúng.

Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng vào những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có thể có hay không có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn. Chẳng hạn, chế độ chiếm hữu nô lệ với tính dã man của nó quen được xem là phi giá trị. Song, ngay chính F. Engels trong "Chống Đuyrinh" cũng đã từng nói rằng "nếu không có chế độ nô lệ cổ đại thì không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại", bởi lẽ nhờ nó tạo ra sự phân công lao động trên một quy mô rộng lớn mà nền văn minh Hy Lạp được hình thành. Mà - như F. Engels giải thích - "nếu không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không thể có châu Âu hiện đại được". Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. Bởi vậy, không thể áp đặt một quan niệm về phẩm chất của giá trị cho mọi không gian, mọi thời gian, không thể đưa khía cạnh này vào ngay trong định nghĩa như có người đề nghị.

Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển.

Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng bộ phận là định hướng các chuẩn mực, điều chỉnh các ứng xử của con người. Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng phái sinh là động lực cho sự phát triển của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà UNESCO nhấn mạnh rằng văn hóa chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển.

1.1.3. Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính NHÂN SINH. Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Theo nghĩa này, văn hóa đối lập với tự nhiên: nó là cái nhân tạo, trong khi tự nhiên là cái thiên tạo. Nhưng nó không phải là sản phẩm của hư vô, mà có nguồn gốc tự nhiên: văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự nhiên và con người: VĂN HÓA = TỰ NHIÊN Ç CON NGƯỜI.

Đặc trưng này cho phép phân biệt loài người sáng tạo với loài vật bản năng, phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất). Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành, hòn Vọng Phu...).

Như vậy, "văn hóa học" không đồng nhất với đất nước học như nhiều người quan niệm [Vereschagin - Kostomaro1983: 40]. Nhiệm vụ của đất nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người, đối tượng của nó bao gồm cả các giá trị tự nhiên. Và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn văn hóa học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.

Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ ba của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.

1.1.4. Văn hóa còn có tính LỊCH SỬ. Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.

Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống (truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận....

Truyền thống văn hóa tồn tại được nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Một đứa trẻ sau khi ra đời nếu được sống với cha mẹ, nó sẽ được giáo dục theo truyền thống văn hóa nơi nó sinh ra, còn nếu bị rơi vào rừng, nó sẽ mang tính cách của loài thú. Không phải ngẫu nhiên mà trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa" (culture, cultura) đều có chứa một nghĩa chung là chăm sóc, giáo dục...

Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử: Nếu gien sinh học di truyền lại cho các thế hệ sau hình thể con người thì văn hóa là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.

1.1.5. Trở lên là những đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng khác, nếu có, chỉ là biến dạng của bốn đặc trưng này. Tổng hợp bốn đặc trưng đó, ta sẽ có được khái niệm "văn hóa" như trong bảng 1.1.

 Image

Bảng 1.1: Xác định khái niệm "văn hóa"

Trên cơ sở này, ta có thể nêu ra một định nghĩa về văn hóa như sau:

VĂN HÓA là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

 

1.2. Văn hóa với các khái niệm văn minh, văn hiến, văn vật

1.2.1. Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng "văn minh" (civilization, civilisation) như một từ đồng nghĩa với "văn hóa". Thực ra, như viện sĩ D. Likhacho[1990] có nhận xét, "đây là những khái niệm gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau, song không đồng nhất. Văn hóa giàu tính nhân bản, nó hướng tới những giá trị muôn thuở; trong khi đó thì văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc sống sao cho tiện lợi". Nói đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ đến các tiện nghi vật chất. Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau trước hết là ở tính giá trị: trong khi văn hóa là một khái niệm bao trùm, nó chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh thiên về các giá trị vật chất mà thôi.

Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa luôn luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho biết trình độ phát triển của văn hóa; từ "văn minh" có thể được định nghĩa khác nhau trong các từ điển khác nhau, song chúng thường có chung một nét nghĩa là nói đến "trình độ phát triển". Văn minh luôn là đặc trưng của một thời đại: nếu như vào thế kỷ XIX, chiếc đầu máy hơi nước đã từng là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỷ XX, nó trở thành biểu tượng của sự lạc hậu, nhường chỗ cho tên lửa vũ trụ và máy vi tính. Một dân tộc có trình độ văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hóa rất nghèo nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú.

Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và tính lịch sử, mà cái tinh thần và cái lịch sử là của riêng, không dễ gì mua bán hoặc thay đổi được; còn văn minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà cái vật chất thì dễ phổ biến, lây lan.

Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Các nền văn hóa cổ đại hình thành từ trên hai nghìn năm trước công nguyên như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa... đều là sản phẩm của phương Đông. Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là văn hóa Hy Lạp thì cũng sau các nền văn hóa phương Đông cổ đại tới hàng nghìn năm (thế kỷ XI-III trước công nguyên) và được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn hóa phương Đông gần nó nhất là Ai Cập và Lưỡng Hà - từ hệ thống thần thoại, lịch pháp cho đến chữ viết - chỗ nào cũng thấy dấu ấn của ảnh hưởng phương Đông. Về vị trí và đặc điểm kinh tế thì các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở lưu vực các con sông lớn là những nơi sản xuất nông nghiệp. Trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa" bắt nguồn từ chữ cultus tiếng La-tinh có nghĩa là "trồng trọt". Từ trồng trọt phát triển ra nghĩa chăm sóc (cây cối), từ "chăm sóc (cây cối)" dẫn đến chăm sóc (con người) = giáo dục. Trong khi đó thì từ "văn minh" trong các ngôn ngữ phương Tây đều bắt nguồn từ chữ civitas tiếng La-tinh có nghĩa là "thành phố". Nghĩa gốc này kéo theo mình hàng loạt từ và nghĩa phái sinh trong các ngôn ngữ châu Âu: "thị dân", "công dân" (civilis)..., từ đó đến civilisation, civilization là "làm cho trở thành đô thị", đầy đủ tiện nghi như đô thị (= văn minh).

Như vậy, VĂN MINH (văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.

1.2.2. Ở Việt Nam còn có các khái niệm "văn hiến" và "văn vật". Từ điển thường định nghĩa văn hiến là "truyền thống văn hóa lâu đời", còn văn vật là "truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và nhiều di tích lịch sử", "công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử". So sánh các định nghĩa này, ta thấy "văn hiến" và "văn vật" thực ra chỉ là những khái niệm bộ phận của "văn hóa", chúng chỉ khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: Văn hiến là văn hóa thiên về "truyền thống lâu đời", mà truyền thống lâu đời còn lưu giữ được không bị chiến tranh và thời gian hủy hoại chính là các giá trị tinh thần, còn văn vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, công trình, hiện vật). Chính vì vậy mà ông cha ta thường nói đất nước 4000 năm văn hiến (chứ không nói ...văn vật, vì trải qua 4000 năm, phần lớn các giá trị vật chất đã bị tàn phá), nhưng lại nói Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn vật (vì trong 1000 năm trở lại đây, từ khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long, các giá trị vật chất còn lưu giữ được nhiều).

Phương Tây không có hai khái niệm "văn hiến" và "văn vật", cho nên hai khái niệm này không thể dịch ra các ngôn ngữ phương Tây được. Văn vật và văn minh tuy cùng thiên về giá trị vật chất, nhưng lại rất khác xa nhau.

Để dễ phân biệt các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật, những điều nói trên được trình bày trong bảng 1.2.

VĂN HÓA

VĂN HIẾN

VĂN VẬT

VĂN MINH

Chứa cả giá trị vật chất lẫn tinh thần

Thiên về giá trị tinh thần

Thiên về giá trị vật chất

Thiên về giá trị
vật chất - kỹ thuật

Có bề dày lịch sử

Chỉ trình độ phát triển

Có tính dân tộc

Có tính quốc tế

Gắn bó nhiều với
phương Đông nông nghiệp

Gắn bó nhiều với phương Tây đô thị

Bảng 1.2: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật

1.3. Cấu trúc của hệ thống văn hóa

1.3.1. Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục.

Theo cách nhìn truyền thống, văn hóa có cấu trúc hai phần rất đơn giản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần [Arnoldo1985: 31-46]. Cấu trúc này không sai, nhưng nó là cấu trúc cơ sở, rất đơn giản, không thể cho thấy hết được sự phong phú và phức tạp của hệ thống văn hóa.

L. White [1949: 346-366] phân chia văn hóa thành ba tiểu hệ: công nghệ, xã hội và tư tưởng. Đào Duy Anh [1951: 8] dựa theo F. Sartiaux mà chia văn hóa thành ba phần: sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trí thức. Nhóm Văn Tân [1973] thì phân biệt văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần; nhưng văn hóa xã hội (phong tục, tập quán...) đâu có nằm ngoài văn hóa tinh thần? M.S. Kagan cũng chia văn hóa ra ba thành tố, trong đó, bên cạnh văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần là văn hóa nghệ thuật [1974: 188-208]; nhưng có nghệ thuật nào lại không phục vụ các nhu cầu tinh thần?

Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật [Ngô Đức Thịnh 1987], hoặc hoạt động sinh tồn, hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt động nghệ thuật [Nguyễn Tấn Đắc 1987].

1.3.2. Để tiếp cận văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính lý thuyết hệ thống.

Theo lý thuyết này [xem, ví dụ: Blauberg... 1969; Sadovskij 1974] thì:

a) Mọi HỆ THỐNG đều bao gồm các YẾU TỐ và các QUAN HỆ giữa chúng; mạng lưới các mối quan hệ tạo thành CẤU TRÚC;

b) Mỗi yếu tố của hệ thống, đến lượt mình, đều có thể là một hệ thống con - một TIỂU HỆ;

c) Mọi hệ thống đều có quan hệ mật thiết với MÔI TRƯỜNG.

Trên cơ sở này, chúng tôi thấy hợp lý hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm bốn thành tố (bốn tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau: Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng người nhất định - một chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, và do vậy đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và về bản thân con người - đó chính là hai vi hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.

Tiểu hệ thứ hai liên quan trực tiếp đến những giá trị văn hóa nội tại của cộng đồng người - chủ thể văn hóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm hai vi hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội trong một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...).

Cộng đồng người (chủ thể văn hóa) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu, v.v.) và môi trường xã hội (hiểu ở đây là các xã hội, dân tộc, quốc gia láng giềng). Cho nên, hệ thống văn hóa còn bao gồm hai tiểu hệ nữa liên quan đến cách thức xử sự của cộng đồng dân tộc với hai loạ̣i môi trường ấy. Hai tiểu hệ đó là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.

Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) và đối phó với môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn uống và giữ gìn sức khỏe, để tạo ra các vật dụng hàng ngày...; đồng thời phải đối phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu và thời tiết (quần áo, nhà cửa, kiến trúc). Với môi trường xã hội, bằng các quá trình giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc, quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo đối phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao...

1.3.3. Cũng như mọi loại ranh giới, ranh giới giữa các bộ phận của hệ thống văn hóa không thể vạch ra một cách quá rạch ròi, nhất thành bất biến. Để xếp sắp một hiện tượng văn hóa vào hệ thống, phải căn cứ vào đặc điểm điển hình của nó. Chẳng hạn, mục đích của nhà cửa là để đối phó với môi trường tự nhiên, nhưng con người lại cũng đã tận dụng chính môi trường tự nhiên để tạo ra nó. Ngoại giao vừa có trách nhiệm đối phó vừa có trách nhiệm tận dụng môi trường xã hội, nhưng trách nhiệm đối phó nặng nề hơn (không phải ngẫu nhiên mà ta có khái niệm mặt trận ngoại giao).

Một hệ thống văn hóa có thể được xem xét dưới góc độ các bình diện đồng đại và lịch đại, khái quát và cụ thể. Môn lịch sử văn hóa lâu nay chủ yếu quan tâm đến bình diện cụ thể và lịch đại, còn môn văn hóa học đang bàn chủ yếu quan tâm đến bình diện khái quát và đồng đại. Tuy nhiên, vì văn hóa vừa có tính hệ thống, lại vừa có tính lịch sử cho nên một miêu tả cụ thể tốt nhất là phải tính tới cả hai bình diện ấy. Nếu lấy diện lịch đại làm cơ sở thì trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ phải lưu ý đến tính đồng đại - VĂN HÓA SỬ (lịch sử văn hóa) phải được xây dựng như thế. Ngược lại, nếu lấy diện đồng đại làm cơ sở thì trong mỗi hệ thống con lại phải chú ý đến mặt lịch đại - VĂN HÓA HỌC phải được xây dựng như thế.

Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn có thể có những cách phân chia khác. Chẳng hạn, trong quan hệ với địa bàn cư trú, có thể phân biệt văn hóa biển, văn hóa đồng bằng và văn hóa núi. Trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hóa dân gian và văn hóa chính thống. Cũng vậy, trong quan hệ với chủ thể văn hóa, có thể phân biệt văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được kết hợp xem xét trong những trường hợp cần thiết. Cả bốn thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hóa. Nếu mô hình cấu trúc của hệ thống văn hóa cho ta thấy CÁI CHUNG, cái đồng nhất trong tính hệ thống của các nền văn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy CÁI RIÊNG, cái khác biệt trong tính hệ thống của chúng.

Cấu trúc của hệ thống văn hóa trong quan hệ với loại hình văn hóa vừa trình bày có thể tóm tắt trong hình 1.1.

Văn hoá nhận thức

Nhận thức về vũ trụ

Nhận thức về con người

Văn hoá tổ chức cộng đồng

Văn hoá tổ chức đời sống tập thể

Văn hoá tổ chức đời sống cá nhân

Văn hoá ứng xử

với môi trường tự nhiên

Văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên

Văn hoá đối phó với môi trường tự nhiên

với môi trường xã hội

Văn hoá tận dụng môi trường xã hội

Văn hoá đối phó với môi trường xã hội

Hình 1.1: Cấu trúc của hệ thống văn hóa.

 


 

[1] Tạp chí Người đưa tin UNESCO, tháng 11-1989, tr.5.

 


§2. LOẠI HÌNH VĂN HÓA

2.1. Văn hóa học so sánh: từ đa dạng đến tương đồng

2.1.0. So sánh các nền văn hóa trên thế giới, người ta thấy chúng vô cùng đa dạng và phong phú. Chính vì vậy mà khi nói đến chúng, người ta thường liệt kê; chẳng hạn, Arnold Toynbee kể ra 38 nền văn minh thế giới, trong đó văn minh Việt Nam xếp cạnh văn minh Triều Tiên, Nhật Bản. Song, cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy giữa các nền văn hóa có không ít nét tương đồng.

2.1.1. Để giải thích sự tương đồng này, người ta đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau [xem Ngô Đức Thịnh 1993: 19-66], nhưng tựu trung lại, có thể quy về ba thuyết.

Từ cuối thế kỷ XIX ở Tây Âu đã phổ biến thuyết khuếch tán văn hóa (cultural diffusion) với những đại biểu như F. Ratsel, L. Frobenius, F. Grabner, W.Schmidt ở Đức, Áo; G. Elliot Smith, W. Rivers ở Anh... Quan điểm chủ yếu của những người theo thuyết này là văn hóa được hình thành từ một trung tâm rồi được "truyền bá", "lan tỏa" ra các nơi khác bằng cách mô phỏng hoặc nhờ những cuộc thiên di của các dân tộc. Có lan tỏa toàn bộ hoặc lan tỏa bộ phận (truyền bá những yếu tố riêng lẻ của một nền văn hóa); lan tỏa tiên phát (trực tiếp từ nơi phát sinh) hoặc lan tỏa thứ sinh. Việc cực đoan hóa thuyết này đã dẫn đến chỗ bị giới cầm quyền thực dân lợi dụng để đề cao dân tộc này và khinh rẻ các dân tộc khác, đi ngược lại quyền lợi của con người.

Đầu thế kỷ XX, từ những ý kiến của F. Boas, các nhà nhân chủng học Mỹ C.L. Wisler và A.L. Kroeber đã phản đối thuyết khuyếch tán văn hóa và đề xuất thuyết vùng văn hóa (cultural areas). Trên cơ sở nghiên cứu văn hóa các dân tộc da đỏ Mỹ, các tác giả này đã khẳng định sự tồn tại của nhiều dân tộc trên cùng một vùng lãnh thổ mà văn hóa của họ có những điểm chung.

Từ cách tiếp cận vùng văn hóa trên cơ sở một đặc trưng hạn hẹp, C.L. Wisler và một số tác giả về sau đã đi đến kết luận về sự cần thiết lựa chọn một tập hợp những đặc trưng, tạo nên tip, hay loại hình văn hóa vùng. Trên cơ sở quan điểm này, từ những năm 30, trong dân tộc học Xô-viết đã hình thành thuyết loại hình kinh tế - văn hóa mà đại biểu là N.N. Cheboksarovà một số tác giả khác. Các học giả này cho rằng trong lịch sử văn hóa nhân loại từng tồn tại ba nhóm loại hình kinh tế - văn hóa: loại hình kinh tế - văn hóa săn bắt, hái lượm và đánh cá; loại hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi; loại hình kinh tế văn hóa nông nghiệp dùng cày với sức kéo động vật [xem: Cheboksaro1971].

2.1.2. Mỗi một trong ba thuyết trên đều ít nhiều có hạt nhân hợp lý của nó. Chúng thực ra không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, mỗi thuyết thích hợp trong những điều kiện khác nhau.

Thật vậy, nếu các dân tộc chủ nhân của các nền văn hóa, cũng như các ngôn ngữ của họ, xuất phát từ cùng một gốc thì giữa văn hóa gốc và các nền văn hóa này có thể có quan hệ "khuyếch tán", "lan tỏa".

Nếu các nền văn hóa gần gũi nhau về địa lý thì chúng có thể từ tiếp xúc đến giao lưu với nhau, và trong việc giao lưu ấy có thể xảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hóa này thâm nhập vào nền văn hóa kia (tiếp thu thụ động) hoặc nền văn hóa này vay mượn những yếu tố của nền văn hóa kia (tiếp thu chủ động); rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh (endogenous) và ngoại sinh (exogenous) ấy mà điều chỉnh, biến cải cho phù hợp, gây ra sự tiếp biến văn hóa[1] (acculturation). Các nền văn hóa gần gũi và giao lưu với nhau này tạo nên những vùng văn hóa. Cũng có thể phân biệt vùng văn hóa ngay trong nội bộ một nền văn hóa.

Sự tiếp biến văn hóa cũng có thể xảy ra khi các nền văn hóa tuy ở cách xa nhau nhưng đã có điều kiện tiếp xúc với nhau. Nếu các nền văn hóa mặc dù ở xa nhau và chưa bao giờ gặp gỡ nhau nhưng lại nằm trong những điều kiện tự nhiên và xã hội tương đồng thì chúng cũng có thể có những nét giống nhau. Sản phẩm của hai trường hợp này là những đặc trưng loại hình. Đặc trưng loại hình càng mạnh và rõ ở các nền văn hóa cùng gốc và/hoặc gần gũi nhau về địa lý. Chính vì vậy mà các nhà dân tộc học Xô-viết đã phân biệt khái niệm "loại hình kinh tế - văn hóa" với khái niệm "vùng văn hóa - lịch sử": Nếu vùng văn hóa - lịch sử là một không gian địa lý liên tục thì loại hình kinh tế - văn hóa có thể bao gồm cả những khu vực địa lý khác nhau.

Các thuyết và các khái niệm nêu trên đều có thể được vận dụng ở những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, lý thuyết vùng văn hóa sẽ rất hữu hiệu cho việc xác định các vùng văn hóa của người Việt và các dân tộc ít người như văn hóa sông Hồng, văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, văn hóa Tây Nguyên... [xem: Ngô Đức Thịnh 1993; Huỳnh Khái Vinh...1995]. Lý thuyết về sự lan tỏa thích hợp cho việc giải thích sự tương đồng văn hóa giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo... Song, để làm sáng tỏ bản sắc của văn hóa Việt Nam, điều quan trọng hơn là cần nêu được sự đồng nhất và khác biệt giữa nó với các nền văn hóa khu vực (như Trung Hoa) và thế giới (như phương Tây). Trong sự so sánh này, việc xác định loại hình văn hóa là hết sức quan trọng. Chỉ ra được các loại hình với mức độ khái quát cao và những đặc trưng của mỗi loại, ta có thể căn cứ vào đó mà xếp bất kỳ một nền văn hóa nào vào một trong các "ô" phân loại đã có. Ba loại hình kinh tế - văn hóa của N.N. Cheboksarothiên về các đặc điểm mang tính lịch sử - kinh tế mà chưa đồng thời phản ánh được các đặc trưng địa lý - khu vực là điều không kém phần quan trọng đối với việc xác định một nền văn hóa. Dưới đây là một cách tiếp cận cố gắng tính đến cả hai loại đặc điểm đó.

2.2. Nguyên lý phân định loại hình văn hóa

2.2.1. Văn hóa là sản phẩm của con người (tính nhân sinh), cho nên việc phân loại văn hóa cần bắt đầu từ việc tìm hiểu sự hình thành và phân bố các chủng người trên trái đất nói chung.

Lâu nay trên thế giới phổ biến cách phân chia nhân loại thành ba đại chủng: chủng Á (Mongoloid, trong cách nói dân gian thường gọi là chủng da vàng), chủng Âu (Europeoid, dân gian thường gọi là chủng da trắng) và chủng Úc-Phi (Australo-Negroid, dân gian thường gọi là chủng da đen). Song những nghiên cứu mới hơn trong khoa nhân chủng học cho thấy rằng sự phân loại ấy mới chỉ dựa trên các đặc điểm thích nghi (màu da, hình tóc, mũi, môi...).

Căn cứ vào những đặc điểm trung tính, không thay đổi trước biến động của môi trường (như nhóm máu, đường vân tay, hình thái răng...) người ta đã chia nhân loại thành hai khối quần cư lớn: Úc-Á và Phi-Âu. Đó cũng chính là hai trung tâm hình thành chủng tộc cổ xưa nhất của loài người: trung tâm phía Tây (Phi-Âu) và trung tâm phía Đông (Úc-Á) [xem, chẳng hạn: Nguyễn Đình Khoa 1976].

Theo nhà nhân chủng học nổi tiếng người Nga N.N. Cheboksarov, "ngay từ sơ kỳ đồ đá cũ (khoảng 50-30 vạn năm trước công nguyên - T.N.T) đã xuất hiện hai trung tâm hình thành chủng tộc: sớm hơn là miền Đông-Bắc Phi và Tây-Nam Á, ít nhiều muộn hơn là miền Đông-Nam Á. Những con người muộn hơn nữa thuộc loại hiện đại homo sapiens dần dần phân bố rộng rãi khắp nơi trên trái đất... họ tuy còn giữ lại nhiều đặc điểm trung tính nhưng đồng thời cũng tiếp tục thích nghi với những điều kiện tự nhiên khác nhau để phân hóa dần thành các chủng tộc ngày nay" [1971: 146].

Từ trung tâm phía Tây, con người nguyên thủy phân tán ra thành hai đại chủng: a) Đại chủng Âu (Europeoid) bao gồm các chủng: Ban-tích, Trung Âu và Địa Trung Hải; b) Đại chủng Phi (Negroid) bao gồm các chủng: Nam Ấn (Dravidien), Etiopi, Đông Phi, Trung Phi, Nam Phi.

Từ trung tâm phía Đông, con người nguyên thủy cũng phân tán ra thành hai đại chủng: a) Đại chủng (Mongoloid) bao gồm các chủng: Bắc Mongoloid, Đông Mongoloid, Nam Mongoloid, Mỹ (Indien); b) Đại chủng Úc, hay phương Nam (Australoid, t.La-tinh Austra = "phương Nam") bao gồm các chủng: Negrito, Melanésien, Australien, Tasmanien, Polinésien, Ainu (xem hình 2.1).

Image 

Hình 2.1: Sự hình thành và phân bố các chủng tộc trên trái đất:
1- chủng Âu; 2- chủng Phi; 3- chủng Á;  4- chủng Phương Nam;
5- thời đá cũ; 6- thời đá giữa và mới; 7- thời cuối đá mới và kim loại
.
Dựa theo: [Cheboksarov… 1971]

 

Hai trung tâm này xuất hiện không đồng thời: trung tâm phía Tây có trước. Không loại trừ khả năng là từ đó, loài người nguyên thủy đã tiến dần sang phía Đông để rồi phát triển thành trung tâm thứ hai ở đây. Bởi vậy mà trong khoa nhân chủng học, bên cạnh thuyết khá phổ biến về hai trung tâm hình thành loài người, còn có thuyết một trung tâm [xem, ví dụ: Uryson 1971]. Ngoài ra, cũng còn có cả loại ý kiến cho rằng con người ngày nay xuất phát từ nhiều trung tâm tồn tại song song và độc lập với nhau.

2.2.2. Sự phân biệt hai trung tâm vừa xét thành "Tây" và "Đông" là thuần túy dựa vào địa lý. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, hình thành sự phân biệt hai khái niệm "phương Tây" và "phương Đông" về mặt văn hóa. Sự phân biệt này do người châu Âu đặt ra: "phương Tây" là khu vực châu Âu nơi họ cư trú (vùng Tây-Bắc của cựu lục địa Á-Âu); vùng đất rộng lớn phía Đông-Nam còn lại mà họ chưa biết tới, bao gồm toàn bộ châu Á và mở rộng tới châu Phi, được gọi là "phương Đông"2. Các nhà khoa học nghiên cứu về vùng đất này được gọi là các nhà "Đông phương học".

Nếu cần vẽ một đường ranh giới thì đó sẽ là một đường chéo chạy từ lưu vực sông Nile tới dãy Ural; nói một cách chính xác hơn thì "đường" ranh giới đó là cả một vùng đệm chạy chéo từ Tây-Nam là châu Phi qua Ai-cập, tới Đông-Bắc là vùng Xibêri của nước Nga. Như vậy, nếu trừ đi vùng đệm đó thì "phương Đông" là khu vực Đông-Nam còn lại từ Ấn Độ qua Trung Hoa tới Nhật Bản vòng xuống Đông Nam Á.

Hai khu vực này có sự khác biệt rất rõ rệt về mọi phương diện: Trong khi các ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập; trong khi người phương Tây coi trọng cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng; trong khi người phương Tây bắt (nắm) tay nhau lúc gặp nhau thì người phương Đông tự nắm tay mình (chắp tay, khoanh tay)... Những khác biệt này xưa nay đã được nhiều người nhắc đến. Nguyễn Duy Cần [1957] phân biệt Đông-Tây bằng các phạm trù "hướng nội" và "hướng ngoại", "trầm mặc" và "hoạt động", "phẩm" và "lượng"... Kim Định [1969] nói đến "tĩnh chỉ" (statique) và "động đích" (dynamique), "vô vi" và "hữu vi"... Còn đây là những câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Anh J. Kipling, người đã sống nhiều năm ở Ấn Độ:

Ôi, phương Tây là phương Tây, phương Đông là phương Đông!

Họ sẽ không gặp nhau, chừng nào mà Trời chưa gặp Đất...

Nhưng nếu không có phương Đông thì làm gì có phương Tây!

2.2.3. Bởi văn hóa là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hóa chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý- khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) quy định.

Môi trường sống của các cộng đồng cư dân ở phương Đông (chính xác hơn là Đông Nam) là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên những những con sông lớn với các vùng đồng bằng trù phú (xem §1.2.1). Còn phương Tây (chính xác hơn là Tây Bắc) lại là xứ lạnh với khí hậu khô, không thích hợp cho thực vật sinh trưởng, có chăng chỉ là những vùng đồng cỏ mênh mông.

Hai loại địa hình đồng bằng và đồng cỏ dẫn đến chỗ cư dân của hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi. Kinh tế trồng trọt bắt buộc người dân phải sống định cư, vì trồng cái cây xuống thì phải chờ cho nó lớn lên, ra hoa kết trái để còn thu hoạch. Ấy là chưa kể đến những loại cây lâu năm, phải trồng công phu, phải chờ 5-10 năm mới có quả, rồi lại thu hoạch nhiều lần. Lối sống chăn nuôi thì khác: tài sản của dân du mục là đàn gia súc. Gia súc ăn cỏ và không bị cố định như cái cây, ăn hết cỏ không thể ngồi đợi cho cỏ mọc mà phải đi tìm bãi cỏ khác. Cho nên sống bằng nghề du mục là lối sống du cư - vừa đi vừa ở, nay đây mai đó lang thang.

Nghề chăn nuôi ở phương Tây phổ biến đến mức trong Kinh Thánh, từ "cừu" được nhắc tới trên 5.000 lần, tín đồ được gọi là "con chiên", Chúa là người "chăn chiên" (hình 2.2). Theo tác giả cuốn Lịch sử nhân loại thì "ngày xưa, người Hy Lạp chỉ nuôi dê và cừu, ít người làm nghề nông, phần đông lo việc mục súc và hàng hải"; người La Mã uống sữa bò, áo quần dệt bằng lông cừu hoặc bằng da thú vật [Bửu Dưỡng 1972: 28,67]. W. Durant trong cuốn Nguồn gốc văn minh [1990a, 33] cho biết: "Tại những bộ lạc săn bắn và mục súc, loài bò là một đơn vị giá trị rất tiện. Vào thời đại Homer ở Hy Lạp, người ta đánh giá người và vật bằng số bò: bộ binh giáp của Diomède đáng giá 9 con bò, một người nô lệ khéo tay đáng giá 4 con. Người La Mã cũng vậy, họ dùng hai danh từ gần giống nhau - pecus và pecunia - để trỏ bò và tiền bạc".

Về sau, các dân tộc ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán, các dân tộc trong lục địa thì làm nông nghiệp, nhưng chăn nuôi vẫn là mối quan tâm chủ yếu của họ. Trong Hồi ký về cuộc chiến tranh ở Gôlơ, Ju. Cesar viết rằng vào thế kỷ II trCN, người Giécmanh vẫn sống cuộc đời du mục, đến giữa thế kỷ I trCN, người Giécmanh đã cấy trồng, song họ "không chí thú với cuộc sống định cư, sau mỗi năm lại chuyển đi nơi khác", họ "đặc biệt không chăm làm nông nghiệp mà sống chủ yếu bằng sữa và súc vật". Còn nhà sử học La Mã nổi tiếng K. Taxit (54-120 sCN) trong tập Giécmani thì cho biết Giécmanh là đất nước "giàu gia súc", người Giécmanh "thích có nhiều gia súc" vì đó là "hình thức của cải duy nhất và dễ chịu nhất". Bộ Luật Salica cho biết vào đầu thế kỷ VI, người Frăng làm nông nghiệp nhưng vẫn đặc biệt coi trọng chăn nuôi, công xã có bãi chăn nuôi chung... [dẫn theo Pôlianxki 1978: 30-44].

Ở phương Tây, các thần thánh đều cưỡi ngựa và chơi với gia súc (hình 2.3). Tiêu chuẩn của một phụ nữ quý tộc là phải biết cưỡi ngựa. Còn các chữ đầu của cả hai bảng chữ cái La-tinh và Hy Lạp là A và a (alpha) đều bắt nguồn từ hình vẽ cái đầu bò (hình 2.4). Các vật dụng như con dấu, đồng tiền, bình nước, v.v., thường có hình bò, ngựa (hình 2.5). Xem thế đủ thấy nguồn gốc du mục và con đường từ du mục đến thương mại của văn hóa phương Tây đã quá rõ ràng[2].

Image
Image 
 

Kết quả là hình thành một cách khá rõ ràng hai loại hình văn hóa ứng với hai loại hình kinh tế: Văn hóa kiểu nông nghiệp thì lo tạo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài, không xáo trộn - chúng mang tính trọng tĩnh; còn văn hóa kiểu du mục thì lo tổ chức làm sao để có thể thường xuyên di chuyển một cách gọn gàng, nhanh chóng, thuận tiện - chúng mang tính chất trọng động. Các nền văn hóa hiện đại dù đang thuộc giai đoạn văn minh nào (nông nghiệp, công nghiệp, hay thậm chí hậu công nghiệp) cũng đều không thoát ra ngoài hai loại hình cơ bản là TRỌNG TĨNH và TRỌNG ĐỘNG mà căn cứ theo nguồn gốc thì có thể gọi chúng là các loại hình văn hóa GỐC NÔNG NGHIỆP và GỐC DU MỤC. Điển hình cho loại trọng tĩnh (gốc nông nghiệp) là các nền văn hóa phương Đông; còn điển hình cho loại trọng động (gốc du mục) là các nền văn hóa phương Tây.

2.2.4. Chính vì động cho nên các nền văn hóa phương Tây đã chuyển biến rất nhanh. Trong khi phần lớn các nền văn hóa phương Đông đến nay về cơ bản vẫn mang tính nông nghiệp thì các nền văn hóa phương Tây đã chuyển sang công nghiệp từ lâu.

Con đường chuyển biến từ du mục đến công nghiệp đi qua giai đoạn thương nghiệp: ban đầu là du mục, nhưng trong khi lang thang từ nơi này sang nơi khác, người ta nhận ra sự khác biệt về giá cả, vì vậy họ đã chuyển sang mô hình kết hợp du mục + buôn bán. Khi hàng hóa dồi dào và thấy buôn bán có lợi hơn chăn nuôi, người du mục sẽ từ bỏ chăn nuôi mà chuyển hẳn sang thương nghiệp. Nhưng thương nghiệp thì phải có kho bãi, phải có nơi gặp gỡ để trao đổi hàng hóa. Và thế là cuộc sống định cư hình thành, dân số tăng lên; các khu định cư buôn bán, các kho bãi, chợ búa sẽ phát triển thành đô thị. Để phục nhu cầu của đô thị và có hàng hóa mang trao đổi lấy hàng nông nghiệp về nuôi sống đô thị, đồng thời với sự phát triển của khoa học - sản phẩm của tư duy phân tích, một xã hội công nghiệp sẽ được hình thành.

2.3. Những đặc trưng của hai loại hình văn hóa

Mỗi loại hình văn hóa trọng động và trọng tĩnh (gốc du mục và gốc nông nghiệp) là một chùm những đặc trưng khu biệt theo từng thành tố (tiểu hệ) do môi trường sống và loại hình kinh tế quy định. Đi sâu vào các đặc trưng, ta thấy chúng liên quan chặt chẽ với nhau, cho phép từ cái nọ suy ra cái kia và suy ra tất cả các đặc trưng của mỗi nền văn hóa cụ thể. Lối tư duy này có thể giúp ta tìm ra những quy luật văn hóa, làm nên cái thần của văn hóa học như một khoa học.

2.3.1. Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên hình thành hai thái độ đối lập: Dân nông nghiệp sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, ở cố định một chỗ với cái nhà, cái cây của mình nên có ý thức tôn trọng, không dám ganh đua với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên - đó là mong muốn của cư dân các nền văn hóa trọng tĩnh phương Đông. Người Việt Nam mở miệng là nói "lạy trời", "nhờ trời", "ơn trời": "Lạy trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp"; "Ơn trời mưa nắng phải thì, Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu"... (ca dao).

Còn dân du mục thì nếu thấy ở nơi này không thuận tiện, họ có thể dễ dàng bỏ đi nơi khác, do vậy dẫn đến tâm lý coi thường thiên nhiên; bởi vậy mà các nền văn hóa phương Tây trọng động luôn mang trong mình tham vọng chinh phục và chế ngự thiên nhiên. V.C. Ferkiss đã nhận xét rằng tư tưởng phương Tây cổ truyền, từ triết học Hy-La, qua Thiên chúa giáo, đến triết học duy lý Descartes luôn bộc lộ "khuynh hướng khuyến khích một thái độ thù địch với thiên nhiên...: thiên nhiên phải được chinh phục, vì nó là thù nghịch" [dẫn theo: Trần Quốc Vượng 1980].

Mỗi thái độ đều có mặt hay mặt dở riêng của nó. Tôn trọng thiên nhiên có cái hay là giữ gìn được môi trường sống tự nhiên nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt rè, e ngại. Coi thường thiên nhiên có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với thiên nhiên, khuyến khích khoa học phát triển, nhưng có cái dở là hủy hoại môi trường.

Chỉ trong vài thế kỷ gần đây, sự phát triển công nghiệp của chủ nghĩa tư bản đã làm mất đi gần 50% diện tích rừng nhiệt đới (từ 13,6 triệu km2 xuống còn 7,8 triệu km2). Thảm thực vật bị phá hủy khiến nó không hấp thụ hết thán khí (CO2) mà các nước công nghiệp phương Tây thải ra ngày càng nhiều, tạo nên "hiệu ứng nhà kính" khiến cho trái đất đang nóng dần lên cùng vô vàn những hậu quả không thể lường trước hết được.

Từ lâu, F.Engels trong cuốn Phép biện chứng của tự nhiên đã cảnh cáo rằng "Chúng ta không nên quá tự hào về những thắng lợi của mình đối với giới tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần, giới tự nhiên lại trả thù chúng ta". Và ông kêu gọi: "Vấn đề của con người không phải là chiến thắng thiên nhiên mà là sống trong một sự hòa hợp có ý thức và tế nhị với thiên nhiên!".

Nhà triết học Nga nổi tiếng V.V. Nalimo[1991] cũng nhận xét "Tham vọng làm chủ tự nhiên vô hạn độ đang đẻ ra một loạt hiện tượng tiêu cực ngày càng tăng: <...> môi trường bị ô nhiễm, thổ nhưỡng bị phá hủy, khí quyển bị thay đổi; các bệnh tâm thần và mức độ sinh đẻ các trẻ khuyết tật gia tăng <...>. Những vấn đề xã hội - kinh tế của quá khứ hàng thế kỷ nay tác động đến thế giới phương Tây, đã bắt đầu nhường chỗ cho những vấn đề sinh tồn... Đó là sự từ bỏ khát vọng chiếm lĩnh tự nhiên. Là việc đi tìm những con đường mở ra khả năng tồn tại của con người trong sự hòa hợp với tự nhiên".

2.3.2. Về mặt nhận thức, hai loại hình văn hóa này tạo nên hai kiểu tư duy trái ngược nhau: Nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều - không chỉ phụ thuộc vào một hai hiện tượng riêng lẻ nào, mà là cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả: Trời, đất, nắng, mưa... Nắng nhiều quá cũng chết mà không nắng cũng chết, mưa nhiều quá cũng chết mà không mưa cũng chết. Cho nên người Việt nói: Trông trời, trông đất, trông mây, Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm... Trông cho chân cứng đá mềm, Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng (ca dao).

Đó chính là đầu mối của lối tư duy tổng hợp4. Tổng hợp kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không pải là tập hợp của các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến mọi mối quan hệ giữa chúng - đó chính là đặc trưng tư duy của văn hóa gốc nông nghiệp trọng tĩnh mà nông nghiệp lúa nước là điển hình. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa; Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa (tục ngữ); Mồng tám tháng tám không mưa, bỏ cả cày bừa mà nhổ lúa đi... (ca dao). Người xưa đã tìm ra không chỉ những mối qua hệ giữa các hiện tượng thiên nhiên, mà còn rất chú ý đến cả những mối quan hệ giữa chúng với các hiện tượng trong đời sống thường ngày và trong xã hội: Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa; Cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà ghẹ ổ... (tục ngữ).

Ngược lại, đối tượng quan tâm của nghề chăn nuôi không tản mạn mà tập trung vào đàn gia súc, con vật. Xuất phát từ cái chỉnh thể, tư duy của con người tất yếu đi theo lối phân tích để tách ra các yếu tố cấu thành; từ con vật hoàn chỉnh mổ xẻ chia ra các bộ phận. Và đối tượng quan tâm ở đây tập trung vào chính các bộ phận riêng lẻ ấy (vì mối liên hệ giữa chúng trong chỉnh thể đã là đương nhiên), cho nên phân tích kéo theo siêu hình - chú ý tới các yế, trừu tượng hóa chúng khỏi các mối liên hệ. Phân tích và siêu hình - đó chính là đặc trưng tư duy của văn hóa trọng động mà phương Tây là điển hình.

Ở Châu Âu, các từ "biện chứng" (dialectics) và "siêu hình" (metaphisics) đều đã có từ trước công nguyên, song chỉ có từ siêu hình (t. Hy Lạp meta phisika chỉ những phần trong tác phẩm của Aristote, xếp sau phần nói về vật lý, bàn về những cái khởi đầu bất biến, cao siêu) là được sử dụng với nghĩa gần giống ngày nay - chỉ cái bất biến, biệt lập và tĩnh tại. Từ biện chứng (t. Hy Lạp dialektike) ban đầu chỉ nghệ thuật tranh luận và phân chia khái niệm (= phân loại, tức là ở một khía cạnh nào đó, rất gần nghĩa với "siêu hình"); nghĩa dùng ngày nay chỉ mới hình thành từ thời Phục Hưng.

Tư duy phân tích và siêu hình là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của KHOA HỌC theo nghĩa phương Tây của từ này. Khoa học hình thành theo con đường thực nghiệm, khách quan, lý tính. Một tư tưởng sẽ được coi là khoa học khi nó: a) được biện giải, lập luận một cách chặt chẽ, lý tính; và b) kiểm tra được bằng thực nghiệm. Để đạt được hai tiêu chuẩn ấy, việc nghiên cứu khoa học bao giờ cũng phải giới hạn đối tượng nghiên cứu, cô lập nó khỏi các đối tượng có liên quan (kể cả người nghiên cứu), xem xét nó như bằng cặp mắt của người khác (khách quan). Tính chặt chẽ và sức thuyết phục của khoa học từ đó mà ra. Tuy nhiên, do phương pháp khoa học bao giờ cũng giới hạn đối tượng cho nên cái đúng của khoa học chỉ là đúng trong phạm vi những giới hạn ấy (ví dụ, các định lý toán học được chứng minh rất chặt chẽ trong phạm vi của một hệ thống tiên đề không được chứng minh), bởi vậy, khoa học chỉ là những cố gắng "đi gần đến chân lý bằng cách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật" [Lenin 1981]. Tức là, khoa học có nhược điểm là bao giờ cũng có phần sai lầm5. Xuất hiện một nghịch lý: chính vì luôn chứa sai lầm cho nên khoa học phát triển rất nhanh (tư tưởng trước sai nên mới có tư tưởng sau thay thế nó).

Ngược lại, ở lối tư duy tổng hợp và biện chứng, sự chú ý bị phân tán, không có điều kiện cho việc hình thành những ngành khoa học chuyên sâu, nhưng bù vào đó, nó lại là cơ sở cho việc hình thành một nền ĐẠO HỌC - đó là hệ thống những tri thức thu được bằng con đường kinh nghiệm, chủ quan, cảm tính. Vì tiếp cận đối tượng một cách tổng hợp nên phải xem xét nó trong sự tồn tại tự nhiên, trong sự liên hệ tự nhiên với vạn vật và con người (kể cả người nghiên cứu), nên xem xét nó bằng con mắt của chính mình (chủ quan). Vì luôn đặt mình trong liên hệ với đối tượng nghiên cứu và với tự nhiên nên phải dùng trực giác, cảm tính. Vì chủ quan và cảm tính nên mỗi người tiếp nhận luôn phải kiểm tra tính xác thực của kết luận bằng kinh nghiệm của chính mình. Do không được biện luận, chứng minh, nên tri thức đạo học có nhược điểm là sức thuyết phục thấp, nhưng bù vào đó, nó bao giờ cũng diễn đạt ngắn gọn, súc tích - tính thâm thúy của đạo học từ đó mà ra. Thêm vào đó, do được hình thành một cách tự nhiên (không bị giới hạn đối tượng) và được kiểm chứng bằng kinh nghiệm của nhiều thế hệ nên tính đúng của đạo học thường khá cao. Chính vì vậy mà tư tưởng phương Đông cổ truyền hàng ngàn đời nay ít có gì thay đổi.

Dưới góc độ đang xét, người ta cũng nói rằng đạo học phương Đông có tính cách siêu hình. Trong trường hợp này, từ "siêu hình" được dùng theo một nghĩa khác, không đối lập với khái niệm biện chứng: Nó chỉ lĩnh vực tâm linh, không nhận thức trực tiếp được bằng các giác quan (= nằm trên cái hữu hình).

2.3.4. Về mặt tổ chức cộng đồng, ta có thể xem xét trên hai phương diện: nguyên tắc tổ chức cộng đồng và cách thức tổ chức cộng đồng.

2.3.4.1. Về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình (tục ngữ). Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.

Nhiều người Việt Nam không dễ gì chấp nhận ngay được điểm cuối cùng (trọng phụ nữ). Điều đó không có gì là khó hiểu, bởi lẽ do quá trình phát triển liên tục và giao thoa lẫn nhau, không có nền văn hóa nào là du mục hoàn toàn hoặc nông nghiệp hoàn toàn. Nền văn hóa Việt Nam thời kỳ sau này, đặc biệt là từ khi nhà Lê lấy Nho giáo làm quốc giáo, chịu ảnh hưởng khá nhiều của văn hóa Trung Hoa; nó đã du nhập nhiều tư tưởng trọng động (bị "du mục hóa"), trong đó có tư tưởng "nam tôn nữ ty" được đề ra từ thời Hán (về chất du mục trong văn hóa nông nghiệp Trung Hoa, xem ở sau, §3.4 và §23.2.2.1). Nhiều người chỉ biết tới những quan niệm của Nho giáo Trung Hoa "nhập cảng" sau này (kiểu như Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô, thuyết Tam tòng), rồi "tưởng" rằng tình trạng đó vốn có ở Việt Nam từ ngàn xưa là hết sức sai lầm.

Không chỉ người bình dân "tưởng" như vậy, mà ngay cả một số nhà nghiên cứu cũng "tin" do "tưởng" như vậy. Chẳng hạn, tác giả cuốn Đất lề quê thói [1992, tr.498] viết: "Tự ngàn xưa, những khi có việc làng không hề có bóng phụ nữ nơi đình trung"?! Cái "ngàn xưa" ấy thực ra chỉ là dăm bảy thế kỷ, chủ yếu từ thời Hậu Lê (khi Nho giáo trở thành quốc giáo) trở lại đây.

Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần của người nông nghiệp định cư coi trọng ngôi nhà à coi trọng cái bếp à coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Tục ngữ Việt Nam chứa đựng không ít những câu thể hiện nguyên lý này: Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà; Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng... Phụ nữ Việt Nam là người có trách nhiệm quản lý kinh tế, tài chính trong gia đình, dân gian gọi họ là người tay hòm chìa khóa. Phụ nữ Việt Nam được xem là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu; con hư tại mẹ; cháu hư tại bà; con dại cái mang (thành ngữ). Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái vốn có nghĩa là "mẹ" (con dại cái mang) được chuyển nghĩa thành "lớn, quan trọng, chủ yếu" (sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái, máy cái, chữ cái, tên cái...). Sau này, khi chế độ phụ quyền được xác lập do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, người dân đã phản ứng dữ dội qua bài ca dao:

Ba đồng một mớ đàn ông,

Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha;

Ba trăm một mụ đàn bà,

Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi!

Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp tiêu biểu - khu vực Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi là "xứ sở Mẫu hệ" (le Pays du Matrircat)6. Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chăm và nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai...), vai trò của phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ...

Nói về phụ nữ Việt Nam, A. Pazzi (Vũ Hạnh) đã nhận định: "Xét trong văn học bình dân, ta thấy người phụ nữ Việt Nam, mặc dầu khổ cực nhưng rất được yêu quý, nể vì, không như phụ nữ bình dân nhiều nước phương Tây chịu sự đối đãi thô lỗ, nhiều khi quá mức chênh lệch với người đàn ông... Phần nhiều đàn bà có một ngôi vị quan trọng, nhiều khi quyết định ở trong gia đình. Bởi lẽ người đàn bà ấy nắm hết cơ sở vật chất, quản trị trong nhà, giữ mối liên lạc đối với họ hàng, bà con, thấy rõ ràng trọng trách của gia đình mình đối với làng nước" [1970, tr.56].

Càng đi về phía Bắc (Trung Hoa) và phía Tây (Ấn Độ), sự phân biệt đối xử nam nữ càng rõ: O.W.Wolters trong khi nghiên cứu đặc trưng văn hóa Đông Nam Á [1995: 19] đã nói đến "sự bình đẳng cả nam lẫn nữ và cả hai phái đều có thể nhận quyền thừa kế" như một nét đặc trưng nổi bật, sự bình đẳng này giải thích tại sao "có sự giống nhau bề ngoài giữa nam thần và nữ thần ở tiểu tượng học Java, trong khi đó sự khác biệt về giống đã được thể hiện không thể nhập nhằng trong tiểu tượng học Ấn Độ".

Đến phương Tây thì nguyên tắc tổ chức cộng đồng của họ là trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam giới. Vào thời La Mã cổ đại, phụ nữ không hề có tên riêng: cho đến nay, nhiều nước châu Âu vẫn giữ tục lệ phụ nữ mang họ + tên chồng trong cả các văn bản chính thức; ở một số dân tộc phương Tây, con cái mang họ cha chưa đủ mà còn phải luôn kèm thêm cả tên cha bên cạnh. Truyền thuyết Thiên Chúa giáo coi người đàn bà chỉ là cái xương sườn của người đàn ông mà thôi! Khi có mâu thuẫn liên quan đến một người đàn bà, những người đàn ông phương Tây xưa giải quyết bằng cách đấu gươm và sau này thì đấu súng với nhau mà không hề quan tâm đến ý kiến của chị ta. Trong các ngôn ngữ phương Tây, nhiều danh từ chỉ nghề nghiệp hoặc chức vụ quan trọng đều mang giống đực hoặc cấu tạo với từ căn mang nghĩa "người đàn ông", chẳng hạn trong tiếng Anh: chairman (chủ tịch), hedman (thợ cả), shopman (người bán hàng), tradesman (người buôn bán), newsman (người bán báo), oilman (người bán dầu),...

2.3.4.2. Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn phải đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp cộng với lối sống trọng tình đã dẫn đến cách thức tổ chức cộng đồng theo lối linh hoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lý sống của người Việt Nam là: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt thì mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy (tục ngữ). Nguyên tắc sống trọng tình cảm và nhu cầu về một cuộc sống hòa thuận càng làm cho lối sống linh hoạt trở nên đậm nét hơn và là cơ sở của tâm lý hiếu hòa trong quan hệ xã hội: Ngày xưa, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng, chỉ cần dấn thêm một trận nữa là toàn thắng, cha ông ta đều luôn biết dừng lại và chủ động "cầu hòa", trải chiếu hoa cho giặc về, mở đường cho giặc rút lui trong danh dự (xem §26.1.1).

Image 

Muốn sống dựa trên tình cảm, trong quan hệ xã hội con người còn phải biết tôn trọng nhau và cư xử bình đẳng (dân chủ) với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến đặc trưng quan trọng bậc nhất của văn hóa nông nghiệp là tâm lý coi trọng tập thể, cộng đồng. Người Việt Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.

Ngược lại, tư duy phân tích và siêu hình của văn hóa trọng động dẫn đến cách thức tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc. Cuộc sống du cư của tổ tiên khi xưa đòi hỏi con người luôn phải sống có tổ chức, phải tuân thủ kỷ luật chặt chẽ, sớm dẫn đến sự hình thành một nếp sống theo pháp luật, với tính tổ chức cao. Cách thức tổ chức theo nguyên tắc liên quan đến lối sống trọng lý - đề cao lý trí (theo lối nói cực đoan phương Tây là duy lý). Để duy trì được nguyên tắc, kỷ luật, văn hóa trọng động tạo ra cách cư xử mà quyền lực tuyệt đối nằm trong tay người cai trị (quân chủ)7. Nền quân chủ hà khắc phương Tây thống trị bằng sức mạnh và thanh kiếm kéo dài suốt thời Trung cổ, khiến cho cuộc sống trở nên không thể chịu đựng được8. Những cuộc cách mạng tư sản nối tiếp nhau đã đưa châu Âu sang giai đoạn dân chủ tư sản, và với nền dân chủ này, vai trò của phụ nữ mới bắt đầu được đề cao. Song ban đầu nó chỉ như một thứ mốt, nó thiên về những biểu hiện hình thức ngoài đường hơn thực chất trong nhà. Mãi đến năm 1920, phụ nữ Mỹ mới được quyền bỏ phiếu, đến năm 1928 phụ nữ Anh mới được quyền bầu cử.

Tư duy phân tích, cách tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc, v.v... dẫn đến một đặc điểm quan trọng của văn hóa phương Tây là tâm lý trọng cá nhân. Thời trung cổ trở về trước là coi trọng cá nhân người cai trị, thời dân chủ tư sản về sau là coi trọng tự do cá nhân của mỗi con người.

2.3.4.3. Mỗi lối sống có cái ưu và nhược điểm riêng của nó. Không phải cứ linh hoạt, trọng tình, dân chủ là tốt; ngược lại, nguyên tắc, trọng võ, quân chủ là xấu.

Nếu như mặt trái của nguyên tắc là máy móc, rập khuôn cứng nhắc; mặt trái của quân chủ là áp đặt thiếu bình đẳng thì mặt trái của linh hoạt là tùy tiện, mặt trái của dân chủ là tâm lý hòa cả làng, bệnh coi thường phép nước (Phép vua thua lệ làng - tục ngữ). Biểu hiện tiêu biểu của bệnh tùy tiện là tật co giãn trong khái niệm giờ giấc (giờ cao su), của bệnh coi thường phép nước là sự thiếu tôn trọng pháp luật, rõ nhất là trong giao thông... Nguyên tắc sống trọng tình cảm làm cho bệnh tùy tiện và coi thường phép nước càng trở nên trầm trọng hơn: Đưa nhau đến trước cửa quan, Bên ngoài là lý, bên trong là tình (ca dao)... Nó dẫn đến tệ "đi cửa sau" trong giải quyết công việc (một khi tình cảm đã thông thì mọi việc đều có thể "linh động" xong hết): Nhất thân, nhì quen, tam thần, tứ thế (tục ngữ mới). Trọng tình và linh hoạt làm cho tính tổ chức của người nông nghiệp kém hơn hẳn so với cư dân gốc du mục.

2.3.5. Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận và mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó;trong khi đó tinh thần trọng võ, lối sống theo nguyên tắc của văn hóa trọng động dẫn đến lối ứng xử độc tôn trong tiếp nhận và cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó (ưa giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực và khi giải quyết luôn có tham vọng buộc đối phương khuất phục hoàn toàn).

Các quốc gia có văn hóa trọng động thường duy trì một đường lối cai trị hà khắc, trong tôn giáo thì độc tôn và trong quan hệ với các quốc gia lân bang thì thường giải quyết mâu thuẫn bằng chiến tranh. Lịch sử nhân loại cho thấy rằng tất cả những cuộc chiến tranh xâm lược đều do những dân tộc thuộc loại hình văn hóa trọng động (hoặc động hơn) gây ra cho những dân tộc thuộc loại hình văn hóa trọng tĩnh (hoặc tĩnh hơn).

Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người nông nghiệp Việt Nam luôn mềm dẻo. Ở Việt Nam không những không bao giờ xảy ra chiến tranh tôn giáo mà ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Kitô giáo, Hồi giáo) đều được tiếp nhận dễ dàng. Sở dĩ như vậy là vì tính dung hợp là sản phẩm của lối tư duy tổng hợp, còn tính mềm dẻo là sản phẩm của lối sống linh hoạt và lối tư duy biện chứng; cả hai đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của lối sống thiên về tình cảm đã nói đến ở trên.

2.3.6. Các đặc trưng vừa phân tích của hai loại hình văn hóa trọng tĩnh và trọng động có thể được trình bày trong bảng 2.1.

TIÊU CHÍ

VH TRỌNG TĨNH

(gốc nông nghiệp)

VH TRỌNG ĐỘNG

(gốc du mục)

Đặc trưng gốc

Địa hình

Đồng bằng (ẩm, thấp)

Đồng cỏ (khô, cao)

Nghề chính

Trồng trọt

Chăn nuôi

Cách sống

Định cư

Du cư

Ứng xử với
môi trường tự nhiên

Tôn trọng, sống hòa hợp với thiên nhiên

Coi thường, tham vọng
chế ngự thiên nhiên

Lối nhận thức,
tư duy

Thiên về tổng hợp và biện chứng (trọng quan hệ); chủ quan, cảm tính và kinh nghiệm

Thiên về phân tích và siêu hình (trọng yếu tố); khách quan, lý tính và thực nghiệm

Tổ chức

cộng đồng

Nguyên tắc
tổ chức CĐ

Trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ

Trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam

Cách thức
tổ chức CĐ

Linh hoạt và dân chủ,
trọng cộng đồng

Nguyên tắc và quân chủ,
trọng cá nhân

Ứng xử với
môi trường xã hội

Dung hợp trong tiếp nhận; mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó

Độc tôn trong tiếp nhận; cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó

Bảng 2.1: So sánh các đặc trưng của hai loại hình văn hóa

Đây là hai loại hình văn hóa cơ bản có tính cách bao trùm. Mọi nền văn hóa trên thế giới đều không thoát ra ngoài hai loại hình văn hóa này. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu chúng một cách máy móc. Trong việc hình thành các loại hình văn hóa thì các điều kiện tự nhiên giữ vai trò chi phối chủ đạo, còn ở những biểu hiện cụ thể của chúng trong thực tế thì cả các điều kiện tự nhiên và xã hội đều đóng vai trò quan trọng khiến cho hai loại hình này mang tính đan cài rất đa dạng. Sự đa dạng này có thể quy về ba quy luật.

2.3.6.1. Thứ nhất, trong thời gian, các đặc trưng của hai loại hình văn hóa được đa dạng hóa bởi quy luật phát triển hình sin mang tính chu kỳ. Chu kỳ này thường có các bước phát triển không đồng đều. Chính sự không đồng đều ấy là cơ sở cho phép xác định loại hình cho từng nền văn hóa.

Thật vậy, về kinh tế, nhân loại nhìn chung phát triển qua các hình thái: hái lượm và săn bắt, trồng trọt và chăn nuôi, công nghiệp và thương nghiệp, văn minh trí tuệ (tin học)... Sơ đồ tiến hóa chung là như thế, nhưng việc một nền văn hóa trải qua những giai đoạn nào, giai đoạn ấy diễn ra chớp nhoáng hay kéo dài thì còn tùy thuộc vào các điều kiện tự nhiên và xã hội cụ thể.

Điều kiện tự nhiên miền Tây Bắc của thế giới (phương Tây) thuận lợi hơn cho việc chăn nuôi, vì vậy chăn nuôi du mục ở đây phát triển, còn nông nghiệp trồng trọt giữ một vai trò rất nhỏ bé; nền kinh tế này sớm chuyển sang thương mại và công nghiệp - một sự chuyển biến được hỗ trợ bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật - sản phẩm của tư duy phân tích (điều kiện xã hội). Mục súc và công thương nghiệp là hai giai đoạn phát triển chủ yếu của kinh tế phương Tây. Do điều kiện xã hội, không phải tất cả các cộng đồng du mục điều phát triển thành đô thị và công nghiệp. Du mục muốn chuyển sang thương nghiệp thì hàng hóa phải dồi dào. Thương nghiệp muốn chuyển thành đô thị thì phải sống định cư tại những vùng giao thông thuận tiện với số dân tăng đến một mức nào đó. Muốn hình thành công nghiệp thì phải có khoa học kỹ thuật phát triển. Người Mông Cổ không hội đủ những điều kiện đó nên đến nay vẫn còn du mục; người Digan thì đã thôi du mục và sống phân tán thành từng nhóm nhỏ.

Trong khi đó, điều kiện tự nhiên chủ yếu của miền Đông Nam (phương Đông) là đồng bằng sông nước và núi non, thuận lợi hơn cho việc trồng trọt. Chính vì vậy mà, "trên cơ sở kinh tế hái lượm phát triển ở vùng rừng nhiệt đới, các bộ lạc Hòa Bình đã thực hiện một bước nhảy có ý nghĩa lớn lao...: phát minh nông nghiệp" [Phan Huy Lê...1991: 20]. Nông nghiệp trồng trọt ở đây phát triển mạnh trong một thời gian dài, gần đây mới bắt đầu công nghiệp hóa, nhưng công nghiệp thuần túy rồi sẽ qua nhanh nhường chỗ cho văn minh trí tuệ... Biểu đồ so sánh sự phát triển kinh tế Đông Tây (hình 2.7) cho thấy rõ quy luật hình sin này với dự đoán tất yếu rằng thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của phương Đông (châu Á-Thái Bình Dương).

Image 

Cần phân biệt các loại hình văn hóa (gốc nông nghiệp và gốc du mục) nói đến ở đây như những phạm trù khoa học với nội hàm là chùm các đặc trưng đã xác định với các khái niệm "văn hóa nông nghiệp", "văn hóa du mục" trong quan hệ với "văn hóa công nghiệp", "văn hóa hậu công nghiệp"... như sản phẩm của sự phân loại các lối sống theo cơ sở kinh tế; "văn hóa nông thôn" - "văn hóa đô thị" như sản phẩm của sự phân loại các lối sống theo khu vực cư trú.Học thuyết các hình thái kinh tế - xã hội của K. Marx với các giai đoạn công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản... là sự phân loại các giai đoạn văn hóa theo tiến trình lịch sử.

Về tổ chức xã hội, các nền văn hóa đều đi qua các hình thức: dân chủ1 (sơ khai) ® quân chủ ® dân chủ2... Hình thức dân chủ sơ khai phù hợp với tổ chức xã hội nông nghiệp nên ở các nền văn hóa nông nghiệp, giai đoạn dân chủ này tồn tại khá dài, nó để lại dấu ấn rõ rệt ngay cả khi đã bước vào quân chủ phong kiến (ở Việt Nam, chỉ đến triều Lê nó mới phai nhạt).

Ngược lại, ở các nền văn hóa trọng động phương Tây thì giai đoạn dân chủ sơ khai đã chết yểu nhường chỗ cho nền quân chủ bộ lạc, rồi quân chủ phong kiến kéo dài tới khi có nền dân chủ tư sản thay thế. Ngay cả cái thể chế gọi là cộng hòa của Hy Lạp - La Mã cũng đã mang đầy sự bất bình đẳng rồi: Trong sách République, Platon phân biệt ba đẳng cấp: lớp quý tộc thống trị, lớp võ sĩ và lớp bị trị; Aristote cho rằng nô bộc là hạng người trời sinh ra để làm công cụ cho lớp thống trị, cũng như phụ nữ là để sản xuất và nuôi con [Nguyễn Phút Tấn 1967: 74,79].

Về tôn giáo, phương Tây từ tín ngưỡng đa thần sơ khai nhanh chóng chuyển sang nhất thần giáo và tôn giáo độc tôn, còn ở các nền văn hóa gốc nông nghiệp trọng tĩnh thì tín ngưỡng đa thần được kế tục bằng tình trạng đa tôn giáo.

2.3.6.2. Trong không gian, hai loại hình văn hóa được đa dạng hóa bởi quy luật phát triển đan cài do giao lưu văn hóa, do sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên và xã hội trong nội bộ mỗi vùng, mỗi nền văn hóa. Do vậy mà không có nền văn hóa nào là tĩnh hoàn toàn hoặc động hoàn toàn, nông nghiệp hoàn toàn hoặc du mục hoàn toàn. Tự thân các thuật ngữ "trọng tĩnh" và "trọng động", "gốc nông nghiệp" và "gốc du mục" mà chúng tôi dùng đã nói lên rất rõ điều đó.

Theo quy luật này thì ta không chỉ thấy văn hóa phương Tây thiên về tính động, phương Đông thiên về tính tĩnh mà còn có thể thấy rõ rằng trong phương Đông trọng tĩnh thì văn hóa Trung Hoa lại thiên về tính động (xem ở dưới, §3.4), còn văn hóa Việt Nam thiên về tính tĩnh (rất tĩnh = nông nghiệp điển hình). Ngay trong nội bộ Trung Hoa cũng không khó khăn gì có thể phân biệt khu vực phía Bắc thiên về tính động (phát triển chăn nuôi, thương nghiệp và đô thị...); còn khu vực phía Nam thiên về nông nghiệp tính tĩnh.

Căn cứ vào những đặc trưng đã nêu, ta luôn có thể nhận diện và xác định mức độ trọng tĩnh (nông nghiệp) hay trọng động (du mục) của từng nền văn hóa. Theo đó có thể thấy sự phân chia Đông-Tây truyền thống (xem §2.2.2) chưa phải là hợp lý, bởi lẽ bên cạnh hai vùng văn hóa gốc nông nghiệp và gốc du mục khá điển hình (cực Tây-Bắc và cực Đông-Nam), có một vùng đệm khá lớn bao gồm từ châu Phi qua Ai Cập lên Đông Xibiri sang tới Ấn Độ, Mông Cổ, Bắc Trung Hoa - vùng này mang những đặc trưng của cả hai loại hình trên nhiều phương diện[3].

Mỗi giai đoạn phát triển của văn hóa (mỗi loại hình văn minh) cũng có thể được xem xét trên phương diện mức độ trọng tĩnh hoặc trọng động. Chẳng hạn, công nghiệp và đô thị là trọng động, đối lập với nông nghiệp và nông thôn trọng tĩnh.

2.3.6.3. Quan hệ giữa hai loại hình văn hóa về cơ bản tuân theo một quy luật chung là chiến tranh thường đi từ vùng du mục hơn đến vùng nông nghiệp hơn, ngược lại văn hóa lại thường đi từ vùng nông nghiệp hơn đến vùng du mục hơn.

Xét trên đại thể có thể nói rằng chiến tranh thường đi từ Tây-Bắc xuống Đông-Nam: Người Aryens xâm lăng Ấn Độ và tổ tiên người Trung Hoa chiếm lĩnh vùng sông Hoàng Hà đều từ miền Tây Bắc; người Trung Hoa từ đời Tần - Hán thì bành trướng xuống vùng phía Nam sông Dương Tử; người Mông Cổ, Mãn Thanh thì xâm lăng Trung Hoa; người Bắc Âu (Noócmăngđi, Giécmanh) xâm lăng Trung và Nam Âu (vùng Địa Trung Hải); người vùng Địa Trung Hải (La Mã) thì xâm lăng Ai Cập và Ba Tư... Còn văn hóa thì thường đi từ Đông Nam lên Tây Bắc; Ở phía Tây thì từ Ai Cập và Lưỡng Hà lên Địa Trung Hải, từ Địa Trung Hải lên vùng Bắc Âu; ở phía Đông thì từ vùng phía Nam sông Dương Tử lên vùng lưu vực sông Hoàng Hà, từ phía Đông sông Hoàng Hà sang phía Tây sông Hoàng Hà, từ lưu vực sông Hoàng Hà lên vùng Mông Cổ...

Dưới đây, khái niệm về hai loại hình văn hóa sẽ được vận dụng để tìm hiểu văn hóa Việt Nam trong sự so sánh với phương Tây và khu vực. Ngoài ra, trên cơ sở vận dụng nguyên lý âm dương (xem §5.1), chúng tôi cũng sẽ còn trở lại phân tích thêm về hai loại hình văn hóa này.

 


 

[1] Thuật ngữ của Hà Văn Tấn [1981]. Trần Quốc Vượng [1991] dịch là giao thoa; Sơn Nam [1992] dịch là thụ ứng.

2 Chính là xuất phát từ cái nhìn Tây phương đó mới có các khái niệm cận Đông để chỉ vùng Ai Cập - Palestin; Trung Đông để chỉ vùng Iran-Afganistan; Viễn Đông để chỉ vùng Đông Xibêri, Triều Tiên, Nhật Bản, Đông Trung Quốc, Đông Nam Á (ss. Viện Viễn Đông Bắc cổ do người Pháp lập ra ở Hà Nội). Như vậy, "gần", "giữa" và "xa" đây đều là cách nhìn lấy châu Âu làm gốc, các khái niệm này không thích hợp với các dân tộc ngoài châu Âu.

[2] Giải thích sự khác biệt giữa Hy Lạp và Trung Hoa, Phùng Hữu Lan [1968: 41-43] đưa ra đối lập "xứ ven biển" và "xứ đại lục": vì ven biển nên buôn bán giỏi, và vì ở lục địa nên làm nông nghiệp. Cách giải thích này không đủ sức thuyết phục, vì không chỉ Hy Lạp, mà cả người phương Tây trong lục địa cũng đều buôn bán giỏi. Trung Hoa có cả lục địa lẫn biển, Việt Nam thì ở ven biển, vậy mà trong khi tài buôn bán của người Hoa đã nổi tiếng từ lâu thì người Việt Nam truyền thống lại ghét nghề buôn thực sự. Sở dĩ như vậy là vì từ châu Âu qua Trung Hoa tới Đông Nam Á (từ Tây-Bắc tới Đông-Nam), chất trọng động ("du mục") giảm dần và chất trọng tĩnh ("nông nghiệp") tăng dần. Nền văn hóa Trung Hoa ở giữa hai cực ấy nên ít nhiều mang tính nước đôi.

4 GS Nguyễn Đình Chú [1995] gọi là lối tư duy cầu tính (global, sphèrique): hỗn hợp giữa trực giác và lý tính, vô thức và hữu thức, tiềm thức và ý thức...

5 V.V. Nalimonhận xét một cách dí dỏm: "Tuyệt đại đa số mọi người trong xã hội (mà chúng ta đang sống) tin vào vòng hào quang không thể sai lầm bao quanh khoa học. Tin vào tính khách quan vô điều kiện của nó. Họ tin vào khoa học như ngày xưa người ta tin rằng tôn giáo không thể sai lầm và ma thuật là vạn năng". Ông đặt câu hỏi: "Bản thân khoa học liệu có khoa học hay không?" [Nalimo1991].

6 Quan niệm cho rằng mẫu hệ "sơ khai" hơn và "có trước" phụ hệ đến nay đã không còn đúng nữa [Trần Quốc Vượng 1995]: Nền văn minh Chàm không thể nói là của một dân tộc "sơ khai". Cùng ở Tây Nguyên, nhưng trong khi các dân tộc Êđê và Giarai theo mẫu hệ thì Bana và Xơđăng lại theo phụ hệ - không ai có thể nói rằng nhóm nào "sơ khai" hơn nhóm nào!

7 Chế độ quân chủ (monarchie) theo Aristote là chính thể do một người cai quản. Sau này người ta mới nêu ra thành ba nguyên tắc: 1) Không chia xẻ (toàn bộ quyền lực nằm trong tay một người); 2) Trọng trưởng; 3) Trọng nam.

8 Dante Alighieri (1265-1321), tư tưởng gia vĩ đại người Ý, người mở đường cho thời đại Phục hưng, đã viết trong cuốn Bàn về chế độ quân chủ (De Monarchia) rằng "cuộc chinh phục thế giới Âu-Tây của dân La Mã gần như một cuộc đấu gươm, hễ ai thắng thì có toàn quyền toàn lợi" [Nguyễn Phút Tấn 1967: 138].

[3] Bởi vậy, nếu chia thành 3 vùng thì sẽ chính xác hơn; nhưng đây đã là phạm vi của khoa học luận: phân loại chia đôi thì khái quát hơn nhưng kém chính xác, trong khi chia ba, chia năm thì chính xác hơn nhưng kém khái quát. Điều đó đúng cho mọi sự phân loại: tốt-xấu; hiền-dữ; nam-nữ...

 

Cùng chủ đề