Hán Việt không được dùng để nói, không hề thành ngôn ngữ vì nó không phải là ngôn ngữ của dân Lạc Việt (đó là bằng chứng dân nầy cứ còn có mặt mãi mãi trên lãnh thổ của họ) với lại vì nó quá khó, các nhà đại trí thức cũng không biết cho hết các danh từ Hán Việt. Trong Việt sử tiêu án, Ngô Thời Sĩ, một bậc danh nho của ta mà còn phải thú nhận rằng không biết cây Am la là cây gì. Nhưng nếu nói cây Muỗm hoặc cây Xoài thì toàn thể dân Lạc Việt tức dân Việt Nam đều hiểu ngay tức khắc.
Hàng vạn tiếng Hán Việt đã thành hình, đủ nhiều để làm một ngôn ngữ, nhưng không bao giờ thành ngôn ngữ cả, vì không ai mà nói chuyện với nhau bằng loại tiếng đó, các quan đại thần, các nhà nho nói chuyện với nhau cũng nói bằng tiếng Việt, và chắc chắn là trong Hội nghị Diên Hồng chẳng hạn, người ta nói với nhau bằng tiếng Việt.
Một yếu nhân Việt Nam nói rằng TIẾNG VIỆT do tiếng Quảng Đông mà ra. Đó là sai lầm cùng loại với sai lầm của sử gia Nguyễn Phương nhưng có thêm một chi tiết cố ý muốn xác thực hơn, là định rõ nguồn gốc tiếng ta là phương ngữ Quảng Đông.
Mặc dầu có thêm chi tiết ấy, sự sai lầm vẫn không giảm phần nào.
Đã bảo không bao giờ có tiếng Quảng Đông thì làm thế nào mà tiếng Việt do tiếng Quảng Đông mà ra?
Xin nhắc rằng dân của nước Tây Âu xưa là dân Thái. Dân đó bị đồng hóa thành người Tàu Quảng Đông. Và họ nói tiếng Tàu sai giọng chút ít. Không hề có tiếng Quảng Đông.
Nếu nói có tiếng Tây Âu, tiếng Thái, thì được, nhưng nói có tiếng Quảng Đông thì sai.
Còn một ngộ nhận nữa, và đây là ngộ nhận của toàn thể người Việt, chớ không phải của riêng ai, nên ta cần xét lại kỹ hơn nhiều lắm:
Người ta bảo rằng tiếng Hán Việt do tiếng Quảng Đông gây ra. Ở đây lại còn xác thực hơn trên kia nữa là Hán Việt chớ không phải Việt ngữ.
Họ nói thế là vì họ thấy quả, để chỉ nước, Quảng Đông nói Xủi, Hán Việt nói Thủy. Để chỉ con bò, Quảng Đông nói Ngầu, Hán Việt nói Ngưu.
Nhưng khi ta tìm hiểu về thời Tần, Hán thì sự sai lầm lộ rõ ra liền. Xủi hay Ngầu gì cũng chỉ là Quan Thoại đọc sai. Nhưng sở dĩ ta sai rất gần lối sai của Quảng Đông là vì Quảng Đông là người Tây Âu, tức Thái, tức Cửu Lê, bị Tàu đồng hóa. Họ đồng chủng với ta và sống giáp ranh thì hai thứ dân ấy đọc Quan Thoại phải sai gần như nhau là một chuyện dĩ nhiên, chớ không phải là Hán Việt do Quảng Đông mà ra.
Nhưng những người ngộ nhận như trên lại có một quan niệm sử sai lầm. Họ tưởng Quảng Đông là Tàu mà là Tàu đã khai hóa ta.
Ở một chương trước, ta đã thấy rằng Tây Âu bị chinh phục trước ta có một trăm năm. Vào năm Mã Viện đến đặt nền trực trị tại Cổ Việt Nam thì dân Tây Âu đang bị đồng hóa, học chưa thuộc tiếng Tàu, thì làm thế nào đủ khả năng đi khai hóa ta?
Chúng tôi sẽ trình ra một bản đối chiếu trong đó chỉ có ba thứ tiếng: Hán Việt, Quảng Đông và Quan Thoại, thì ta thấy ngay là Hán Việt giống Quan Thoại hơn là giống Quảng Đông.
Cuộc suy luận trên kia, có thể còn hồ nghi, nhưng bản đối chiếu thì không thể cãi lại được vì nó là chứng tích cụ thể và rõ ràng.
Nhưng quả có lối một trăm danh từ Quảng Đông và Thuần Việt hoặc Hán Việt giống hệt nhau, nhưng đó không phải là tiếng Tàu, mà là tiếng Mã Lai mà cả hai nhóm Mã Lai Tây Âu, tức Thái, và Lạc Việt đều giữ được nhờ tinh thần đề kháng. Viết chữ thì họ viết y hệt như Tàu, nhưng đọc thì họ lại đọc y hệt như Mã Lai.
Thí dụ điển hình nhứt là danh từ Wàl của Quảng Đông và Vân của Hán Việt. Ai cũng ngỡ đó là tiếng Tàu. Nhưng không phải.
Tiếng Tàu, Mây họ nói là Diển, mà Diển không là sao mà biến thành Wàl được cả.
Đó là tiếng Mã Lai Awan có nghĩa là Mây, mà cả Tây Âu lẫn Lạc Việt vẫn cố bám níu, mặc dầu họ viết chữ y hệt như Tàu.
Họ bám níu vào hàng vạn danh từ như vậy, nhưng Quảng Đông bị trực trị và bị đồng hóa mạnh, nên đành phải bỏ rơi gần hết, chỉ còn giữ được có lối 100 danh từ, còn Việt Nam không có chịu cái cảnh đó nên giữ được gần hết danh từ Mã Lai.
Awan là danh từ của Mã Lai đợt II, còn Mây là danh từ của Mã Lai đợt I. Ta dùng cả hai vì Việt Nam là Mã Lai hỗn hợp, nhưng trong trường hợp Mây, ta dùng tiếng Mây để làm quốc ngữ và tiếng Awan để đọc cái chữ Diển của Tàu, khác với các trường hợp khác, thí dụ trường hợp Chơn và Cẳng. Chơn, danh từ Mã Lai đợt I, Cẳng, danh từ Mã Lai đợt II, đều được ta dùng làm quốc ngữ, còn Túc thì ta đọc theo Tàu với sự sai giọng chút ít.
Nhưng mà chỉ có Hán Việt thì mới gần giống Tàu Quảng Đông chớ thuần Việt thì khác Quảng Đông như đen với trắng. Chỉ có những danh từ cổ Tây Âu mà Quảng Đông còn giữ được, mới giống thuần Việt mà thôi, chớ Quảng Đông Tàu, tức Quảng Đông ngày nay, thì tuyệt nhiên không giông.
Có thể nói cổ ngữ Tây Âu và Việt Nam kim ngữ giống nhau vài ngàn tiếng, chỉ có thế thôi, hoặc nói một cách khác, Cổ ngữ Tây Âu và kim ngữ Việt Nam là một.
Sự sống sót của mấy mươi danh từ Tây Âu cổ đó là sự tiêu cực đề kháng một cách tuyệt vọng của dòng Mã Lai Bách Việt, họ gồm hai nhánh lớn nhứt là nhánh Âu tức Thái, như đã chứng minh, và nhánh Lạc.
Thí dụ: Hai, Trung Hoa chánh gốc nói Ơl, đọc như Ơn miền Bắc Việt, nhưng vì bị đồng hóa, dân Tây Âu đề kháng lại, và tiếp tục nói Dzi. Đó là tiếng Mã Lai gốc Tây Tạng mà tất cả các nhóm Mã Lai từ xưa đến nay đều dùng. Riêng Việt Nam thì dùng của hai tiếng Mã Lai là Hai và Nhị. Và Nhị không bao giờ là tiếng Hán Việt như ai cũng ngỡ. Ta cũng đề kháng tiêu cực y như Tây Âu khi ta học tiếng Tàu, và cả hai, Giao Chỉ và Tây Âu, đều không nói Ơn, Tây Âu chỉ dùng có một tiếng Mã Lai là Dzi còn Lạc Việt thì dùng cả hai là Hai và Nhị.
Việt Nam: Hai, Nhị
Cổ ngữ Tây Âu: Dzi
Cổ ngữ Ba Thục: Nhi
Bà Na: Ngôi Hai
Cao Miên: Pi
Khả Lá Vàng: Bơ
Miến Điện: Ngi
Tây Tạng: Ngi
Trung Hoa không bao giờ có Nhi, Pi mà Ơn của họ cũng không thể biến hóa thành Nhi, Pi được.
(Người Mân Việt, Tây Âu và Ba Thục, ngày nay thành Tàu hẳn rồi, nhưng vẫn còn giữ Dzi, Nhi, Ni tức Nó).
Thí dụ: Khi Trung Hoa chánh gốc viết chữ và đọc là Chiều là cái Cổ thì các nhóm Mã Lai Bách Việt lại không chịu đọc theo, sai chút ít như các danh từ khác, mà cứ đọc chữ ấy bằng ngôn ngữ của họ và ngôn ngữ của họ chỉ có một, nghe hơi khác, nhưng vẫn cứ đồng gốc Mã Lai.
Tàu Quan Thoại: Chiều
Mân Việt: Kẹ
Cổ Tây Âu (Quảng Đông): Kẻng
Thái ngày nay: Kủ
Việt Nam: Cổ
Cao Miên và các nhóm Thượng: Cổ, Co, Ko.
Tuy nhiên, người Tây Âu, người Mân Việt, người Ba Thục chỉ giữ được có non trăm tiếng vì họ đã thành Tàu Quảng Đông, Tàu Phúc Kiến, Tàu Tứ Xuyên tức Hakka, trong khi đó thì ta giữ được cả vạn danh từ.
Thế thì vài tiếng Hán Việt hoặc thuần Việt có giống Quảng Đông, không hề có nghĩa là tiếng Việt do tiếng Quảng Đông mà ra.
Sử gia Nguyễn Phương hỏi khó: “Dựa vào đâu để chứng minh rằng tiếng Việt ngày nay là tiếng Việt của người Lạc Việt?”.
Ông hỏi rất nghiệt, vì ông đinh ninh rằng không ai trả lời được. Nếu ai cắt cớ hỏi dựa vào đâu để chứng minh rằng tiếng Tàu ngày nay là tiếng Tàu đời nhà Hạ thì chắc người Trung Hoa phải đầu hàng.
Nhưng rủi cho sử gia là có những người chịu khó học cổ ngữ Tàu và cổ ngữ Việt, trả lời được.
Về ngoại ngữ Quan Thoại thì đã có sách Tây rồi, còn về cổ ngữ Việt, xin lấy thí dụ sau đây. Ta có câu ca dao:
Tua Rua lặn, chết cá chết tôm.
Danh từ Tua Rua hiện ra trong nhiều câu ca dao tối cổ của ta, ta không hiểu ngỡ đó là một danh từ riêng chỉ một vì sao, nhưng thật ra thì không phải. Đó là hai tiếng riêng ra. Tua là danh từ tối cổ của bọn Mã Lai lưỡi rìu chữ nhựt.
Rua kia, mới là danh từ riêng chỉ con sao Mang mà Tàu gọi là sao Mão.
Theo Việt Nam thì câu ấy như thế đó.
Còn theo Mường thì:
Sao Mang lặn, chêt ka, chêt tum,
Theo Khả Lá Vàng thì:
Tua Rua lăn kêt aka, kêt tum
Có nhiều cái khoen nối kết cho thấy rằng tiếng Việt ngày nay với tiếng Lạc Việt cổ sơ là một, giáo sư ạ!
Sử Tàu không có ghi chép gì về chuyện họ dạy ta học tiếng, nhưng có ghi chép về những ông thái thú đầu như Tích Quang, Nhâm Diên, dạy ta học lễ.
Nhưng không ai thử đặt ra câu hỏi nầy bao giờ: Họ dùng ngôn ngữ nào để làm thừa ngữ (lannge véhicule)? Một nước thống trị dạy dân bị trị, hẳn không dùng ngôn ngữ của dân bị trị để làm thừa ngữ bao giờ, trừ trường hợp độc nhứt Mông Cổ và Mãn Châu vì họ là rợ, nên họ học và nói tiếng Tàu, mà đó là vì tình thế kém cỏi của họ bắt buộc như vậy. Tình thế của Tàu trị ta thì khác.
Họ không dùng Việt ngữ vì họ không muốn dùng, mà cũng vì không thể dùng, bởi họ đâu có buồn học làm gì. Hiện nay ở Chợ Lớn có đến 60 phần trăm người Việt gốc Hoa, không biết tiếng Việt thì vào thời Mã Viện hẳn không có chú nào biết hết.
Trong trường hợp nầy thì tiên học văn hậu học lễ vậy. Nhưng ta học với ai? Quảng Đông không có cán bộ vì cái lẽ dễ hiểu rằng họ chỉ bị trị trước ta có một trăm năm, họ học chưa xong, sức mấy mà họ làm thầy ta được.
Nhưng nếu Quảng Đông đã giỏi rồi, ta cũng không học với Quảng Đông vì nếu Tàu cần gởi cán bộ họ không ngại tốn tiền xe đâu, bởi cán bộ vùng nào, tới xứ Giao Chỉ cũng đi bằng chơn, không tốn tiền xe pháo gì hết thì họ phải gởi người của kinh đô của họ, tức của thành Lạc Dương, bởi Quảng Đông đã nói tiếng Tàu sai bét rồi như đã nói.
Nhứt định là ta học văn, học ngôn với cán bộ trung ương, hay ít ra cũng với những cán bộ quê ở các vùng khác, nhưng được trung ương luyện giọng, việc luyện giọng theo chương trình của Tần Thỉ Hoàng. Và vì vậy mà ta phải học tiếng Tàu, nhưng giọng Quan Thoại, Quan Thoại xin nhắc lại là một giọng đọc, chớ không phải là một ngôn ngữ, và nó đã có từ năm ngàn năm chớ không phải mới có năm 1911.
Bản đối chiếu nhỏ dưới đây cho thấy thật rõ là Hán Việt do giọng Quan Thoại mà ra, chớ không phải giọng Quảng Đông.
Hán Việt |
Quảng Đông |
Quan Thoại |
Thú |
Xâu |
Xú |
Chinh |
Chil |
Chíl |
Khách |
Hẹc |
Khớ |
Huy (Chỉ huy) |
Fấy |
Húy |
Chủ |
Chuỷa |
Chủa |
Khảo |
Hảo |
Khào |
Thủ |
Thầu |
Thủ |
Quý (Báu) |
Quây |
Quý |
Đùi |
Thủi |
Thùi |
Hà (Sông) |
Hổi |
Hài |
Giá |
Ca |
Chá |
Chi (Phí) |
Chía |
Chi |
Bỉnh (Bành) |
Bẻng |
Bing |
Thế là rõ. Ta đã học với thầy trung ương Tàu, chớ không phải học với Quảng Đông. Và rõ hơn nữa là không có vấn đề mỹ hóa gì hết ráo. Quy của Quan Thoại vẫn được ta đọc là Quy từ cổ chí kim. Còn Hài bị đổi thành Hà, không hề vì Hà đẹp hơn Hài bao giờ, mà vì tại ta đọc bậy, sau khi Tàu mất chủ quyền.
Trở lại với lời khẳng định của sử gia Nguyễn Phương, xin đưa ra một bản đối chiếu vài mươi danh từ Việt và Hoa, những danh từ nầy thì chắc chắn là bà Trưng Trắc đã có rồi, bởi nếu không, ta chẳng hiểu bà làm sao mà sanh hoạt được cũng như kêu gọi đồng bào của bà đứng lên chống xâm lăng.
Tiếng Việt Nam thuần túy |
Tiếng Hán Việt |
Giọng Mân Việt (Phúc Kiến) |
Giọng Việt Nam Hải Quảng Đông |
Giọng Quan Thoại |
Trời |
Thiên |
Thi-i |
Thil |
Thél |
Đất |
Địa |
Tuô ôi |
Tẩy |
Ti-i |
Người |
Nhơn |
Náng |
Dzành |
Dỉl |
Ăn |
Thực |
Lim |
Xực |
Txửa |
Uống |
Ẩm |
Lim |
Dẩm |
Dil |
Nhà |
Ốc |
Xù |
Úc |
Úa |
Cửa |
Môn |
Mửn |
Mùi |
Mổl |
Ao (Chuôm) |
Từ (Đường) |
Tì (Tứng) |
Xi (Thòon) |
Sửu (Thản) |
Rào, Dậu |
Li |
Lỳ |
Lỳ |
Lỷ |
Ghe |
Thuyền |
Tsùng |
Xùi |
Tsoal, tsoải |
Sông |
Hà |
Hở |
Hỏi |
Hài |
Ruộng |
Điền |
Txil |
Thil |
Thẹl |
Mưa |
Vũ |
Hó |
Yũ |
Dia |
Nắng |
(Xem chú thích sau biểu Đ.C) |
|
|
|
Gió |
Phong |
Hon |
Fung |
Fứng |
Mây |
Vân |
Cuổm |
Wàl |
Diển |
Núi |
San |
Xoa |
Xál |
Xál |
Nước |
Thủy |
Chúi |
Xủi |
Xùi |
Lửa |
Hỏa |
Huổi |
Phổ |
Khỏ |
Đá |
Thạch |
Chiu |
Xẹc |
Xửa |
Cây |
Mộc |
Pát |
Mục |
Mục |
Rừng |
Lâm |
Lím |
Lầm |
Lỉl |
Con chó |
Cẩu |
Cào |
Cẩu |
Cù |
Con heo |
Trư |
Tư |
Chuyá |
Chứa |
Con bò |
Ngưu |
Củ |
Ngầu |
Liểu |
Con ngựa |
Mã |
Bếc |
Mạ |
Mả |
Con mèo |
Miêu |
Ni-eo |
Méo |
Máo |
Con gà |
Kê |
Cu-ê |
Cấy |
Chía |
Con vịt |
Ấp |
À |
Ạp |
Dã |
Con cá |
Ngư |
Hi-ỉ |
Yũ |
Día |
Con chim |
Điểu |
Chéo |
Niêu |
Ni èo |
Một |
Nhứt |
Chi-ít |
Dzách |
Ý-i |
Hai |
Nhị; Lưỡng |
Nò |
Lượng; Dzi |
Léng; ơl |
Ba |
Tam |
Xa |
Xám |
Xái |
Bốn |
Tứ |
Xí |
Xi |
Xứa |
Năm |
Ngũ |
Ngóồ |
Ưng |
Wủ |
Sáu |
Lục |
Lác |
Lục |
Líu |
Bảy |
Thất |
Sic |
Xách |
Tsiá |
Tám |
Bát |
Bội |
Pạt |
Pá |
Chín |
Cửu |
Cáo |
Cẩu |
Chiều |
Mười |
Thập |
Cháp |
Xập |
Xửa |
Chú thích:
1. Ở cái ô tiếng Nắng của ta, không có các danh từ Trung Hoa tương đương vì dân Trung Hoa không có tiếng ấy. Để diễn cái ý niệm Nắng của ta, họ nói là Hong. Thí dụ: “Hôm nay nắng tốt”, họ nói “Hôm nay Hong áo thì tốt”.
Họ có tiếng Hải mà ta biến ra thành Hạn và Hanh nhưng không có nghĩa là Nắng. Hạn là không mưa. Hanh cũng không có nghĩa là Nắng. Về sau họ có tiếng Thử, đúng là Nắng. Nhưng họ đã quen nói Hong, nên tiếp tục không dùng Thử trong lời nói.
Hong của Việt Nam, Quan Thoại nói là Txai, Quảng Đông đọc là Txao, Mân Việt đọc là Xọa, Hán Việt là Sái.
2. Cột tiếng Mân Việt không bảo đảm là thật đúng, không phải vì chúng tôi không cẩn thận mà vì lẽ sau đây: Hiện người Mân Việt sanh sống tại tỉnh Phúc Kiến, tại một số huyện ở tỉnh Quảng Đông, Giang Tây và Triết Giang. Họ gồm đến 7 nhóm (Thất Mân) giọng nói hơi khác nhau chút ít, chẳng hạn có các nhóm Dầu Phếl, Pháo Lết, Tìa Ía, v.v. rất khó biết là giọng nói của vùng nào là thuần Mân, thành thử chúng tôi chỉ ghi vào đây một giọng mà thôi, giọng của thành phố Phúc Châu.
Nhưng nếu có sai, chỉ sai như giọng Nam Việt đối với giọng Bắc Việt chớ không khác hẳn. Vả lại sai đối với cái gì? Làm sao biết giọng nào thuần Mân hơn giọng nào?
Nên nhớ rằng nhà Hán đã vét sạch dân Mân Việt, đày đi Triết Giang, còn đất thì bỏ không. Sau bọn bị đày được trở về, nhưng đã rối loạn hết cả rồi, không còn biết Mân nào chánh gốc Mân nữa.
3. Chúng tôi chủ trương rằng không hề có phương ngữ Trung Hoa, mà chỉ có độc một thứ tiếng Tàu đọc sai chút ít tùy vùng. Nhưng đồng thời chúng tôi cũng cho biết có cuộc đề kháng tiêu cực của các quốc gia “man di” cũ, nhưng rốt cuộc họ chỉ cứu vãn được mỗi địa phương có mấy mươi danh từ và động từ thôi.
Thế nên trong biểu đối chiếu nầy quý vị đừng ngạc nhiên mà thấy ở cột Mân Việt những danh từ và động từ Ăn, Uống, Nhã, Gió, Mưa, Mây, Đá, Cây, Bò, Ngựa, Cá, v.v. của họ không giống Quan Thoại một cách xa gần gì hết.
Cột Việt Nam Hải cũng thế, những danh từ, động từ Gà, Vịt, Hai, Năm của họ cũng không giống gần hay xa gì với Quan Thoại hết.
Đó là những danh từ, động từ cổ Tây Âu, cổ Mân Việt, gốc Mã Lai, như chúng tôi sẽ chứng minh ở các biểu đối chiếu Việt, Mã Lai ngữ.
4. Danh từ Đất của ta, Trung Hoa đọc là Tì-i, có vẻ do Trung Hoa mà ra lắm, nhưng các nhóm cổ Mã Lai đều nói:
Bà Na: |
Tẻ |
Gia Rai: |
Tơ nả |
Mường: |
Tất |
Thái: |
P’tét |
Cao Miên: |
Đây |
Sơ Đăng: |
Tơ nẻ |
Kơ Yong: |
Tơ nả |
Mã Lai: |
Tanản |
Hơn thế không lẽ dân Bách Việt Mã Lai phải đợi biết Trung Hoa mới vay mượn một danh từ để chỉ một món mà dân cổ sơ nào cũng đã có tiếng để chỉ, ngay lúc họ còn ăn lông ở lỗ?
Ta nhận thấy rằng âm Đ của ta do âm T của Hoa và của Mã Lai mà ra thì không thể quyết đoán một chiều mà chọn Trung Hoa, bởi các nhóm Cổ Mã Lai trên đây không hề thấy mặt người Tàu bao giờ, trừ Thái, Cao Miên và Mã Lai.
Xem lại thật kỹ:
Trung Hoa: |
Tì-i |
Việt Nam: |
Đất |
Cao Miên: |
Đây |
Mã Lai: |
Tnả |
Không có bằng chứng gì để lôi kéo Đất vào Tì-i mà hữu lý hơn là vào Tnả. Trái lại trong các nhóm Mã Lai có Đây (Cao Miên) Tất (Mường) P’tét (Thái) Tẻ (Bà Na) có vẻ là Đất hơn Ti-i rất nhiều.
Nếu quý vị lại còn cho rằng sự biến dạng trình bày như trên, không rõ rệt lắm, thì xin nhắc lại rằng các nhà bác học ngôn ngữ đã tìm thấy những cái luật biến dạng từ ngôn ngữ nầy qua ngôn ngữ khác, chẳng hạn như âm H biến thành âm Ph rồi Ph biến thành BC.
Thí dụ dễ thấy nhứt là giữa ngôn ngữ Bà Na, Sơ Đăng và Việt có sự biến âm nầy: tất cả các âm ĐĐ của họ biến thành NN vào âm Ra Đê, rồi biến thành âm N vào âm Việt:
ĐĐỏ (Bà Na) = Nổ (Việt Nam)
ĐĐã (Sơ Đăng) = Nẻ (Việt Nam)
ĐĐẮK (Bà Na, Sơ Đăng) = Nước (Việt Nam)
Mà cả nơi người Mường, được xem là nói tiếng Việt Nam, Nước cũng còn ở dưới hình thức Đak (chỉ còn có một chữ Đ mà thôi).
Ngay trong Việt ngữ ta mà
Trời còn biến thành Giời.
Năm ngày còn biến thành Dăm ngày
Hai mươi năm Hai mươi lăm
Và hai mươi lăm Hăm lăm
phương chi là giữa hai ngôn ngữ của hai dân tộc.
Như vậy kết luận rằng Đất do Đây, Tất, Tnả mà ra, ít gượng gạo hơn là do Ti-i của Trung Hoa mà ra.
5. Qua biểu đối chiếu hạn chế trên đây, ta không thấy tiếng Việt nào do tiếng Tàu trung ương chánh gốc, tức Quan Thoại, hoặc Mân ngữ, hoặc Quảng Đông mà ra cả.
Ta chỉ thấy trong bản liệt kê trên, có một tiếng Việt độc nhứt là hơi giống tiếng Trung Hoa mà thôi, đó là tiếng Mèo. Nhưng MÁO hay MÈO của Trung Hoa đều là tiếng nhại giọng (ONMATOPÉE), mà nhại giọng thì dân tộc nào cũng nhại gần giống nhau thì Mèo của ta, có giống MÈO của Trung Hoa, chẳng qua là sự trùng phùng trong việc nhại những tiếng động thiên nhiên, những tiếng kêu của cầm thú.
Còn một tiếng nữa, đó là tiếng Hai. Sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử tân biên, mặc dầu không chủ trương như sử gia Nguyễn Phương, vẫn ghi rằng HAI là tiếng Trung Hoa. Nhưng có lẽ sử gia họ Phạm đã nghe không rõ giọng trong khi tìm tài liệu, chớ Trung Hoa trung ương (Quan Thoại) hay địa phương, không ai nói HAI cả (Xin xem lại biểu đối chiếu. Vả lại dân Lạc Việt có số 1, số 3 đến số 10, lẽ nào lại không có số 2?).
Cho đến tiếng Nhị mà ai cũng ngỡ là của Trung Hoa cũng không phải là của Trung Hoa, mà đích thị là của Bách Việt. Trung Hoa chỉ có Ớt và Lèng tức Lưỡng, Dzi, Nhị đều là Bách Việt Mã Lai chánh gốc Tây Tạng, Tây Tạng đọc là Gui như đã trình bày.
Những danh từ Việt Nam Hải: Dzi Ạp, những danh từ Mân Việt À, Cuổm, Cu ê, Hi ỉ, Lím không giống tiếng Trung Hoa chánh gốc thật đó, nhưng đó là mấy mươi danh từ hiếm hoi mà Mã Lai, Bách Việt Mân (tức Phúc Kiến) và Mã Lai Bách Việt Tây Âu (tức Quảng Đông) còn giữ được, nhưng nó quá hiếm hoi, chớ không như ngôn ngữ của ta (xin xem chi tiết về những trường hợp vài mươi danh từ Bách Việt Mã Lai còn sót lại ở ngôn ngữ Trung Hoa tại Hoa Nam, từ Hồ Bắc xuống tới Quảng Đông tỉnh lỵ ở những trang sắp tới đây).
Trên đây là những tiếng chỉ những gì thường thấy, đến như những gì ít khi thấy, ta cũng có danh từ thuần Việt của ta. Thí dụ Bão tố. Quan Thoại nói: Tá Fứng, Quảng Đông nói Tài Fúng. Mân Việt nói Toa Hon, Hán Việt nói Đại Phong, nhưng Việt thì nói Bão tố hoặc Gió lớn hoặc Biển động mạnh, hoặc gì gì khác, nhưng không hề mượn của Trung Hoa. Cho đến Pháp cũng vay mượn của Tàu và nói Typhon, nhưng ta thì không.
Chúng tôi cứ nhìn mãi vào bản đối chiếu riêng rất dài của chúng tôi, để thử xem sử gia Nguyễn Phương có tìm được dấu vết cũ nào khác binh vực cho hay không.
Có, chúng tôi có tìm được lối 10 tiếng rất có vẻ Việt cổ nhưng truy ra thì đó là tiếng Tàu. Chẳng hạn tiếng ĐÙI. Quan Thoại, tức Kinh đô Trung Hoa đọc là THÙI, Hán Việt đọc là THÔI. Ai cũng cứ ngỡ ĐÙI là cổ Việt ấy chớ. Cuộc khám phá nho nhỏ nầy làm cho những vị tin theo chủ thuyết Nguyễn Phương mừng lắm. Nhưng xin chớ vội mừng. Quả thật Đùi là tiếng Trung Hoa. Nhưng cổ Việt có một tiếng tương đương. Tiếng ấy thuần Việt. Đó là danh từ Bắp vế.
ĐÙI được dùng song song với BẮP VẾ, tiếng Lạc Việt giàu thêm một danh từ mới, nhưng họ vẫn có sẵn danh từ căn bản ấy rồi.
Chúng tôi lại tìm được vài ba tiếng nữa mà chúng tôi không giải thích được dễ dàng như trên kia, nhưng có vài ba danh từ trong bao nhiêu ngàn danh từ thì làm sao binh vực cho thuyết Nguyễn Phương được? Thí dụ tiếng BẾN (Bến sông) Quan Thoại đọc là Pin. Chúng tôi không tìm được một danh từ thuần Việt có nghĩa tương đương với Bến.
Nhưng như thế, cũng không thể bảo rằng tiếng Việt do tiếng Tàu mà ra, vì cái lẽ là dân Lạc Việt đã giỏi chèo thuyền, đã di cư bằng thuyền biển trên một lộ trình 10 ngàn cây số, đã biết làm ruộng dựa các bờ sông thì lẽ nào lại không có một danh từ chỉ cái BẾN là danh từ sơ đẳng?
Bạn hữu của chúng tôi cho rằng đó là một sự trùng phùng hai dân tộc khác nhau, không hề tiếp xúc nhau, có thể có vài danh từ giống hệt nhau. Nhưng tôi không dám nói như vậy, mặc dầu kiến giải đó rất đúng và thú nhận rằng mấy danh từ thuộc loại BẾN là một bí mật cần được các nhà ngôn ngữ học khám phá ra.
Chúng tôi đã nỗ lực suốt mấy tháng để tìm nguồn gốc kỳ lạ của tiếng BẾN và đã tìm được.
Cái bến, tiếng Mã Lai là Păngka cũng có thể lôi kéo vào Bến, nhưng Bến lại giống Pin của Tàu hơn, nên chúng tôi lương thiện không lôi kéo liều lĩnh. Dân Mã Lai ở Johore nói là Pang thì còn gần hơn là Păngka nữa. Người Cao Miên nói là Kampong, người Thái nói là Pong, tất cả đều có thể lôi kéo vào Bến, nhưng Pin của Quan Thoại vẫn cứ giống Bến hơn là Pang, Pong, Pung.
Ở đây, sự lương thiện rất cần thiết. Thí dụ danh từ Hộp:
Việt Nam: Hộp
Gia Rai: Hip
Chàm: Hop
Mã Lai: Brhop
Ta có thể lôi kéo Hộp vào Brhop được, nhưng chúng tôi cứ cho là Mã Lai vay mượn của Tàu, y như ta, và vay mượn tại Nam Dương chớ không phải hồi còn là Bách Việt Hoa Nam, và tất cả đều vay mượn Hap của Trung Hoa, bởi trong hàng ngàn món đồ bằng đồng pha Đông Sơn không có cái hộp nào cả, mà chỉ có bình có nắp đậy, thì chắc chắn ta chưa biết chế tạo cái hộp trước khi Mã Viện đến.
Thoạt tiên, chúng tôi lập ra cái giả thuyết rằng người Trung Hoa cưỡng bách chúng ta nói tiếng Tàu. Khi ta độc lập rồi, ta bỏ tiếng họ, nói tiếng ta, nhưng quên loại một mớ danh từ. Nhưng rồi chúng tôi thấy rằng giả thuyết của chúng tôi đứng không vững. Nếu có sự cưỡng bách nói trên, thì sau hơn một ngàn năm, không thể còn tiếng Việt được đâu. Họ có bắt ta nói tiếng Tàu phải giống Tàu, nhưng không hề có bắt ta chỉ được phép nói tiếng Tàu.
Kỳ lạ nhứt là khi chúng tôi nhờ người Tàu viết chữ Bến bằng tiếng Tàu, thì luôn luôn họ viết cái chữ mà các nhà nho ta đọc là Tân.
Họ đọc là Pín, nhưng sao trí thức đời xưa của ta lại đọc sai quá xa, đọc là Tân, còn chính dân chúng lại đọc gần đúng là Bến?
Thế nên chúng tôi rất bận bịu với Păngka và Pang của Mã Lai nhiều lắm, và rất khổ mà không nối kết được Pang = Bến.
Nhưng vài thí dụ khác lại làm cho chúng tôi không dám nối kết liều với Mã Lai.
Cái Tủ, Quan Thoại viết và đọc là Tu, dân chúng nhại gần đúng, nói là Tủ. Nhưng các nhà nho lại đọc sai quá xa là Độc.
Thế thì Tân có thể cũng ở trong trường hợp đó và quả dân chúng đã mượn Pín, chỉ tại các nhà nho đọc bậy bạ thôi.
Chúng tôi tạm lập ra ức thuyết nầy là những tiếng Tu, Pín, phạm húy trào đại đầu của ta sau thời đô hộ, chẳng hạn mẹ của Đinh Bộ Lĩnh tên là Bín hay Bính gì đó chăng và em của Đinh Bộ Lĩnh tên là Tu?
Mà xin đừng tưởng rằng các nhà nho đọc theo Quan Thoại xưa, còn dân chúng đọc theo Quan Thoại nay. Không. Quan Thoại xưa đã có biến, nhưng người ta đều biết rõ nó biến ra sao và dân ta theo dõi Tàu bén gót. Khi Quan Thoại biến Vút ra Fô thì ta cũng biến Bụt ra Phật.
Riêng cái danh từ Độc nầy thì bằng chứng lại rất chắc chắn hơn, là dưới trào Hán, mà Mã Viện chinh phục ta, Tàu đọc là Tu thật sự.
Quả thật thế, vào thời ấy họ vừa biết được nước Ấn Độ. Nước ấy tự xưng là Hanh Đu, và họ phiên âm gần đúng là Tsân Tu, chỉ các nhà nho ta là đọc sai là Thân Độc. Nhưng cái sai đó, chỉ mới xảy ra vào thời Đinh Bộ Lĩnh, nếu thuyết của chúng tôi mà đúng, còn trước đó ta vẫn đọc là Hanh Tu, để cho đúng với giọng Tàu vì kẻ thống trị bị bắt buộc như vậy.
(Có một người bạn nói rằng danh từ Bến của ta do danh từ Bạn của Hán Việt mà ra. Như thế thì rất ổn. Nhưng khi tôi yêu cầu nhiều người Trung Hoa viết tên BẾN ra chữ Hán thì luôn luôn họ viết chữ TÂN, không bao giờ có chú nào viết chữ Bạn hết).
Người bạn ấy cũng tiếp tục luận điệu đó và nói Chợ do Thị mà ra. Đành vậy. Nhưng danh từ CHỢ không thể dùng làm tài liệu căn bản được, như đã giải thích rồi. Lúc tiếp xúc với Tàu, ta chưa biết Chợ là gì thì ta phải mượn danh từ ấy của họ. Chỉ có những danh từ gọi là Vietnamese Basic mới có giá trị khảo cứu trong vấn đề nầy. Ta có hay không có những danh từ chỉ những thứ nằm chung quanh ta, trước khi Trung Hoa xâm lăng ta? Những danh từ chỉ những món mà văn hóa Trung Hoa đưa tới không được phép kể vào đây. Và những tiếng sơ đẳng tìm thấy được, có đủ nhiều để thành một ngôn ngữ hay không? Ngôn ngữ gốc của dân tộc là như thế đó, chớ không phải những tiếng vay mượn về sau.
Cũng như bao nhiêu học giả khác, sử gia Nguyễn Phương đã lẫn lộn tiếng Hán Việt và tiếng Việt thuần túy. Hoa là tiếng Hán Việt do tiếng Quan Thoại Wá mà ra. Quả là tiếng Hán Việt do tiếng Quan Thoại Quò mà ra. Nhưng tiếng Việt thuần túy là BÔNG và TRÁI ấy chớ. Mà Bông là do danh từ Mã Lai Bônga mà ra đấy. Người Chàm được các ông Tây cho là gốc Mã Lai chánh hiệu, nhưng thật ra thì họ ít chánh hiệu hơn ta vì danh từ Mã Lai Bôn ga nầy được người Chàm đọc là Bngư thì tức là đọc sai hơn Việt Nam quá nhiều.
Theo thuyết Nguyễn Phương thì ta, tức Tàu thuần chủng vì lai Chàm, nên ngôn ngữ hơi khác Tàu. Nếu quả đúng như vậy sao ta lại không gọi Hoa là Bngư như kẻ lai giống với ta, mà là đọc gần đúng với một kẻ ở rất xa là Mã Lai?
Chỉ có người Việt mê Tàu mới dùng Hán Việt, còn người thường thì họ nói tiếng Việt thuần túy. Họ nói: đâm bông kết trái, thay vì nói đâm hoa kết quả.
Nếu phân biệt minh bạch Hán Việt và thuần Việt thì không còn chủ trương tiếng Việt là tiếng Tàu được nữa, vì người Tàu không có lý do để vay mượn hai danh từ Bông và Trái của “Mọi” như giáo sư Nguyễn Phương đã tưởng.
Chỉ có tiếng Hán Việt mới do tiếng Tàu mà ra, vậy có Việt ngữ thuần túy không? Nhưng tiếng Hán Việt đâu có phải là ngôn ngữ mà dân Việt Nam dùng để nói. Họ nói bằng tiếng Nôm, tức bằng một ngôn ngữ khác, hoàn toàn không phải là ngôn ngữ Trung Hoa biến dạng.
Nhưng chúng tôi dám quả quyết rằng ta mới chỉ sính tiếng Hán Việt về sau đây mà thôi, còn trước thì không.
Trong Việt Nam văn học sử yếu, trang 188, cụ Dương Quảng Hàm cho rằng có “vài tiếng ngoài Bắc dùng mà trong Nam ít dùng hay không biết hẳn, thí dụ hoa, quả, thuyền…”.
Sự thật thì không phải là người trong Nam không biết đâu. Chỉ tại họ không dùng đó thôi. Mà tại sao vậy?
Giải thích được tại sao người miền Nam không nói Hoa, Quả, Thuyền thì ta sẽ chứng minh được rằng hồi xưa cả người miền Bắc cũng không nói Hoa, Quả, Thuyền kể cả trong thời Bắc Việt bị Tàu đô hộ, mà vẫn nói Bông, Trái, Ghe y như miền Nam.
Người miền Nam, theo sử liệu của ta, số là dân Bắc Bố Chính được mộ vào đây, hay bị cưỡng bách vào đây sau năm 1668. Dĩ nhiên là họ ăn nói theo Bắc Bố Chính của cái thời 1668 ấy. Mà Bắc Bố Chính thì không xa, không khác Bắc Việt bao nhiêu vào thời đó vì chính dân nghèo Bắc Việt bị đưa vào khẩn hoang ở Bắc Bố Chính.
Ta có thể hiểu rằng vào thời đó Bắc Bố Chính và miền Bắc cũng đều nói Bông, Trái và Ghe, chớ chưa nói Hoa, Quả và Thuyền, bằng chứng là trong ngôn ngữ miền Nam, lắm danh từ cổ, gốc Bắc rõ rệt, mặc dầu thuở ấy dân của chúa Trịnh không có di cư vào. Thí dụ: Họ nói Chỉ, nhưng lại nói ngón tay trỏ, họ nói hàng rào, nhưng cũng nói rào giậu, họ nói con heo, nhưng họ chế tạo một thứ bánh tên là bánh da lợn, họ nói Cây, nhưng đặt tên một thị trấn nhỏ kia là Bến Gỗ, họ nói khoai mì, khoai báng, nhưng đặt tên một làng quan trọng kia là làng Bến Sắn, họ nói làm mướn, nhưng cũng lại nói làm thuê.
Ta làm sao cắt nghĩa được hiện tượng đó? Chỉ có một lối giải thích là vào năm 1668, người Bắc Bố Chính ăn nói y hệt như Bắc Việt, còn Nam Kỳ thì nói hệt theo Bắc Bố Chính.
Nhưng Bắc Việt thay đổi, mà lưu dân miền Nam không hay biết, cứ tiếp tục nói như vào năm 1668, chớ quả thật chính họ không hề phát minh ra hai danh từ Bông, Trái và Ghe. Ba danh từ đó, cổ Giao Chỉ đã có, và đó là danh từ Mã Lai.
Một nhà học giả miền Nam cho rằng những kẻ càng đi xa, càng giữ gốc (cụ Vương Hồng Sển, trong một bài diễn văn), nhưng cụ Vương không cắt nghĩa được tại sao mà như vậy.
Sự thật thì không phải họ là công dân tốt, quyết tồn cổ, thích bảo vệ dân tộc tính đâu, mà vì họ không hề hay biết gì về những biến đổi xảy ra ở đất tổ.
Chúng tôi đã tìm được dấu vết làm bằng chứng trong quyển Thi văn đời Trần của hai vị giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Nghiêm Toãn. Ta sẽ thấy rằng vào đời Trần, người Bắc Việt nói Bông thay vì Hoa. Ở trang 11, có hai câu ca dao:
Bao giờ đến tháng giêng hai
Trồng bông, trồng đậu, trồng khoai kịp thì.
Hai câu trên đây, sách nào cũng có, nhưng chúng tôi chỉ trích ở sách trên vì hai vị giáo sư ấy rất cẩn thận trong việc trích lục, ta không lo người trích lục tự ý sửa đổi theo thời trang, theo địa phương hiện đại. (Các sách khác đã tự ý sửa Bông ra Hoa).
Ở hai câu ca dao trên đây, không thể bảo rằng những ông tác giả vô danh đã phải dùng chữ bông để giải quyết một vấn đề bằng trắc, bởi bông hay hoa gì cũng là vần bằng cả.
Còn nhiều bằng chứng nữa. Đọc quyển sách Sổ sang chép các việc của cố đạo P. Bỉnh ghi ký năm 1822 tại Bồ Đào Nha, cố đạo là người Hải Dương, tức người miền Bắc, ta thấy cố đạo viết Bông, Trái thay cho Hoa, Quả, viết dù, thay cho ô, viết muỗng thay thìa, y hệt như người miền Nam, mà cố đạo thì không có đi giảng đạo ở miền Nam bao giờ cả.
Vậy đã có bằng chứng rằng miền Bắc chỉ dùng Hán Việt thay cho thuần Việt mới đây thôi. Nhưng vì lý do nào, và từ năm nào thì ta cũng biết được.
Ông L. Bézacier, trong quyển “L’Art Vietnamien” đã cho thấy và giải thích hiện tượng kỳ dị đó. Ông ấy là quản thủ các di tích lịch sử Việt Nam cho tới năm 1945, chuyên nghiên cứu và bảo trì các đền, đình, cung, tự, cổ của ta và nhận thấy rằng những kiến trúc đó, càng cổ, càng mang biệt sắc Việt, càng kim, càng mang biệt sắc Hoa, và kiến trúc Trần, Lê ở đất Bắc rất Việt, còn kiến trúc Nguyễn ở miền trung thì rất Hoa, vì kiến trúc Nguyễn được xây cất sau cùng hết.
Ông ấy giải thích rằng sự xâm nhập văn hóa Tàu đi ngược chiều với tinh thần chống ngoại xâm. Khi vững chủ quyền, ta càng tiêm nhiễm văn hóa Trung Hoa vì ta cần kiện toàn văn hóa của ta bằng sự vay mượn, và ta không ngại vay mượn, bởi mối nguy xâm lăng đã bị đẩy lùi đi xa rồi. Tất cả kiến trúc của trào Nguyễn sau 1700 đều rập y khuôn Trung Hoa, không khác một nét, còn kiến trúc Lý, Lê, Trần thì là Việt Nam hơn nhiều.
Sự rập khuôn nầy ắt không do áp lực của kẻ thống trị bởi ta đã độc lập từ lâu (không kể 14 năm của nhà Minh), mà do sự thán phục nó kéo theo sự bắt chước, và phải mất ngót 800 năm, bắt chước mới y hệt được (về kiến trúc) và sự bắt chước văn hóa Trung Hoa mạnh nhứt bắt đầu từ thời xây cất Văn Miếu ở Hà Nội, đến thời tôn sùng các ông Nghè vào triều Lê, những ông Nghè mà Nguyễn Huệ khi ra đất Bắc đã mỉa mai rằng: “Xứ nầy chỉ có ông Nghè là quý nhứt”.
Đành rằng ông Nghè không dùng được vào việc gì hết nhưng đó là sự tượng trưng cho nền văn hóa mà vua chúa ta xưa khâm phục.
Ngôn ngữ cũng chạy theo cái đà bắt chước đó, từ năm 1668, trước kia vào thời Lê Đại Hành, Đinh Bộ Lĩnh, dân ta ở đất Bắc cũng nói Bông, trái, ghe.
Đó chỉ là một lối giải thích của ông L. Bézacier, nghe thì rất hữu lý nhưng chúng tôi cần tài liệu cụ thể để khỏi sai lầm. Chúng tôi tìm tòi và tìm được bằng chứng, chớ không phải là suy luận như ông L. Bézacier nữa.
Sự kiện ngôn ngữ Việt chạy theo Hoa ngữ, chỉ mới xảy ra đây thôi, vào năm Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa.
Bản dịch Khâm định Việt sử thông giám cương mục của giáo sư đại học Sài Gòn, ông Langlet đã cho ta biết nguyên do thay đổi kỳ dị ấy.
Khi Mãn Châu xâm lăng Trung Hoa thì bọn lưu vong nhà Minh tràn sang Bắc Việt 10 lần đông hơn ở Nam Kỳ mà dân ta không hay biết. Ở Nam chỉ có ba ngàn quân của bọn Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Dịch mà sách vở ta cứ nói đến mãi không thôi, trong khi ấy thì Bắc Việt bị xâm nhập đến 50 ngàn.
Khâm Địch cho biết rằng chúa Trịnh đã lo lắng nhiều, thi hành nhiều biện pháp để chặn đứng ảnh hưởng bọn ấy, họ chi phối cả ngôn ngữ của ta nữa.
Đó là một điều vô cùng mới lạ mà bản dịch Langlet cho biết và hoa, quả, thuyền, thìa đi vào Việt ngữ là vì vậy, và chỉ mới đây mà thôi, và chỉ tại ở đất Bắc mà thôi.
Chúng tôi cho rằng giáo sư Nguyễn Phương lẫn lộn Hán Việt và thuần Việt nên mới chủ trương như vậy. Chúng tôi tưởng là thế vì giáo sư chỉ khẳng định mà không có đưa ra thí dụ nào, hoặc bản đối chiếu nào hết để giúp ta biết giáo sư muốn nói đến tiếng Hán Việt hay thuần Việt.
*
* *
Nhưng một người bạn Trung Hoa của chúng tôi thì có nói để chúng tôi thoáng hiểu rằng tiếng Sông do tiếng Tàu Súng mà ta đọc theo Hán Việt là Dõng mà ra, và Tàu đọc là Súng. Nhưng chúng tôi kiểm soát lại thì không phải thế. Quan Thoại đọc là Dõng ra Dùng. Quảng Đông cũng vậy. Mân Việt đọc là Yủng. Không có nhóm nào đọc là Súng hết.
Vả lại Dõng không hề có nghĩa là Sông, và xin lấy tự điển Từ Hải làm bằng: “Suối nào ở dưới đất trào lên là Dõng”.
Từ Hải lại trích quyển Nhỉ Nhả, một thứ từ điển tối cổ đời Chu: “Lạm tuyển xuất tức Dõng” nghĩa là “Suối chảy mạnh là Dõng”.
Từ Hải lại trích Hách Dục Hanh: “Nước: từ đất phun lên là Dõng”. Thế là Puits Artésiens rồi vậy.
Tóm lại, Dõng không hề có nghĩa là Sông, cả vào cổ thời, và Trung Hoa cũng không đọc là Sông bao giờ, và danh từ Sông là danh từ của ta rặc ròng, gốc Mã Lai Bách Việt, như ta sẽ thấy ở các biểu đối chiếu.
Người Trung Hoa chỉ có 5 danh từ để chỉ Sông, đó là Xuyên, Hà, Giang, Thủy và Phố.
Nên biết rằng vào cổ thời Hà và Giang là danh từ riêng đấy, dùng để chỉ sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, chỉ có về sau, có lẽ trước đời Tống, hai danh từ đó mới biến thành danh từ để chỉ sông.
Hai danh từ chỉ sông của Tàu là Thủy và Phố.
Đó là tình trạng cổ thời. Ngày nay thì Hà và Giang dùng để chỉ sông to, còn Thủy và Phố dùng để chỉ sông nhỏ.
Trong Thủy Kinh Chú thì tác giả là Lệ Đạo Nguyên gọi tất cả sông của nước ta là Phố.
Không hề thấy sách cổ hay sách kim nào của Tàu gọi sông của ta là Dõng. Mà sông bên Tàu cũng không có cái nào được gọi là Dõng.
Như vậy không có lý nào mà khi dạy ta học, họ lại dạy tiếng Dõng mỗi lần nói đến một con sông lớn hay nhỏ của ta mà họ không khinh rằng nhỏ như cái suối Dõng của họ. Và xin nhắc lại rằng không có nhóm Trung Hoa nào đọc Dõng là Súng cả.
*
* *
Chúng tôi có ám chỉ đến giáo sư ngữ học Lê Ngọc Trụ, và xin trở lại với giáo sư họ Lê.
Giáo sư họ Lê viết sách trước giáo sư Nguyễn Phương đến 10 năm, không có chủ trương chủng tộc nào hết, nhưng giáo sư đã thấy sai rằng hầu hết tiếng Việt đều do Tàu mà ra.
Một thí dụ khả nghi hơn hết là tiếng Dừa giáo sư họ Lê đã đưa ra một ngữ nguyên động trời nói Dừa do tiếng Hán Việt Da mà ra.
Bên Tàu không có cây Dừa. Nước Việt Nam là quê hương của Dừa. Thế thì tại sao người Việt Nam lại không có danh từ chỉ loại cây ấy mà lại phải vay mượn của một dân tộc không có cây dừa?
Giáo sư họ Lê đã lầm lẫn vai trò chủ nợ và con nợ, không biết ai vay của ai, nên mới nói như thế cho hàng ngàn danh từ như vậy, và cứ bằng vào sách của giáo sư họ Lê thì khó có ngôn ngữ Việt, vì danh từ Việt sơ đẳng nhứt là Dừa cũng là của Tàu.
Người Tàu vay mượn cái gì của ai, vào thời nào, ta đều biết được hết một cách chắc chắn. Ở Đông Nam Á chỉ có dân tộc Việt Nam là gọi trái ấy giống Tàu mà thôi. Ta gọi là Dừa, Quan Thoại gọi là Dẻ, còn thì các dân khác gọi khác quá xa: Thái: Brao, Cao Miên: Đôn, Chàm, Mã Lai: Nyor. Thế thì họ học của ai, đã rõ rồi, chớ không có có ai học của họ cả. Trái xoài đời hậu Hán, Tàu gọi là trái Am-ma-la. Đó là tiếng Tamoul tức Nam Ấn (gốc Mã Lai) thật đúng là Empelam mà hiện nay các nước Mã Lai đều dùng. Mấy trăm năm sau họ mới học thẳng với Bắc Ấn danh từ Mongga mà họ đọc là Mang quò (chữ nho đọc là Mông quả).
Danh từ Thái là Muang, danh từ Bắc Việt là Muỗm, đều một gốc Mangga mà ra, có lẽ Thái Quảng Đông học của Tàu, Giao Chỉ học của Thái Quảng Đông, nhưng danh từ chánh hiệu thì:
Thái không bị đồng hóa: Huài
Cao Miên: Sway
Đàng Trong: Xoài
Tàu viết sử rằng họ học nghề nấu đường với nước Ấn Độ vào đời Đường. Tại sao họ không học với Giao Chỉ lại đi học chi cho xa thế? Mà đừng tưởng là Giao Chỉ chưa biết làm đường vào thời đó, Giao Chỉ giáp ranh với Chàm mà Chàm đã biết làm đường nhiều trăm năm trước đó rồi.
Cái gì bảnh họ mới nhận, còn không thì thôi, giống hệt Việt Nam nhận Đông Sơn, nhưng phủ nhận Mã Lai.
Họ viết sử rằng họ học nghề làm đường với nước Ấn Độ vào thế kỷ thứ bảy. Ấy, Ấn Độ là nước văn minh, nên họ thấy sang bắt quàng làm họ, sự thật thì họ học với nước Giao Chỉ.
Chúng tôi bắt được tài liệu hiếm hoi sau đây nó sẽ làm cho các sử gia Tàu cứng họng. Mấy câu nầy trích dẫn ở quyển Oriental Commerce của Villiam Milburn, London, 1925, chương nói riêng về nước Việt Nam: Hàng hóa CHÁNH (của xứ Việt Nam) xuất cảng sang Ấn Độ là ĐƯỜNG. Có ba thứ tất cả:
1. Đường phèn, tốt nhứt thế giới và được TRUNG HOA QUÝ NHỨT.
2. Đường cát trắng, loại tầm thường, giống như đường Phi Luật Tân.
3. Đường đen.
(Đường đen là thứ đường rẻ tiền mà Nam Kỳ gọi là đường ta).
Nước Ấn Độ, cho tới năm ấy mà còn phải nhập cảng đường của Việt Nam thì vào thế kỷ thứ bảy họ không thể đủ khả năng dạy Trung Hoa làm đường.
Vả lại chứng tích sau đây còn mạnh hơn nữa. Nếu họ học với Ấn Độ, họ đã gọi món ấy bằng tiếng Ấn Độ phiên âm. Nhưng họ gọi bằng tiếng Giao Chỉ. Danh từ Trung Hoa chỉ món đường, ở Kinh đô Tàu là Thẻl. Còn danh từ Giao Chỉ cổ thời là Tàng. Tàng biến thành Đàng, Đàng biến thành Đường.
Tàng là danh từ Mã Lai chung của hai nhóm Thái, Việt, còn Cao Miên cũng thuộc chủng Mã Lai thì lại gọi là gì không biết, họ vay mượn của ai thì chưa truy ra. (Xin xem chương Làng Cườm sống dậy).
Chàm và Mã Lai thì gọi đường là Gula.
Thế thì Thẻl do đâu mà ra, cũng rõ bông.
*
* *
Nổi danh nhứt về ngữ nguyên (Etymologie) là giáo sư đại học Lê Ngọc Trụ. Giáo sư họ Lê đã tìm ra được nguồn gốc của một số tiếng Việt mà ai cũng ngỡ là thuần Việt, nhưng lại do tiếng Tàu mà ra.
Nhưng giáo sư Lê Ngọc Trụ đã khám phá sự kiện đó bằng cách đối chiếu tiếng Hán Việt và tiếng thuần Việt, thấy hơi giống giống rồi gán ghép, nên có lắm tiếng ông cho là của Tàu một cách sai lầm, như danh từ Dừa đã cho thấy.
Mãi rồi ông bị ám ảnh về sự hơi giống đó, biến nhận xét riêng rẽ của ông thành một cái luật để tổng quát hóa vấn đề.
Nếu giáo sư kiểm soát cái luật của giáo sư bằng cách đối chiếu giọng đọc của Hoa và Việt, ông sẽ thấy rằng ngữ nguyên của ông không đúng.
Khi nãy chúng tôi có nói rằng giáo sư họ Lê bị vài nhận xét lẻ tẻ vô tình đúng, rồi tổng quát hóa vấn đề một cách sai nguyên tắc khoa học.
Nhưng đọc kỹ tác phẩm của giáo sư họ Lê, ta thấy rằng không phải thế. Cái bộ sử mà giáo sư Lê Ngọc Trụ không hề có viết, giáo sư có âm thầm nghĩ trong bụng, và nghĩ gần như giáo sư Nguyễn Phương, nhưng kém khoa học hơn giáo sư họ Nguyễn nhiều.
Giáo sư họ Nguyễn cho rằng đồng bào của bà Trưng là “Mọi” còn ta đây là người Tàu. Giáo sư họ Lê thì làm cho độc giả rối trí đến muốn điên lên vì họ không còn biết họ là ai nữa hết.
Trong Chính tả Việt ngữ, trang 229, giáo sư viết:
“Nơi đồng bằng Bắc Việt, tổ tiên ta đụng phải ngọn sóng Nam tiến của người Bách Việt. Phải tranh sống với họ, họ mạnh thế hơn. Họ chinh phục nước ta mấy lượt”.
Thế là, theo câu trên đây, ta không thuộc dòng Bách Việt, mà là dân thổ trước Mélanésien (theo khoa khảo tiền sử thì trước Bách Việt là chủng Mê-la-nê).
Nhưng sao giáo sư lại cứ gọi dân ta là dân Việt, tiếng ta là Việt ngữ? Việt chỉ là kẻ xâm lăng thôi chớ?
Quan niệm riêng của giáo sư, trong trường hợp nầy thật là làm ta choáng váng, còn choáng váng hơn cả quan niệm của giáo sư Nguyễn Phương đã cho ta là Tàu thuần chủng.
Theo ông Lê thì ta, Nguyễn Văn Hai, Trần Văn Ba, hiện nay là ai? Thật không sao biết được. Nếu ta là Bách Việt, sao ông lại nói: Ta bị Bách Việt chinh phục? Còn ta là thổ trước Mélanésien, sao ông gọi tiếng ta là Việt ngữ, mà không gọi là Mélanésien ngữ?
Ta không còn biết ta là ai nữa, đó là một tâm trạng khó chịu như kẻ mắc bịnh kiện vong quên mình là ai, mặc dầu vẫn còn sáng suốt, hiểu biết mọi việc trên đời.
Nhưng Bách Việt là ai mới được chớ? Cũng trong câu trên giáo sư giải thích rằng Bách Việt là người Tàu phương Nam. Giải thích như vậy là đúng 70 phần trăm. Nhưng chúng ta cũng là Bách Việt nhưng may mắn hơn không bị đồng hóa như Quảng Đông, chỉ có thế thôi, sao giáo sư lại nói chúng ta bị Bách Việt chinh phục? Chính bọn Hoa Bắc đã chinh phục Bách Việt Hoa Nam ấy chớ, bọn Bách Việt ở Hoa Nam, thuở đó chỉ mới bị trị trước ta có hơn trăm năm, đâu có đi chinh phục ta được bằng quân sự và văn hóa. Thuở đó họ chưa thành Tàu và còn nguyên là Bách Việt, mà là Bách Việt đang bị trị, bị nô lệ hóa, sao lại đi chinh phục ta được? Có lẽ vì hiểu lịch sử như vậy, ta là Mélanésien, Quảng Đông mới đích thật là Bách Việt và nhận thấy khi tiếng Hán Việt và thuần Việt hơi hơi giống nhau, giáo sư mới cho tiếng ta có họ với tiếng Tàu, vì Tàu là Bách Việt Hoa Nam, giáo sư không kể Tàu chánh gốc, nhưng chính Tàu đó mới là đáng kể và ta có là họ hay không là nên nhắm vào Tàu đó.
Theo ý giáo sư họ Lê thì chính Quảng Đông hoặc Mân Việt mới là Bách Việt và mới là kẻ đi chinh phục ta. Quả quân đội của Mã Viện có lấy thêm người ở Quảng Đông, nhưng đó là người Hoa Bắc do Tần Thỉ Hoàng đưa xuống để trồng người không hơn một trăm năm.
Nhưng nếu họ là người Thái Tây Âu đi nữa, họ cũng chỉ là quân bổ sung. Quân chánh quy chủ lực là Hoa Bắc, và nhứt là tất cả cán bộ quân sự, văn hóa đều là Hoa Bắc, bằng chứng rõ ràng là các nhà giáo dục nổi danh: Tích Quang, Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp đều là người Hoa Bắc. Chính họ mới đưa văn hóa vào xứ ta, chớ Tây Âu học chưa thuộc bài, làm thế nào để đặt ảnh hưởng vào xứ ta được?
Nhưng nếu Mã Viện, Tích Quang, Sĩ Nhiếp và toàn thể đạo quân viễn chinh đều là Bách Việt như giáo sư họ Lê nói, thì như vậy Bách Việt là quân xâm lăng, còn ta, cứ là dân thổ trước chịu ảnh hưởng của Bách Việt, chớ không thể nào ta lại là Việt và quyển sách của giáo sư cần đổi tên lại là Chính tả Mê-la-nê ngữ mới đúng.
Nhưng nếu thế thì lại hơi lạ, vì lẽ rằng cái văn hóa mà ta học là văn hóa Tàu chớ không phải văn hóa Bách Việt.
Phương pháp của giáo sư đã được áp dụng trong Việt ngữ chánh tả tự vị, và nếu tin theo phương pháp của giáo sư họ Lê thì khó lòng mà có tiếng thuần Việt được và lời khẳng định ngắn của sử gia Nguyễn Phương được củng cố thật mạnh nhờ thuyết của giáo sư Lê Ngọc Trụ, nhờ cả một bộ tự điển của giáo sư họ Lê.
Thỉnh thoảng có gì không biết chúng tôi có tìm giáo sư Lê Ngọc Trụ để học hỏi, thì những trang sách sau đây thật là có vẻ phạm thượng và phản sư lắm.
Nhưng chắc giáo sư không tức giận chúng tôi đâu vì chúng tôi chỉ tìm sự thật chớ không hề chối rằng mình đã có học hỏi nơi giáo sư, đã khâm phục và tôn kính giáo sư.
Hơn nữa chưa chắc gì chúng tôi viết ra ở chương nầy là đúng, và giáo sư sẽ có dịp bác bỏ và như thế thuyết của giáo sư sẽ được vững chãi thêm, và đó là cái lợi cho nền học thuật của ta. Giá trị của một thuyết chỉ được củng cố mạnh sau nhiều thử thách, nhiều bài bác mà thôi, và hai người đưa ra hai thuyết ngược hẳn nhau, không hề là địch thủ có ác ý muốn chống đối nhau như thế để sự thật lòi ra.
Giáo sư Lê Ngọc Trụ, không hề chủ trương như sử gia Nguyễn Phương bao giờ, mà còn trái lại nữa, ông viết trong bộ luật chánh tả Việt ngữ: “Trót ngàn năm bị cai trị, dân Việt Nam có chịu ảnh hưởng sâu xa của văn hóa Tàu, chớ riêng tiếng Việt thì không vì đó mà bị đồng hóa”.
Câu nầy thì rất đúng, nhưng lại quá mâu thuẫn với câu trên. Thế thì trong hai câu, phải có một câu sai. Chúng tôi cho rằng câu nầy đúng thì câu trên hoàn toàn sai.
Giáo sư họ Lê nhận thức đúng lẽ đó, nhưng đáng tiếc thay, khi áp dụng bộ luật của giáo sư để tìm ngữ nguyên thì không hiểu vì lẽ nào mà danh từ nào của ta, giáo sư cũng đều cho là do tiếng Tàu mà ra cả, kể cả những danh từ sơ đẳng nhứt mà một dân tộc bán khai hẳn đã phải có mà không cần vay mượn làm gì nữa hết.
Thí dụ điển hình nhứt là tiếng Nỏ, sau tiếng đó giáo sư ghi là Nôm, nhưng lại thêm một cái dấu riêng, giống hình chữ V nằm. Dấu nầy ở chương Phàm Lệ, được giải thích là “do tiếng Hán mà ra”. Sau cái dấu đó, quả nhiên giáo sư viết chữ NỖ của Trung Hoa.
Vậy Nôm Nỏ do Nỗ của Tàu, và như thế thì đâu còn là Nôm nữa? Lại mâu thuẫn.
Sự thật thì chính Tàu đã học tiếng Nỏ của Mã Lai Việt chớ Nỗ không phải của họ.
Các nhóm Mã Lai Bách Việt đều có danh từ đó, xin kể ra đây, nhưng không phải vì đa số đó mà chúng tôi chủ trương rằng Ná và Nỏ là của ta, mà vì một luật tạo tự dạng Trung Hoa:
Việt Nam: |
Ná, Nỏ |
Cao Miên: |
Snả |
Mạ: |
Na |
Bà Na: |
Hna |
Sơ Đăng: |
Mnaá |
Gia Rai: |
Hnaá |
Thái: |
Nả |
Mã Lai: |
Pnả |
Người Trung Hoa khi họ bày ra một tự dạng mới, họ theo những cái luật bất di bất dịch, chớ không phải viết càn. Ta thử chiết tự chữ Nỗ của họ xem sao.
Chữ ấy gồm ngữ căn Cung để tượng hình, tức chỉ nghĩa, và tiếp vĩ ngữ Nô (Nô bộc), dùng chỉ giọng đọc (Hài thanh).
Theo luật tạo tự dạng của Trung Hoa thì danh từ đó là danh từ tân tạo chớ không phải là danh từ nguyên thỉ của dân tộc Tàu. Cung mới là nguyên thỉ vì không có ngữ căn và ngữ phụ gì cả trong Cung.
Mà tân tạo thì có hai loại:
1. Loại hoàn toàn nội lực. Thí dụ chữ Dẫn, gồm ngữ căn Cung để tượng hình và một sổ cũng tượng hình sự giương cung, không có ảnh hưởng ngoại lai vì cả hai yếu tố đều có nghĩa, và đều là chữ Tàu.
2. Loại phiên âm ngoại ngữ thì chữ tượng hình thứ nhứt vẫn là Cung nhưng chữ tượng hình thứ nhì được thay bằng chữ hài thanh, hoàn toàn vô nghĩa đối với Trung Hoa nhưng lại chỉ được cái âm ngoại quốc mà họ phải theo.
Có lý nào mà cây Nỗ là một thứ Cung do Nô bộc hoặc Nô lệ sử dụng hay không? Không, không thể nào mà có chuyện như vậy. Nô bộc không phải là chiến sĩ, còn nô lệ có thể là chiến sĩ, nhưng không sao mà được phép sử dụng một loại khí giới quá lợi hại (của thời đó).
Vậy Nô hoàn toàn vô nghĩa, và chỉ để phiên âm giọng đọc của chủ nhơn môn võ khí ấy mà thôi, và Ná, Nỏ của ta không bao giờ do Nỗ của Tàu mà ra, mà trái lại chính Tàu đã vay mượn của Mã Lai Việt cả món vũ khí lẫn cái tên.
Lộ trình vay mượn có thể được hồi phục như sau đây. Sự vay mượn xảy ra khi dân Trung Hoa di cư vào đất Kinh của chủng Việt, họ vay mượn cả vật dụng lẫn lối đọc tên vật ấy. Pnả biến thành Nỗ. Riêng các nhóm Mã Lai Bách Việt thì cứ tiếp tục dùng Na, Ná, Phả, Hná, Nỏ của họ. Người Tàu viết chữ, ta đọc sai là Nỗ, chớ Quan Thoại thì đọc là Nũa.
Chữ Noa cũng viết theo lối đó, nhưng với chữ Tử. Nhưng chữ Noa thì có nghĩa hẳn hòi vì phụ hệ Trung Hoa xem vợ con như tôi tớ, về mặt tinh thần. Nô + Tử là chữ tân tạo có nghĩa hẳn hòi, chí như Nô + Cung thì chắc chắn là chữ phiên âm không còn ngờ gì nữa, cũng như chữ Phật chỉ là chữ phiên âm mà thôi: Nhơn + Phất.
Nhưng ta cũng cố tìm xem coi Trung Hoa cổ thời có vũ khí Nỗ hay không? Tài liệu tìm được ở trong một quyển sách thuộc loại rất cổ của họ, đó là quyển Chu Lễ. Chu Lễ tả cây Nỗ khá tỉ mỉ, nhưng ta đừng nên thấy Chu Lễ có tả cây Nỗ mà vội kết luận rằng Tàu đã phát minh ra Nỗ.
Trung Hoa đã tiếp xúc với Việt ở Kinh Man từ đời nhà Hạ, mà Chu Lễ thì hơn một ngàn năm sau mới được soạn thảo. Đến cuối đời Tần, Tàu vẫn còn kém về Nỗ. Có phải chăng là Triệu Đà đã rất sợ Nỗ của An Dương Vương? Câu chuyện Nỏ thần có hoang đường bao nhiêu, cũng còn lại cái vũ khí rất lợi hại của Bách Việt mà Tàu rất kinh sợ.
Tàu học của Việt ở đất Kinh Man rất nhiều, nhưng ít ai chú ý đến. Trường hợp Nỏ và Nỗ nhắc ta nhiều danh từ khác. Thí dụ danh từ Đỗ của ta mà ai cũng bảo là do Hán Việt Đậu mà ra. Không có bằng chứng nào như thế hết mà còn có bằng chứng trái lại:
Việt Nam: Đỗ
Bà Na: Tở
Gia Rai Pleiku: Tả
Gia Rai thuần Mã Lai nhứt ở Đông Nam Á, thuần hơn cả Chàm và Java nữa.
Trong trường hợp nầy, y như trong trường hợp trước, ta nói được rằng Cổ Mã Lai cho vay, Trung Hoa là con nợ.
Chiết tự chữ Đậu, ta cũng thấy có sự lạ kỳ. Ngữ căn trong chữ đó chỉ là bộ Thảo đầu, còn phần dưới không dính dáng gì tới một món ăn nào hết, mà lại tượng hình một dụng cụ thờ phượng mà Pháp gọi là Compotier, Tàu dùng đựng trái để cúng trên bàn thờ mà họ gọi là cái Đậu (món đó Hán Việt và Hoa ngữ, đều đọc là Đậu). Thành thử cái phần tưởng là chánh yếu, lại chỉ để tượng thanh mà thôi, chính cái bộ Thảo đầu mới là chỉ thực vật mà chỉ như thế là chỉ tổng quát, không có nghĩa gì hết. Đó là một tự dạng vô nghĩa, kể cả phần tượng thanh lẫn tượng hình thì nó chỉ có thể là một chữ phiên âm mà thôi.
Ráp nối liên hệ họ hàng đã khó, mà đặt cho thật đúng địa vị kẻ vay mượn và chủ nợ, còn khó hơn khi ta không đi sâu vào vấn đề.
Đã bảo dân Cổ Mã Lai làm chủ đất Trung Hoa trước người Tàu thì người Tàu chắc chắn phải có vay mượn của Cổ Mã Lai trước khi đồng hóa họ hoặc đuổi họ thiên di, và chúng tôi đã ám chỉ đến những vay mượn của Tàu đối với Việt, trong Sở từ.
Trong quyển Études des phonènes Vietnamiens, bác sĩ Reynaud lại xác nhận sự kiện đó. Và đây là thí dụ của ông: Chữ Bạn của ta, ai cũng cho là Bạn hoặc Bằng của Hán Việt mà ra, nhưng bác sĩ Reynaud lại bảo rằng ngữ căn M'Bang của Mã Lai tràn ngập Đông Nam Á và có nghĩa là Bầy, Bạn, Nhóm, và bằng chứng sơ sơ là:
Việt Nam: Bạn
Mường: Ban
Khả văn minh: Bơn
Gia Rai: Baan
Bà Na: Baan
Cao Miên: Bôn, Pốut
Mã Lai: Bang
Mà đừng tưởng là Gia Rai, Bà Na, Cao Miên đã học với ta hay với Tàu vì Gia Rai chỉ chịu ảnh hưởng của Chàm tức Mã Lai còn cho tới ngày nay. Bà Na vẫn chưa hề thấy mặt Trung Hoa, còn ta thì cũng mới đến xứ họ sau đầu thế kỷ XX mà danh từ đó họ đã có hàng ngàn năm rồi.
Danh từ Ván của ta, ai cũng cho là do Bản của Hán Việt, nhưng bác sĩ Reynaud cũng nói là do P’pan của Mã Lai.
Thoạt tiên chúng tôi không thể tin bác sĩ Reynaud cũng như đã không tin giáo sư Lê Ngọc Trụ. Nhưng một tài liệu khác lại cho chúng tôi thấy rằng bác sĩ Reynaud nói đúng.
Cách đây 300 năm, dân ta không nói Cửa mà nói Pan do P’Pan của Mã Lai mà ra, không phải Pan biến ngay thành Cửa đâu mà nó được ta đọc ra là Ván hiểu là Ván, rồi lại đồng hóa Ván với một món đồ (Cái cửa).
Đây là bằng chứng:
Năm 1792, một du khách Ăng Lê có viếng Việt Nam (miền Trung) có chép du ký Voyage à la Cochinchine. Quyển du ký nầy đã được dịch ra tiếng Pháp. Trong ấy tác giả có dành một chương cho ngôn ngữ Việt. (Con chó, thấy được ghi là Con Koo, y hệt như nơi người Thượng hay người Mường ngày nay).
Nhưng danh từ quan trọng hơn hết là danh từ Cửa, thấy ghi là Pan.
Người phê bình sách đó, bà Martine Piat cho rằng tác giả chép sai, hoặc chép theo lời phu bến tàu ở Tourane vốn là người Tàu, hoặc nhà in đã in sai. Nhưng không. Tác giả đã chép đúng. Người Tàu không bao giờ gọi Cửa là Pan hết. Hiện nay, cái Cửa, người Thượng Bà Na gọi là Mbang, người Chàm gọi là Bơng, người Tu Nong gọi là Mbang, người Kơlua gọi là Mbơng, người Mang Buk gọi là Mbong, và người Mã Lai gọi tấm ván là Pan. Ván và Cửa là hai thứ đi đôi với nhau, biến nghĩa qua lại với nhau.
Không phải Pan biến thành Cửa như đã nói mà nó biến ra Pan, Bơng, Bong, Ván rồi bị đồng hóa với một món đồ là Cửa. Danh từ Cửa chắc chắn chỉ xuất hiện sau năm 1792, tức chỉ mới đây thôi, và cũng chắc chắn không phải do Hộ mà giáo sư Lê Ngọc Trụ đã viết.
Chúng tôi đối chiếu Cửa và Môn để phủ nhận nguồn gốc Trung Hoa của tiếng Cửa, nhưng ông Lê Ngọc Trụ cho rằng Cửa do Hộ mà ra. Để xem coi các thứ giọng Trung Hoa có giọng nào đọc Hộ giống Cửa hay không.
Quan Thoại đọc Hầu
Việt Nam Hải đọc Hẩu
Mân Việt đọc Hú
Hộ cũng không may mắn gì hơn Môn.
Sự thật thì Cửa là tiếng Mã Lai Kưala. Danh từ đó không chỉ Cửa của cái nhà mà được định nghĩa như sau: Kưala là tên chỉ những nơi sông đổ ra biển, hoặc đổ vào một con sông khác. Cửa sông họ nói là Kưala Sôngai, mà cửa sông danh tiếng khắp thế giới là Kưala Lumpur được dùng làm thủ đô cho nước Mã Lai Á.
Tất cả các cửa sông của họ đều được gọi là Kưala và tất cả các cửa sông của Việt Nam đều được gọi là Cửa, trái hẳn với Tàu mà các nơi đó luôn luôn được gọi là Khẩu.
Còn cái cửa thì họ gọi là Pan, đúng nghĩa là tấm ván. Giáo sư họ Lê lại cũng nói Ván do Bản của Tàu mà ra, nhưng ta là Mã Lai thì nó phải do Pan của Mã Lai.
Mà đừng tưởng là Mã Lai đã học của Tàu. Mã Lai Nam Dương là Mã Lai thuần chủng tuy từ Hoa Nam di cư, nhưng họ không có chịu ảnh hưởng của Tàu, như khoa khảo tiền sử đã cho thấy.
Còn Mã Lai Hoa Bắc thì lại di cư vào thời mà Trung Hoa chưa biết cưa gỗ để làm ván.
Tóm lại, cả hai thứ Mã Lai đợt I (Lạc bộ Trãi) và Mã Lai đợt II (Lạc bộ Mã) không có ai học Trung Hoa tiếng nào cả trước khi họ chịu ảnh hưởng Tàu từ đầu Tây lịch về sau. Mà những danh từ Kưala Sôngai và M'Pan thì Mã Lai đã có từ muôn vạn thuở.
Dân Mã Lai không có danh từ để chỉ cái cửa, nên đồng hóa Pan là Ván với một món đồ là cái cửa.
Dân Việt Nam là Mã Lai nên cũng đã làm y hệt như thế.
Xin nhắc lại một lần nữa là danh từ Kưala của Mã Lai chỉ để gọi Cửa Sông mà không hề có nghĩa nào khác hơn, và Việt Nam chỉ mới đồng hóa Kưala để chỉ Cửa nhà không lâu, bằng chứng là đến năm 1792 mà ta còn gọi Cửa nhà là cái Pan.
Có lẽ sự đồng hóa đã xảy ra lâu hơn nữa, nhưng đến năm 1792, ta còn dùng song song cả hai danh từ, danh từ Pan chưa mất hẳn như ngày nay.
Chúng tôi tìm những sách viết trước năm 1792 bằng chữ nôm thì thấy danh từ Cửa đã xuất hiện rồi, để chỉ cái Cửa nhà. Như thế thì sự đồng hóa Kưala (cửa sông) ra Cửa nhà xảy ra trước khi người du khách Ăng Lê ghi chép. Nhưng người ấy mà ghi chép như thế tức vào năm 1772 Pan vẫn còn được thịnh dụng.
Ở Nghệ An có một giang khẩu tên là Cửa Lò. Từ hai ngàn năm nay nơi đó không có xí nghiệp nào, công nghệ nào, dựng lò nào cả.
Nhưng nếu chúng tôi nói rằng Cửa Lò là Kưala thì không ai tin. Chúng tôi phải đưa ra một chứng tích không thể chối cãi được. Trong Việt sử tiêu án Ngô Thì Sĩ gọi nó là Cô La.
Nếu địa danh Cửa Lò mà có trước Ngô Thì Sĩ thì sử gia họ Ngô đã dịch ra là Lô Khẩu, chắc chắn không sai, vì thói quen của nhà nho ta là thế, Bến Nghé ở Saigon đã được các ông dịch là Ngưu Tân.
Khi mà một nhà nho Việt Nam không dịch là nhà nho đó có tinh thần trọng thực và Kưala = Cô La = Cửa Lò.
Sử ta lại chép rằng ở phía dưới Cửa Lò ở Nghệ An trong tỉnh Hà tĩnh, có một giang khẩu nay tên là Cửa Khâu, nhưng xưa tên là Kỳ La.
Hết Cô la đến Kỳ la, chung quy cũng chỉ là Kưala mà thôi.
Đối với lịch sử, những biến dạng như thế có thể xem là câu chuyện hôm qua, vì danh từ Pan của năm 1972 không lâu đời lắm, còn Ngô Thì Sĩ thì cũng không phải cổ nhơn như Lê Văn Hưu.
Đến đời Tây Sơn, Cửa Thuận An còn được gọi là Cô la Eo và Tourane còn được gọi là Cô la Han. Ở đó có một cái tháp Chàm đổ nát, nên Pháp gọi là Tour Han, sau biến thành Tourane.
Chỉ phiền là ta biết Kưala Eo là cái gì còn Kưala Han thì chúng tôi chưa truy ra nghĩa của danh từ Han.
Tất cả các địa danh ở miền Trung mà chưa bị Việt hóa đều là địa danh Mã Lai, vì đó là đất của Chàm, mà Chàm là Mã Lai.
Dấu vết Mã Lai xuống tới Cù My Lagi là hết và ai muốn biết Cù My Lagi là gì xin đón đọc bộ Tự vựng Mã – Việt mà chúng tôi đang soạn.
Lắm địa danh bị các ông Tây viết dính lại, như Cap Bantangan ở Quảng Ngãi, khiến chính người Chàm cũng điên đầu, không còn biết là gì nữa. Nhưng học xong tiếng Mã Lai, thì ta sẽ hiểu. Đó là Ba-Ta-Ngan chớ không phải là Batang-An đâu, lại càng không phải là Batangan như các ông Tây đã viết, vì các ông ấy mắc bệnh viết dính các danh từ độc âm, y như Việt Nam mắc bịnh viết ngắn những danh từ đa âm.
Fermetur éclair bị ta thâu lại thành Nút le.
*
* *
Nhưng xuống tới Nam Kỳ thì Kưala biến mất, hóa thành Piam, một danh từ Mã Lai đợt I, mà người Nam Kỳ biến thành Vàm: Vàm Cỏ, Vàm Lôi Lạp (Piam Soarap).
Có lẽ xưa hơn, các Piam ở Nam Kỳ cũng được gọi là Kưala, vì người Phù Nam dùng ngôn ngữ của Mã Lai đợt II, tức y như Chàm. Nhưng ảnh hưởng Cao Miên đến thay thế cho Phù Nam, thành thử ta mới nhảy từ Kưala sang Piam một cách đột ngột.
Tuy nhiên, thuyền biển ở Nam Kỳ vẫn được tiếp tục gọi là Ghe Cửa, tức Gay Kưala, chớ không phải Ghe Vàm. Ghe Vàm là danh từ rất ít được dùng, và tuyệt đối không được dùng ở Bình Tuy, Biên Hòa và Bà Rịa, vì ba nơi đó còn là đất Chàm mãi tới năm ta di cư vào Nam mặc dầu với giấy phép của vua Cao Miên, vì thuở ấy ở ba nơi đó Cao Miên chỉ làm chủ trên giấy tờ mà thôi, người Chàm còn đông đảo, địa danh chàm cũng được ta giữ nguyên cho tới nay, thí dụ Cù My Lagi ở Bình Tuy.
Riêng ở Biên Hòa thì toàn là địa danh của người Mạ mà chúng tôi nghi là hậu duệ của Phù Nam.
Tên Đồng Nai, không phải là tên Việt Nam đâu. Đó là tên của Mạ, họ gọi con sông đó là Đạ Đờng.
Đạ là hình thức đầu tiên sẽ biến thành Nước trong ngôn ngữ ta, qua Nác ở Huế và Đák của người Mường.
Mạ: Đạ
Xi Tiêng: Đá
Bà Na, Sơ Đăng, Mường: Đák
Việt Nam Thừa Thiên: Nác
Việt Nam: Nước
Cao Miên: Tứk
Đờng được biến thành Đồng.
Nhưng cụ Trương Vĩnh Ký lại cho rằng tên cũ của sông Đồng Nai là một tên Cao Miên, cụ có viết ra chữ rõ ràng. Không biết cụ đã thấy điều đó ở đâu, chớ chúng tôi nghe tận tai người Mạ ở Biên Hòa gọi con sông ấy là ĐẠ ĐỜNG.
Mà đừng tưởng họ bắt chước ta, biến Đồng thành Đờng. Có hằng lô, hằng tá địa danh ở Biên Hòa là địa danh của họ mà ta phiên âm, chớ chủ mới bắt chước chủ cũ thì có, không bao giờ chủ cũ bắt chước chủ mới cả.
Nếu biến Kontum thành Công Tâm chẳng hạn, người Sơ Đăng ở đó cũng bất kể, cứ gọi nơi ấy là Kontum.
Bằng chứng chủ mới bắt chước chủ cũ còn dấu vết rành rành vì Nha Trang (chủ mới Việt) chỉ là EA TRAANG (chủ cũ Chàm) có nghĩa là con sông đầy lau lách, sậy, đế.
(Danh từ Trang trong Việt ngữ biến thành Tranh và Trảng).
Lại bằng chứng ở Hội An. Fai Fô (chủ mới Pháp) chỉ là Hoài. Phố (chủ cũ Việt). Hoài là tên, còn Phố là con sông nhỏ. Con sông nhỏ ở đó xưa kia tên là Hoài Phố.
Vậy sông Đồng Nai, chỉ là sông Đờng mà lưu vực có nhiều nai, chớ không phải là đồng bằng có nhiều nai, như ta hiểu theo ngày nay.
Cũng nên nhắc rằng đất Phù Nam xưa ăn tận ra tới Nha Trang mà Chàm chỉ mới chiếm sau thế kỷ thứ 9 còn Cao Miên thì không có bao giờ chiếm được Nam Kỳ cả, theo khám phá mới nhứt của ông Pierre Dupont (B.S.E.I.).
Có rất nhiều người cho trạng từ Xa của Việt Nam do Hán Việt Hà mà ra, và quả Quan Thoại đọc Hà là Xa. Nhưng thử hỏi đó là trùng hợp ngẫu nhiên hay vay mượn? Trong các nhóm dân gốc Mã Lai, chúng tôi thấy người Cao Miên nói Xangai có nghĩa là Xa, mà Cao Miên là Lạc bộ Chuy. Nhưng có thể nào mà Cao Miên cũng học của Quan Thoại như ta hay không? Chúng tôi có bằng chứng là không.
Thí dụ tiếng Xẻ của Quan Thoại bị ta biến thành Xe, nhưng Cao Miên biến thành Te, các âm X của Quan Thoại đều bị Cao Miên biến thành âm T. Nhưng Xangai không bị biến thành Tangai là làm sao? Chỉ có một lối trả lời độc nhứt là trạng từ Xa là trạng từ Mã Lai đợt I mà bộ Chuy nói là Xăngai, còn bộ Trãi nói là Xa chớ nếu bộ Chuy cũng đã vay mượn thì họ đã nói là Tangai theo luật biến âm trong ngôn ngữ của họ.
Có những trùng hợp ngẫu nhiên trong ngôn ngữ như thế đó mà chúng tôi đã trình ra quá nhiều rồi, thí dụ Đua của Mã Lai đợt II và của La Tinh đều có nghĩa là Hai, và đều đọc y như nhau, nhưng Mã Lai đợt II không bao giờ mà là La Tinh hoặc vay mượn của La Tinh được.
Đôi khi giáo sư Lê Ngọc Trụ cũng có dựa vào H. Maspéro để nhìn nhận rằng có một số tiếng Nôm ta gốc Thái. Thí dụ: Trăng, Cổ, nhưng như thế lại cũng chẳng là Nôm gì hết, tức chẳng là Việt Gốc gì hết mà cứ là gốc của kẻ lạ, không Tàu thì Thái. (Nhưng sự thật thì Trăng là danh từ chung của chủng Mã Lai mà tất cả các dân tộc ở Đông Nam Á đều nói y nhau, kể cả Tây Tạng.
Chúng tôi đã đi xa hơn H. Maspéro mà lên tới tận nguồn là Mã Lai và Tây Tạng, chớ không dừng chơn ở giai đoạn chót như ông H. Maspéro mà giáo sư Lê Ngọc Trụ dựa theo.
Ông H. Maspéro, như chúng tôi đã chứng minh, không hề biết Thái ngày xưa tên là Âu, và Âu và Lạc là hai Chi của chủng Mã Lai. Ông cũng không hề biết rằng chủng Việt đích thị là chủng Mã Lai. Thế nên thay vì chủ trương rằng Thái ngữ và Việt ngữ đồng gốc, ông chủ trương rằng Việt ngữ do Thái ngữ mà ra. Vài ông khác lại cũng chẳng hề biết rằng Cao Miên và Việt đồng gốc, cho rằng Việt ngữ thuộc gia đình Miên ngữ. Các ông Tây sai hết về ngữ học Việt Nam.
Thái và Việt chỉ là hai chi của Mã Lai, chi Thái xưa kia được người Tàu gọi là Âu, chỉ có thế thôi.
Bắt ta làm họ với Thái, với Miên, các ông Tây không hoàn toàn sai, mà chỉ vì các ông chỉ biết có giai đoạn cuối. Dầu sao các ông Tây cũng thấy đúng một chặng đường của lộ trình, còn ông Lê Ngọc Trụ thì lại đi theo lộ trình hoàn toàn khác.
Chúng tôi đối chiếu Ăn với Xực và thấy là khác, nhưng giúp Lê Ngọc Trụ nói Ăn do Xan mà ra.
Nhưng Xan không phải là ăn mà chỉ là Bữa ăn mà thôi. Động từ Ăn là của chủng Mã Lai. Họ chia ra ba động từ như sau:
Việt Nam: Ăn Việt Nam: Xơi Việt Nam: Nhắm
Cao Miên: Ănh Cao Miên: Xi Sa Mường: Lam
Mường: Ăn Cao Miên: Xi Sa Cao Miên: Nham
Khả Lá Vàng: Ăn Mạ: Saa Ra Đê: Mnam
Mã Lai: Mak-An A-Ka-Lông: Haa Bà Na: Nyơm
Khả văn minh: Cha
Cổ ngữ Đông Âu (Bắc Phúc Kiến): Lím
Gia Rai: Nyam
Mã Lai: Miniom
Chú ý: Trong động tác Nhắm, phần uống quan trọng hơn phần ăn, nhưng vẫn có ăn. Thế nên Đông Âu (Bắc Phúc Kiến) mới dùng Lím để chỉ cả ăn lẫn uống và có lẽ động từ Liếm của Việt Nam cũng cùng gốc đó mà ra vì Liếm ngoài cái nghĩa Liếm, còn là ăn như chó ăn, tức cũng bằng cách Liếm và uống.
Chúng tôi đã nói rằng bộ luật ngữ nguyên của giáo sư họ Lê không theo sự đối chiếu giọng đọc Hoa Việt mà chỉ dựa vào sự hơi giống nhau giữa Hoa và Hán Việt.
Ở đây ta lại có thể thêm rằng luật đó không theo luật ngôn ngữ tổng quát.
Quả thật thế, âm X của Trung Hoa cứ còn nguyên vẹn trong Việt ngữ. Thí dụ: Xé = Xe, Xảo = Xào.
Âm X không hề biến mất thì tại sao trong Xan, nó lại biến mất để thành Ăn?
Nếu theo quan sát ngoài đời và theo luật ngôn ngữ, giáo sư đã chủ trương khác rồi.
Giáo sư cho rằng Trẻ do Trĩ mà ra, ăn do Xăn, nhưng Già và Uống thì theo giáo sư, lại là thuần Việt.
Tại sao một dân tộc có tiếng Già mà không có tiếng Trẻ, có tiếng Uống lại không có tiếng Ăn?
Còn nói họ bỏ tiếng họ để vay mượn thì sao trong cặp Già, Trẻ chỉ bỏ Trẻ mà giữ Già, còn trong cặp Ăn, Uống chỉ bỏ Ăn mà giữ Uống.
Thật ra Già và Trẻ đều là tiếng Mã Lai.
Việt Nam: |
Trẻ |
Mã Lai đợt I |
Mường: |
Tlẻ |
|
Khả Lá Vàng: |
Plẻ |
*
* *
Việt Nam: |
Già |
Mã Lai đợt II |
Thái: |
Kà |
|
Mường: |
Gia |
|
Khả Lá Vàng: |
K’rà |
|
Mạ: |
Kra |
|
Bà Na: |
Kra (Người già) |
|
Bà Na: |
Ya (Bà già) |
|
Mã Lai Célèbes: |
Ya |
|
Các đảo Mã Lai khác: |
Tu À |
Miền Nam có một tỉnh từ Sằn dã, có nghĩa là đồng quê, quê mùa giản dị, mộc mạc. Ông Lê Ngọc Trụ viết rằng Sằn Dã do Điền Dã biến ra nhưng tại sao trong hai chữ Hán Việt, chỉ có một chữ Điền là bị biến còn chữ Dã thì không?
Tự điển Huỳnh Tịnh Của thì nói Sằn là cây Tế Tân dùng làm thuốc đau răng. Như vậy nguồn gốc của Sằn, theo Huỳnh Tịnh Của thì lại còn khác hơn ông Lê Ngọc Trụ nữa.
Thuyết của ông Huỳnh Tịnh Của mới nghe tưởng như là hữu lý hơn bởi ta không tin rằng Điền biến ra Sằn thì ta cũng phải tin rằng Sằn là Sằn. Nhưng thử hỏi cây Sằn có phải là tượng trưng cho đồng nội, cho đồng quê của miền Nam hay không?
(Vâng, sằn dã là từ ngữ riêng do các nhà nho miền Nam đặt ra chớ Trung Hoa và miền Bắc không có).
Ta có thể trả lời không cần suy nghĩ rằng cây Tế tân không bao giờ tượng trưng cho đồng nội miền Nam hay miền Bắc miền Trung gì hết thì các cụ xưa không tạo ra một từ ngữ với loại cây đó.
Sự thật thì tĩnh từ nầy bị viết sai chính tả. Nó là Sàn dã, chớ không phải là Sằn dã. Sàn là chữ nho, có nghĩa là hèn mọn, Sàn dã là Đồng nội hèn mọn của tôi, nói theo lối quá khiêm nhượng của Trung Hoa về những gì chỉ mình, chỉ quê hương mình.
Sàn dã là thôn quê hèn mọn của tôi, nghĩa ban đầu là thế.
Ông Lê Ngọc Trụ nói Làng do Hán Việt Hương mà ra. Có ai tin nổi Hương biến âm thành Làng hay không? Riêng chúng tôi, chúng tôi thấy Làng do tiếng Mã Lai T’Lang mà ra, và quyển sách nầy cốt chứng minh rằng dân ta gốc “Mã Lai” chứng minh bằng nhiều chứng tích chớ không phải chỉ có danh từ Làng mà thôi đâu.
Tổ tiên ta xưa có tiếng Lang có nghĩa là fiel féodal, mà cho đến ngày nay, người Mường còn dùng, họ cũng còn Quan Lang (Chef du fief) y như tổ tiên ta xưa.
Danh từ Mã Lai T’Lang cũng có nghĩa y hệt như vậy và hiện vẫn còn được người Mã Lai dùng.
Làng của ta gồm nhiều ấp, Lang của Mường và T’lang của Mã Lai cũng gồm nhiều ấp. Đó là thái ấp (fief féodal) bé tí ở Hồ Nam hồi cổ thời của chủng Mã Lai.
Giáo sư viết rằng Đũa do chữ Hán Trợ mà ra. Có thể nào mà âm Tr biến thành Đ được hay không chớ?
Sự thật thì Đua thì tiếng Mã Lai mà ta biến thành Đôi rồi thành Đũa, vì chính nó có nghĩa là Hai, là Cặp. Còn Đôi đũa thì chính người Mã Lai họ nói là Đua Đua.
Giáo sư lại nói Vá áo do Hán Việt Bổ Y mà ra, Bể vỡ do Hán Việt Phá mà ra. Mổ xẻ do Phẫu mà ra, Giống do Tượng mà ra, Khéo, Giỏi do Tài mà ra, Xuôi do Lưu mà ra, v.v.
Đọc những tiếng Hán Việt mà ông Lê Ngọc Trụ đưa ra để chứng minh, đọc theo tiếng Tàu giọng Quan Thoại, giọng Mân hay giọng Quảng gì, cũng không giống gần hay giống xa tiếng Nôm của ta chút nào.
Ông nói tiếng Áo do Y mà ra. Nhưng không hề thấy âm Y của Hán Việt biến thành âm Ao của Việt Nam lần nào hết. Sự thật thì ta đã mượn tiếng đó, nhưng Áo là do Áo của Tàu, chớ không bao giờ do Y.
Thấy rõ là giáo sư thấy hơi giống rồi tổng quát hóa thành một cái luật. Còn hễ có vay mượn mà không giống giáo sư lại cho rằng không có vay mượn. Thí dụ giáo sư nói Tủ là tiếng Việt Nam. Nhưng Tủ lại đúng là vay mượn của Tàu. Họ đọc là Tu, bình dân ta nhại gần đúng là Tủ nhưng các nhà nho ta thì đọc sai quá xa là Độc, vì một lẽ bí mật đã nói đến rồi ở trường hợp tiếng Pín được nhà nho đọc là Tân mà không là Bến như bình dân.
Rồi cứ cái đà ấy ông viết Bể vỡ do Phá mà ra. Giống do Tượng. Tốt mã do Mỹ, Vùi lấp do Bồi, Cái giùi do Chuy, Dễ do Dị. (Nhưng Khó thì lại thuần Việt. Ấy, cũng giống trường hợp Trẻ già và Ăn uống, trong một cặp, dân Lạc Việt cũng vay mượn có một tiếng mà thôi). Chùa do Tự, Chờ do Trữ.
Kỵ biến thành Đám giỗ.
Nhưng Kỵ Mã lại biến thành Cỡi ngựa.
Chưa bao giờ thấy âm K của Tàu biến thành âm G của ta, nó chỉ có thể biến thành C như trong Cỡi mà thôi, nhưng lại không có bằng chứng là ta không biết cỡi ngựa trước khi tiếp xúc với Tàu.
Có ba từ làm cho ta nghi ngờ lắm là Chèo, Chống và Chở, mà giáo sư cho rằng do Trạo, Kháng và Tải mà ra.
Dân Việt nổi danh vô địch về thủy vận, giỏi hơn Tàu nhiều lắm hồi thượng cổ, thì sao ta phải học ba tiếng đó của Tàu? Mà âm Kh của Tàu cũng không thấy biến thành âm Ch của Việt lần nào hết.
Ông viết Lưu của Tàu biến thành Xuôi của Việt, lại biến ra Làu (thuộc làu làu) của Việt. Thế thì một âm L của Tàu biến thành lu bù âm của ta được hay sao.
Mõm chó theo ông thì do chữ Vần của Tàu.
Ta không có danh từ Mõm chó nữa, thì ta không có ngôn ngữ và dân tộc Việt không có, và đúng ta là Tàu như sử gia Nguyễn Phương đã nói. Nhưng bằng chứng ở đâu để cho rằng Mõm chó do Vẩn mà ra?
Ông nói rằng Ngực do Ức của Tàu mà ra, nhưng người Tàu chỉ cái Ngực bằng tiếng Hún, Siung và viết ra chữ thì mới hay đó là chữ Hung. Không có nhóm Trung Hoa nào mà nói Ức, Óc, Ích gì hết.
Đã bảo giáo sư không tìm tài liệu trong ngôn ngữ mà dân chúng đang nói, nếu có, giáo sư sẽ thấy rằng không có nhóm Trung Hoa nào nói Ức hết, mà chỉ nói Hung thôi, vì cái lẽ giản dị rằng Ức không phải là Ngực. Trong tiếng Việt, Ức chỉ là một điểm nhỏ trên ngực, còn trong Hoa ngữ thì Ức là Phía trước ngực, cũng như Xan là bữa ăn, chớ không phải là Ăn.
Chữ Hung của Tàu có hai nghĩa: Poitrine, Sternum. Còn Ức chỉ là Thorax mà thôi. Còn trong Việt ngữ thì:
Sternum = Mỏ ác (Bắc)
= Chớn thủy (Nam)
Chớn thủy tương đương với Ức của Tàu đấy.
Nếu thấy trong sách hai danh từ giống nhau rồi đặt ra mối liên hệ giữa hai danh từ đó thì một người Pháp đã làm rồi, Đại tá H. Fray, nhưng với tánh cách đùa cợt mà thôi:
Con voi (Việt) = Convoi (Pháp)
Nhưng các convoi ngày xưa thì không hợp thành bằng con voi mà bằng con lạc đà.
Trường hợp của Ngực giống hệt trường hợp của Mắt và Nhà. Ai cũng nói hai danh từ Mắt và Nhà do Hán Việt Mục và Gia mà ra, kể cả giáo sư Lê Ngọc Trụ. Nhưng người Trung Hoa không bao giờ chỉ con mắt bằng tiếng Mục mà họ chỉ bằng tiếng Nhãn, và Gia không hề có nghĩa là cái nhà. Gia hàm ý gia đình. Luôn luôn người Tàu dùng danh từ Ốc để chỉ món kiến trúc đó.
Người ta nói Nhãn khoa chớ không ai nói Mục khoa. Người ta nói Kiến ốc cục chớ không ai nói Kiến gia cục.
Mắt do Mã Lai Bách Việt Mata mà ra, còn Nhà cũng thế.
Việt Nam: Mắt
Mạ: Maht
Mã Lai: Mata
Tây Tạng: Mag
Việt Nam: Nhà
Mường: Nha
Kơ Yong: Nyia
Yêh: Niơ
Khả Lá Vàng: H’Nơm
Sơ Đăng (Kong Bring): Hnhây
Rơn Gao: Hnyê
Mamêt: N’a
Ông Lê nói tiếng Vạc là cái Đỉnh do Hoạch của Tàu mà ra và Hoạch có nghĩa là cái chảo ba chơn. Nhưng tra tự điển Từ Hải thì thấy sách ấy nói Hoạch là cái bồn lớn không chơn, hoặc cái bình lớn không chơn, có vẽ hình hẳn hòi.
Trong cổ vật Đông Sơn, dân Lạc Việt có cái nồi ba chơn thì họ có danh từ Vạc là chuyện dĩ nhiên, không cần bắt họ mượn của Tàu hay của ai cả.
Việc kiểm soát bằng tự điển Tàu khiến ta đâm nghi ngờ ông Lê Ngọc Trụ cố ý lôi kéo liều lĩnh để cho thuyết của ông được thành thuyết với nhiều bằng chứng.
Thật vậy, sau tiếng Hoạch, ta tra thử vài tiếng khác. Ông viết rằng danh từ Xương của Việt Nam do Khang Hán Việt mà ra, và Khang cũng đọc là Xang. Nhưng trên thực tế thì không có vùng nào ở Việt Nam mà người ta đọc Khang là Xang cả. Xương do đâu mà ra, ta sẽ thấy ở các biểu đối chiếu.
Ông nói Xảo của Hán Việt cũng đọc là Khảo để kết luận rằng Khéo do Khảo mà ra. Nhưng không có vùng nào đọc Xảo là Khảo cả.
Cứ làm như thế mãi rồi thì không còn danh từ nào là thuần Việt được nữa.
Việc bắt tiếng Việt làm bà con với tiếng Hán Việt rất là phiêu lưu mạo hiểm. Có hai tiếng Hán Việt Thủ và Đầu. Thủ, Trung Hoa đọc là Sầu, Sẩu, Sùi, Đầu họ đọc là Thủ, Thầu, Tháo.
Mặc dầu sáu lối đọc Trung Hoa về hai tiếng Hán Việt ấy đều hơi giống tiếng Nôm Đầu của ta, thế nhưng ai dám chắc Đầu của ta gốc Trung Hoa hay không? Nhìn vào bản đối chiếu những danh từ chỉ các bộ phận trong thân thể con người dưới đây, ta đâm ngờ. Ta có đủ các danh từ, chỉ trừ cái Đầu là nghĩa làm sao? Có thế nào ta mê tiếng Tàu mà chỉ mê có tiếng Đầu, còn tay, chơn, mắt, mũi thì không mê hay chăng?
Thuần Việt |
Hán Việt |
Mân Việt |
Việt Nam Hải |
Quan Thoại |
Tóc |
Phát |
Hoặc |
Fatt |
Fạ |
Đầu |
Thủ |
Xùi |
Xẩu |
Xầu |
|
Đầu |
Tháo |
Thầu |
Thủ |
Cổ |
Cảnh |
Kẹ |
Kẻng |
Chiều |
Mặt |
Diện |
Mil |
Mil |
Mél |
Trán |
Ngạch |
Hía |
Ngạc |
Ngớ |
Mắt |
Nhãn |
Ngán |
Ngạl |
Ièl |
Mũi |
Tỵ |
Phì |
Pì |
Pi |
Lỗ mũi |
Tỵ khổng |
Phì khang |
Pì có |
Pi khùng |
Tai |
Nhỉ |
Hỉ |
Dii |
Ơl |
Lỗ tai |
Nhỉ khổng |
Hỉ khang |
Dii có |
Ơ khùng |
Miệng |
Khẩu |
Kháo |
Hẩu |
Khù |
Môi |
Thần |
Xún |
Xuần |
Xài |
Râu |
Tu |
Txiu |
Xúa |
Xú |
Má |
Hạp |
? |
? |
? |
Răng |
Nha |
Ghế |
Ngà |
Yạ |
Lưỡi |
Thiệt |
Chíi |
Li |
Xửa |
Mình |
Thân |
Xink |
Xál |
Xil |
Ngực |
Hung |
Hênk |
Hún |
Siung |
Bụng (B ngoài) |
Phúc |
Pậc |
Phục |
Phủ |
Lưng |
Bối |
Bùê |
Pui |
Pi |
Tay |
Thủ |
Txiú |
Xẩu |
Xù |
Chơn |
Cước |
Kha |
Cượk |
Chèo |
Bắp vế |
Thối |
Thúi |
Pỉ |
Thùi |
Đầu gối |
Tất |
Xik |
Xách |
Xưa |
Da |
Bì |
Phuế |
Phì |
Pia |
Lông |
Mao |
Mó |
Mù |
Mao |
Khi hai bà Trưng ra lịnh chặt đầu một viên tướng Tàu, thật không rõ bà nói làm sao cho được khi mà dân ta chưa vay mượn được tiếng Đầu của Tàu.
Theo chúng tôi, sở dĩ Đầu của ta hơi giống của Tàu, là chỉ vì sự trùng hợp ngẫu nhiên. Và chúng tôi nói thế không có gượng gạo chút nào hết.
Trung Hoa có đại danh từ Pàpá để con xưng hô với cha (danh từ của họ là Fùxíl, tức Phụ thân).
Nhưng Ấn ngữ cũng có tiếng Pa vừa là danh từ để chỉ cha, vừa là đại danh từ dùng để con xưng hô với cha.
Có ai dám bảo rằng Quan Thoại đã học theo Ấn ngữ hay không? Hoặc Ấn ngữ đã học của Hoa Ngữ?
Hẳn là không. Nhưng mà khi Việt hơi giống Tàu là tức thì bị xem là cóp của Tàu, không có ngoại lệ.
Chúng tôi nói rằng sự gán ghép ấy phiêu lưu mạo hiểm vì càng khám phá, càng thấy mỗi ngày sự sai lạc, mà một thí dụ sau đây rất là điển hình.
Giáo sư họ Lê nói động từ Đâm do động từ Châm của Tàu mà ra (trang 57, bản in 1959).
Cho tới nay thì giới khảo cổ Tây lẫn ta đều quan niệm rằng người Mường là người Cổ Việt bất hợp tác với Trung Hoa, rút lên rừng mà ở. Sự kiện bất hợp tác hẳn phải kéo theo sự kiện không chịu ảnh hưởng. Và quả thật thế, mặc dầu một số người Mường hiếm hoi có học chữ Nho, họ vẫn không chịu ảnh hưởng của Tàu như người Việt ở đồng bằng.
Năm 1962, nhà khảo cổ Lê Văn Lan đã lên xứ Mường Phú Thọ để khảo sát cách sử dụng trống đồng thì ông thấy người Mường ở đó đánh trống y hệt như hình khắc trong trống đồng, tức lấy gậy to mà đâm vào mặt trống, lối đánh kỳ dị ấy khiến thuở nghiên cứu trống, các nhà khảo cổ Âu Châu rất phân vân và nhiều nhà cho rằng đó là giã gạo, chớ ai lại đánh trống lạ lùng như vậy.
Ấy, người Mường gọi động tác đâm gậy vào mặt trống như vậy là Chàm, mà Chàm trong ngôn ngữ của họ, có nghĩa là Đâm của ta. Đánh trống đồng, họ nói là Chảm thau, tức Đâm trống thau.
Giã gạo theo lối đó, tức giã theo thời cổ, họ gọi là Chàm ló tức Đâm lúa, Chọt lúa của ta, hoặc Chàm Đuống, tức Chọt gạo.
Vậy Đâm do Chàm mà ra, đó là tiếng Lạc Việt thời tiền Mã Viện. Không thể bảo rằng Chàm cũng chỉ là biến thể của Châm y như Đâm bởi người Mường không có chịu ảnh hưởng của Trung Hoa.
Hơn thế danh từ Châm của Trung Hoa chỉ có nghĩa là cây kim, sau thêm cái nghĩa dùng kim để chích. Thế thì vật dùng để châm, tương đối nhỏ, nhọn và ngắn (cây kim thời thạch khí bằng đá, nhưng vẫn nhọn, nhỏ và ngắn) còn cái vật mà dân ta dùng để đâm, để chọt gạo lại dài, mà không được nhọn, mà công việc thì cũng không phải là chích.
Người Mường nói Chàm, và một số lớn các dân tộc Cổ Mã Lai cũng nói tương tự như thế:
Người Sơ Đăng nói Tam
Người Chàm nói Tơm
Đâm, Chàm, Tum, Tơm thấy rõ là đồng gốc, mà là gốc cổ Mã Lai, chớ không phải là gốc Tàu Châm, vì Châm chỉ một động tác khác mà vật dụng dùng để Châm cũng khác với vật dụng dùng để Chàm.
Người ta cứ bị ám ảnh rằng Tàu văn minh ảnh hưởng đến mọi dân tộc mà quên mất sự kiện rằng Tàu đã vay mượn lung tung. Thí dụ ở Đông Dương (chớ không riêng Việt Nam) có danh từ Ô Dước, Hoa Nam gọi là Oyo. Nhưng Hoa Nam lại không có cây Ô Dước như Đông Dương. Như vậy ai học của ai?
Trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, có ba danh từ mà dịch giả cho rằng không biết là gì.
Danh từ thứ nhứt là Am La. Danh từ đó đã được chúng tôi giải thích rồi.
Danh từ thứ nhì là La Nga, dịch giả biết rằng đó là chiếc bành voi có mui, nhưng cũng không biết do đâu mà ra. Đó cũng là danh từ mà Trung Hoa vay mượn của Phạn ngữ dưới trào đại Ma già đà. Danh từ Phạn ấy là P’lana.
Danh từ thứ ba thì rất bí. Dân ở Bến Vân Đồn ưa đội nón Tàu. Quan trấn thủ ở đó là Trần Khánh Dư ra lịnh cấm, vì Tàu thường tấn công vào nơi ấy và quân ta sẽ khó phân biệt bạn và thù nên hạ lịnh cho dân phải bỏ nón Tàu, đội nón Ma lôi.
Dịch giả cũng kêu là không biết nón ấy ra sao.
Nên biết rằng Ngô Thì Sĩ là người sống ngang với trào nhà Thanh, nhưng viết sách, lại dùng danh từ đời Hán mà Trung Hoa đã bỏ hơn một ngàn năm rồi, như danh từ Am la đã cho thấy.
Như thế danh từ Ma lôi chắc cũng là danh từ Tàu đời Hán. Dưới đời Hán, Tàu đã biết các đảo Mã Lai rồi.
Cái nón lá nhọn đỉnh của dân ta và của tất cả các dân gốc Mã Lai, được người Mã Lai gọi là Tărăndắc Malaya.
Có lẽ ông Tàu đời Hán đã phiên âm, nhưng bỏ bớt âm, theo thói quen của họ, trong cái danh từ quá dài đó, họ chỉ giữ lại có hai âm là Ma Lôi mà thôi, bởi dân Việt ở Bến Vân Đồn thì ngoài nón Tàu ra không thể đội nón nào khác hơn là nón nhọn đỉnh, biệt phẩm của chủng Mã Lai, mà cho đến ngày nay dân ta còn dùng.
(Một điểm khiến ta phải ngạc nhiên là các sử gia ta, bất kỳ sống dưới đời Minh, đời Thanh gì, cũng dùng danh từ đời Hán cả, thí dụ các ông gọi nước Cao Miên là Chân Lạp. Đó là danh từ mà Tàu đã bỏ từ đời Đường. Nhưng các ông Việt cứ tiếp tục dùng mãi. Ông Tàu bỏ rất hữu lý vì ông Cao Miên đã bỏ và đã tự xưng là Kampuchia, nên ông Tàu đời Đường phiên âm là Cam-Bố-Trí, Cam-Phá-Giá, hoặc Giản-Phố-Trại, cớ sao các ông Việt lại cứ dùng danh từ đời Hán thì thật là khó hiểu).
Trung Hoa đã mượn chữ Phù là cây phù dung để phiên âm Trầu mà họ không có. Phù đọc theo Quan Thoại là Pù hơi giống Plù mà Plù là lối đọc có cái tiếng Trầu của ta mà nay người Mường còn đọc.
Mã Lai Bách Việt chỉ ăn trầu nhiều ở Đông Nam Á mà thôi, còn ở Quảng Đông thì rất ít, vì họ không trồng trầu được. Hơn thế người Quảng Đông ăn trầu, không hề nói rằng họ ăn trầu, mà nói rằng ăn cau: xực pín loòng (Thực tân lang).
Tại sao họ không nói ăn trầu, mà nói ăn cau? Chỉ vì tại họ không có danh từ Trầu. Nhóm Tây Âu là Quảng Đông, có ăn trầu theo Việt Nam, nhưng cũng chẳng có danh từ đó, vì khí hậu bên ấy lạnh, trầu không mọc được một cách tự nhiên, mà nhập cảng cũng không xong. Nhưng tại sao Tàu vẫn mượn Phù để phiên âm Trầu, chi vậy? Chỉ để cho có, vì dân văn minh muốn có tất cả, như Pháp chẳng hạn, họ không hề ăn được trái sầu riêng, không hề dùng danh từ đó, nhưng vẫn phiên âm tiếng Mã Lai Durian và Durion, cho có vậy thôi.
Trầu là tiếng Bách Việt chánh gốc Mã Lai, không hề do Phù của Tàu, mà chính Tàu mượn Phù của Mã Lai:
Việt Nam Kim: Trầu
Việt Nam Trung Cổ: Plù (theo sách của các cố đạo)
Mường: Plù
Cao Miên: Pìu hoặc Mìu
Bà Na: Blao
Sơ Đăng: Grao
Mã Lai Célèbes: Blao
Danh từ Cau của Trung Hoa là Tân lang thật đáng ngờ là của họ. Họ không có cây trầu cây cau gì hết thì đó chỉ có thể là tiếng phiên âm mà thôi.
Quả thật Tân lang không có nghĩa gì cả mà tiếng Mã Lai chỉ cây cau lại là Pin nang mà Quan Thoại đọc Tân lang là Pấn lạl. Pin nang = Pấn lạng. Có phải là Tàu phiên âm hay Mã Lai học của Tàu. Đó là trường hợp Dừa và Da. Ở Mã Lai có cau, ở Trung Hoa không có cau.
Đành rằng hiện nay ngôn ngữ ta đầy dẫy danh từ vay mượn của Tàu, không ai muốn chối sự kiện đó, nhưng đó là những tiếng vay mượn về sau để chỉ những vật, những việc, những ý mà trước đời Hán, ta không biết diễn ra. Đời sống thuần nông nghiệp xen lẫn với việc săn bắn, câu kéo của dân Lạc Việt, hẳn là không bị bận rộn về cái xe. Bị nhà Hán trực trị một thời gian, ta mới có xe, nên mới biến xé, xẻ ra xe, nhưng những gì ta có trước đó, ta đã có danh từ để chỉ.
Cho đến những vật lạ ta chỉ mới thấy lần đầu dưới đời Tần, mà lắm cái ta tạo ra tiếng, hay vay mượn ở nơi khác, chớ không vay mượn của Tàu thì đủ biết rằng ta không là Tàu. Chẳng hạn như tiếng Cừ là Kinh.
Nhà Tần phát minh việc đào kinh lớn gần như sông, và họ gọi là Cừ (sau nầy họ gọi là Vận tải hà), nhưng ta không bao giờ dùng cả hai danh từ cũ và mới của họ, mà gọi là Kinh hoặc Sông đào mà thôi. Tại sao người Tàu ly khai ở Việt Nam lại dùng danh từ khác người Tàu Quảng Đông, Phúc Kiến, người Sơn Đông? Là tại họ không phải là Tàu.
Nhà bác học ngôn ngữ M. Karlgren, cho biết rằng hồi đầu Tây lịch, Quan Thoại đọc chữ Phật là But, chớ không có đọc Fa hay Fô như ngày nay. Đến thế kỷ thứ 7 thì họ biến BUT ra Vuet, rồi sau biến VUET và FO vào thế kỷ nào, không tìm được dấu vết nữa.
Thế nghĩa là tiếng Quan Thoại ngày nay đã qua nhiều cuộc biến giọng. Nhưng xin đừng dựa vào nhận xét trên đây mà cho rằng tiếng Việt ngày nay đích thị là tiếng Quan Thoại cổ, đã biến dạng đi rồi, thế nên nay ta đối chiếu Việt và Quan Thoại, ta mới thấy khác nhau.
Không, ông M. Karlgren đã tìm được dấu vết của rất nhiều danh từ, động từ bị biến dạng, trong đó chẳng hạn Xúi, là Xúi là Xủi gì đó chớ không bao giờ là Nức là Nực là Nược mà cho rằng tiếng Nước của ta có thể là Quan Thoại cổ thời.
Ta đã theo dõi Trung Hoa rất sát, hễ họ biến thì ta cũng biến, chớ không phải là nhà quê, học được một lần rồi thôi và tiếp tục nói tiếng Tàu cổ rồi nay lại ngỡ tiếng Tàu cổ đó là tiếng Việt khi đối chiếu với Kim Quan Thoại, thấy là khác, bằng chứng là khi họ biến But ra Fo, ta cũng biến Bụt ra Phật.
Trường hợp người thời nay nói tiếng xưa vẫn có xảy ra, thí dụ dân Gia Nã Đại nói tiếng Pháp của thế kỷ thứ 18, nhưng đó không phải là trường hợp của ta vì ta cứ giữ liên lạc với Trung Hoa hoài hoài.
Những danh từ mà họ biến, ta không buồn biến, cũng được biết. Việt ngữ theo bén gót Quan Thoại, chớ không hề nhà quê, miền nầy không theo thì miền khác theo.
Chúng tôi xin đơn cử ra thí dụ cái Moustiquatre. Cái đó Quan Thoại thời Mã Viện gọi là Wát cháng tức Mấu trướng, Mấu là con muỗi, trướng là bức màn dài. Giao Chỉ dĩ nhiên là không có danh từ trướng vì họ không biết dùng cái màn dài trước khi Mã Viện đến.
Nhưng ta vay mượn của Tàu Quan Thoại một cách thông minh kinh khủng, ta không nói là wát cháng mà nói là wát màn. Màn là gì? Màn là tiếng Quan Thoại (chữ nho đọc là Mục) chỉ cái lưới (cương mục).
Quả thật thế. Cái Moustiquaire, thật ra, đâu có phải là trướng mà đó là năm cái trướng may dính lại, nó giống cái lưới cá (Màn) chớ không có giống cái trướng. Người Tàu hồi đó còn nghèo danh từ.
Có người ngỡ ta mượn tiếng Mạn là cái màn ngắn. Nhưng không. Mạn là màn ngắn che cửa sổ, họ đọc là Mó, chỉ có Mục họ mới đọc là Màn.
Vậy ta theo Tàu, nhưng theo rất là tài tình, ta gọi cái đó là cái Văn Màn chớ không gọi là Văn trướng hay Văn Mó. Sau vì lười biếng, ta bỏ mất chữ Văn chỉ còn Màn.
Nhưng đến nhà Minh thì Tàu đã có danh từ khác, đó là danh từ mà Quan Thoại đọc là Mung viết một bên Cân một bên Mông để thay cho wát cháng. Ta cũng biết và cũng theo. Ta bắt đầu theo tại Hội An mà nhà Minh bị nhà Thanh đuổi xuống đó. Từ Hội An đến Cà Mau đều gọi cái đó là Mùng, rồi Mùng lộn ngược lên trên Nghệ An nữa. Tóm lại, ta không có quê một chút xíu nào hết, trong việc vay mượn tiếng Tàu.
(Riêng Bắc Việt thì, vì đã quá quen với Màn, không sửa đổi như những người chịu ảnh hưởng của Tàu về sau là dân Trung Việt và Nam Việt).
Sự tồn tại của ngôn ngữ Lạc Việt, chứng tỏ rằng dân tộc ấy không bị diệt. Hơn thế, nó còn là yếu tố chủ lực của dân tộc Việt Nam ngày nay, vì lai giống với Chàm hay Thái, hay Cao Miên hay gì cũng cứ là với chủng Mã Lai với nhau cả.
Bây giờ nếu loại bỏ tất cả những danh từ vay mượn của Tàu quá nhiều, dân Việt Nam vẫn cứ trao đổi ý nghĩ với nhau được như thường, chỉ có cái là không diễn được những ý khó về văn hóa, học thuật mà thôi.
Ta không chối đã vay mượn quá nhiều của Tàu, cũng không bị mặc cảm nghèo nàn, nhưng ta phải thấy rằng cái căn bản của ngôn ngữ ta vẫn là Lạc Việt. Mà như vậy tức ta không phải là người Tàu.
Người Trung Hoa có thể tự lập ở đây và tự xưng là Việt Nam, nhưng không bao giờ họ lại nói tiếng Lạc Việt và dùng văn phạm Lạc Việt. Nếu phải vay mượn của Lạc Việt, họ chỉ mượn vài danh từ hiếm hoi mà họ không có, chớ sao lại vay cái mặt, cái má, cái mũi, lỗ mũi, cái môi, cái miệng, cái răng, cái cổ, cái ngực, cái bụng, cái lưng, chơn, tay, toàn là danh từ mà họ đã có?
Năm 1944, dịch Đại Việt sử ký toàn thư ngoại kỷ của Ngô Sĩ Liên, nhà nho Nhượng Tống viết: “Trong bao nhiêu năm chung đụng với người Tàu, sự lẫn giống cố nhiên là có. Thế nhưng bảo chúng ta hoàn toàn là con cháu khách buôn, các lính thú ở Tàu sang đây như ý nhiều người, thì quyết là không đúng. Vì nếu như thế, sao tiếng nói của chúng ta lại khác hẳn của Tàu về tự pháp? Nếu cùng chung một giống tiếng thì nói có thể khác nhau về phương ngôn, về thổ âm, chớ không thể khác nhau về tự pháp như thế được.
Đây là ông nhà Nho, nhưng ông nhà Nho nầy không kém về khoa học chút nào, khi ông đưa ra luận cứ tự pháp (ý Nhượng Tống muốn nói cú pháp đó).
Điều nên chú ý là theo Nhượng Tống thì trước năm 1915, đã có người nghĩ như sử gia Nguyễn Phương rồi, nhưng họ không dám viết ra vì thiếu bằng chứng. Sử gia Nguyễn Phương dám viết nhưng bằng chứng thì chỉ là một lời khẳng định.
Bác bỏ nguồn gốc Trung Hoa xong, ta thử tìm về nguồn Mã Lai xem sao, mặc dầu chúng ta đã có chứng tích mạnh mẽ là chỉ số sọ, cổ sử Trung Hoa và khoa khảo tiền sử và các khám phá về dấu vết Mã Lai trong xã hội ta ngày nay.
Chúng tôi đã nói qua về cái khó của việc chọn danh từ để đối chiếu và cái khó trong việc chọn phương pháp.
Nhưng học các ngôn ngữ Á Đông tưởng đâu dễ như học Ăng Lê để làm thông ngôn cho Huê Kỳ, nhưng cũng khó không kém.
Chúng tôi đã mất ba tháng để biết nguồn gốc của độc một tiếng, đó là tiếng Xiêm, quốc hiệu cũ của nước Thái Lan ngày nay, vì trong tự điển Thái Lan - Anh không có tiếng đó, bất kỳ dưới hình thức biến dạng nào, Viêm, Tiêm, Tim, Siêm, Sám đều không có.
Hời hợt thì có thể nói đó là danh xưng Tiêm của Tàu mà ra. Khá hơn, có thể nói rằng đó là danh tự xưng của nước Xiêm, không biết do đâu mà ra.
Cả hai người đều nói đúng, nhưng chỉ ở giai đoạn thứ tư là giai đoạn Tàu biến âm, và giai đoạn thứ ba là giai đoạn Xiêm tự xưng.
Đó là một danh từ Mã Lai đợt II mà dân Thái không có và không hiểu vì họ là Mã Lai đợt I. Danh từ đó là Săm bu, có nghĩa là Kẻ lạ, hoặc tù binh ngoại quốc.
Trong ngôn ngữ Chàm và Cao Miên, Săm bu biến thành Syâm.
Dân ta cũng có một phần đợt II, nhưng ta không có mượn danh từ đó của đợt II, nên chỉ còn dùng danh từ đó trong một trường hợp độc nhứt để chỉ tên xưa của nước Thái Lan, và ta biến thành Xiêm.
Nhưng tại sao Thái Lan lấy quốc hiệu xấu đến thế: Nước Tù Binh?
Muốn biết tại sao dân Thái lập quốc ở Thái Lan, lại tự gọi nước của họ là Tù binh thì phải học sử của cả năm nước Chàm, Cao Miên, Pégan, Pyu và Thái Lan.
Pégan là nước của người Pégon, tức người Môn, tức tổ tiên của người Miến Điện, mà là con cháu của Khuyển Nhung thời Tây Chu bên Tàu, tức Lạc bộ Chuy.
Nước ấy khi xưa chạy dài từ Nam Miến cho đến Trung Thái Lan ngày nay, bị Phù Nam chiếm làm thuộc địa và lọt vào tay Cao Miên khi Cao Miên diệt Phù Nam.
Thuở đó dân Thái chưa xuất hiện tại Đông Nam Á.
Pyu là nước của người Pyu cũng là người Môn, cả hai thứ người ấy đều là tổ tiên của người Miến Điện ngày nay và nước của họ chạy dài từ Bắc Miến đến Bắc Thái Lan ngày nay và cũng bị Cao Miên diệt quốc.
Ngày xưa, tù binh Tàu, Việt, Cao Miên, Mã Lai đều được người Chàm chạm hình trên các đền Chàm và đều ghi bằng chữ quốc ngữ Chàm mà đọc ra thì là Syâm. Chắc chắn là Lạc Việt cũng có danh từ đó (vì ta sẽ thấy Lạc Việt và Chàm là một), nhưng vì lỡ đánh mất khi bị Tàu trực trị.
Khi Cao Miên xây cất đền Angkor thì chữ Syâm khắc ở đền Angkor với văn tự Khơme (quốc ngữ), chỉ một thứ người ăn mặc rất khác. Đó là người Thái mới xâm nhập.
Nhưng cuộc phiêu lưu chưa xong.
Đó là dân Thái xâm nhập Cao Miên, chớ không phải là giặc thật.
Họ bị Tàu lấn đất dữ quá, nên bỏ địa bàn Vân Nam và Quảng Tây di cư xuống thượng du Bắc Việt và hai nước Pégan, Pyu.
Vì không phải là giặc thật nên đám tù binh nầy rồi được trả tự do cho sống lẫn lộn với dân chúng ở thuộc địa Pégan và Pyu của Cao Miên nhưng vẫn cứ được Cao Miên và Môn gọi là Syâm hoài.
Rồi các đợt xâm nhập khác nối tiếp theo, càng ngày càng đông cho đến một khi kia thì họ nắm hết các then chốt xã hội và một lãnh tụ của họ thừa dịp Cao Miên lủng củng nội bộ, lập quốc càn, lập ra một nước gọi là Syâm. Họ chẳng biết Syâm là gì nên rồi họ cũng tự xưng là Syâm theo thói quen mà Môn và Cao Miên gọi họ.
Ta gọi họ là Xiêm là biến âm, còn Tàu thì gọi họ là Tiêm là phiên âm. Ta không hề bắt chước Tàu, trong trường hợp nầy.
Nhưng học sử của họ không, cũng chưa đủ, mà còn phải học về nghệ thuật của họ về các tượng đá của họ mà trên đó có khắc hình và khắc chữ, tốn quá nhiều công phu, mà phải biết được ngữ nguyên có độc một danh từ.
(Truyền thuyết của ta bảo rằng xưa kia nước ta tên là Xích Quỹ, Nhượng Tống phản đối, cho rằng không có lý nào mà một dân tộc lại lấy quốc hiệu xấu đến thế và đó là chuyện láo khoét.
Nhưng Thái đã tự xưng là Nước tù binh thì ta vẫn có thể tự xưng là Nước Xích Quỹ lắm, hơn thế, chúng tôi sẽ cho thấy lý do chánh đáng và hữu lý tại sao chúng ta lại xưng là Xích Quỹ. Cái gì cũng có thể xảy ra được cả).
Trong chương chứng tích chủng tộc, chúng tôi có viết rằng người Đại Hàn là rợ Tam Hàn đời xưa, từ Đông Bắc Trung Hoa di cư đến xứ họ ngày nay, mà rợ Tam Hàn là Lạc bộ Trãi. Người Nhựt cũng thế, tức cả hai đều là Mã Lai đợt I, và được Tàu đời Tây Chu phiên âm đúng hơn là Lai Di. Lạc chi là một danh xưng phiên âm sai của buổi đầu. Điều đó đã được khoa chủng tộc học thế giới xác nhận.
Nhưng chúng tôi đọc thấy trong quyển L’Art de la Chine, de la Corée et du Jupon của nhà xuất bản Larousse câu sau đây: “Ngôn ngữ Triều Tiên gốc ở núi Thiên San (Tây Vức) còn ngôn ngữ Nhựt Bổn thì cũng đồng loại với ngôn ngữ Triều Tiên.
Nhưng nghiên cứu ngôn ngữ Nhựt Bổn, chúng tôi thấy ngôn ngữ ấy gồm 65 phần trăm tiếng Tàu đọc sai và 35 phần trăm tiếng Mã Lai, không có tiếng Tây Vức nào trong đó hết.
Như vậy câu trong sách của nhà Larousse không làm cho chúng tôi mâu thuẫn ở chương nầy vì câu đó sai. Sở dĩ tiếng Tàu tràn ngập ngôn ngữ Nhựt vì người Nhựt bị xâm lăng văn hóa, như sẽ nói ở cuối chương, hay nói cho đúng, họ tự động làm Tàu kể từ đời nhà Đường về kỹ thuật, công nghệ, canh nông, hành chánh, chánh trị, tôn giáo, học thuật, mà làm một cách hẳn hoi cẩn thận đúng theo thói quen của họ, chớ không phải làm lấy lệ như dân ta vì vậy mà họ mất gần hết ngôn ngữ Mã Lai của họ. Tuy nhiên, những danh từ căn bản của họ vẫn còn là danh từ Mã Lai.
Cũng nên biết rằng ngôn ngữ Tây Vức cùng với ngôn ngữ Ấn Độ, Hy Lạp và La Mã đồng gốc tổ với nhau, còn ngôn ngữ Đại Hàn và Nhựt Bổn thì nhứt định không liên hệ gì tới bốn nhóm ngôn ngữ da trắng nói trên. Sách Laousse cũng tầm phào chớ không phải luôn luôn đúng đắn.
Kể cả ngôn ngữ Hà Di (Aino) là ngôn ngữ của thổ trước da trắng ở Nhựt, đã bị Nhựt tiêu diệt, ngôn ngữ Hà Di cũng chẳng liên hệ đến ngôn ngữ của các chủng da trắng phương Tây.
Nhưng hóc búa nhứt là các cổ ngữ. Chủng tộc học cho biết Cổ Ba Thục là một đại cường quốc Thái, nhưng nó đã bị tướng Tư Mã Thác của chư hầu Tần diệt mấy trăm năm trước Chúa giáng sanh, họ đã thành Tàu hết rồi, còn làm sao mà học được. Nhưng khoa chủng tộc học cho biết rằng họ là một quốc gia Thái mà Thái là Mã Lai, không học không xong.
Còn Quảng Đông là Tây Âu, Tây Âu là Thái, Thái cũng là Mã Lai, cũng chẳng bỏ Tây Âu được. Phúc Kiến là Thất Mân, là Lạc bộ Mã, tức cũng là Mã Lai, thế nên cũng phải học tiếng cổ Thất Mân, mặc dầu đã biết Quảng Đông và Phúc Kiến đều nói tiếng Tàu. Phải học, vì biết chắc họ còn giữ được lối 100 danh từ Mã Lai.
Đừng nói chi chuyện khó, ngay tiếng Thái cũng đủ điên đầu với nó. Họ ghép Phạn ngữ, Thái ngữ và Hoa ngữ để làm một danh từ thì ta còn làm sao mà đủ tĩnh trí được khi học tiếng Thái?
Ngôn ngữ Thái ở Hoa Nam và Ai Lao thì mượn quá nhiều tiếng Tàu, ngôn ngữ Thái ở Vọng Các lại bị Phạn ngữ tràn ngập. Thí dụ một khách sạn sang trọng, họ nói là Prâ-Barom-Mâhá-Ral-Châwâng. Đó là Phạn ngữ, còn dùng làm sao được? Cho đến dân Thái chánh hiệu mà nghe những danh từ Ấn Độ đọc sai đó còn chẳng hiểu gì huống chi ta chỉ tìm gốc Mã ngữ đơn giản mà thôi. Chỉ có tiếng Thái ở sông Đà mới là thuần túy, theo H. Maspéro, nhưng sách cũng lại quá ít, và đi tới nơi thì không thể được, không phải vì tốn tiền xe mà vì đó là đất chiến lược của Bắc Việt, chỉ có trời mà xâm nhập vào đó mới được.
Thế nên chúng tôi đặc biệt chú trọng đến các ngôn ngữ của đồng bào Thượng là thứ người còn thuần túy Mã Lai. Chúng tôi đã đưa ra thí dụ để chứng minh rằng đồng bào Thượng không hề là Cao Miên như các ông Tây đã nói, mà trái lại còn gần gốc Mã Lai hơn Cao Miên rất nhiều.
Học tiếng Chàm, tiếng Thượng, tiếng Thái, tiếng Môn tương đối dễ mà còn bể đầu như vậy. Học tới tiếng Mã Lai thì thật muốn hóa điên. Những ngôn ngữ Mã Lai được các nước Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai Á dùng làm thừa ngữ chánh thức, không thể dùng được, nên có sách nhiều cũng như không, vì ba ngôn ngữ đó bị Phạn ngữ và Á Rập ngữ tràn ngập.
Mã Lai ngữ chánh hiệu, cổ sơ, là phương ngữ của các bộ lạc ở trong rừng sâu, mà chúng tôi không có phương tiện học được.
Chỉ có người Hòa Lan là biết rõ thôi. Thế nên muốn học Mã Lai ngữ cổ sơ, phải có hai quyển tự điển Hòa - Mã và Pháp - Hòa. Thí dụ muốn biết danh từ Lá cây, Mã Lai chính hiệu nói sao, phải tra tự điển Pháp Hòa nơi chữ Feuille xem Hòa nói thế nào. Rồi lại xem tự điển Hòa Mã cổ sơ coi Mã cổ sơ dùng danh từ gì. Tìm một danh từ, mất đến 20 phút đồng hồ, có khi hai tiếng đồng hồ, vì có quá nhiều bộ lạc, mà tự điển không có in để bán, mà nằm trong đủ thứ tạp chí của Hòa Lan, rất khó tìm. Riêng Phi Luật Tân, có hơn 70 phương ngữ khác nhau.
Từ ngày họ thu hồi độc lập, ở cả ba nước đó đều chọn một phương ngữ quan trọng để làm thừa ngữ cho giáo dục và ngoại giao. Sự chọn lựa nầy, khác hẳn ở Ấn Độ, tức không căn cứ trên số đông người nói mà căn cứ trên cái phương ngữ nhiều khả năng nhứt, tức diễn được dễ dàng nhứt những việc trừu tượng, những cảm nghĩ tế nhị.
Ở Anh-Đô-Nê-Xia thì phương ngữ của đảo Java được dùng làm ngôn ngữ chánh thức cho toàn quốc vì đảo ấy xưa kia chịu ảnh hưởng Ấn Độ nhiều, đã lập được một nền văn minh rực rỡ với nhiều sách vở. Ngôn ngữ đó tên là Jawi.
Ở Phi Luật Tân thì phương ngữ Tagal được chọn, Tagal, kém hơn Jawi vì Phi chưa bao giờ có văn hóa cao như Java.
Nhưng đại để cũng y như Việt ngữ, là vay mượn rất nhiều của cái nước khai hóa là Ấn Độ, như ta đã vay mượn của Tàu.
Thế nên muốn tìm gốc Mã Lai của ngôn ngữ, không thể dùng Jawi và Tagal được, mà trái lại, nên lục lạo trong các nhóm Mã Lai cổ sơ không chịu ảnh hưởng Ấn Độ.
Người Hòa Lan và người Anh họ làm tự điển cho các quốc gia Mã Lai, khoa học không thể nào tưởng tượng được. Họ không bao giờ lầm lẫn gốc tổ Mã Lai với những vay mượn của ngoại chủng, mà ngoại chủng nào họ đều có ghi rõ: Phạn, Á Rập, Trung Hoa, Ba Tư (nên nhớ rằng theo khám phá mới nhứt thì dân đi khai hóa các xứ Mã Lai, Cao Miên và Chàm, không phải là người Ấn Độ mà người Nhục Chi đang thống trị hai đại cường quốc Ba Tư và Ấn Độ trước Tây lịch mấy trăm năm).
Những vay mượn lẫn nhau trong các nhóm Mã Lai, họ không gọi là vay mượn nhưng ghi chú là: “Phương ngữ Mã Lai ở…”. Thí dụ làm tự điển Việt Nam thì danh từ Xoài không nên nói là vay mượn của Cao Miên, mà nên làm như họ: “Phương ngữ Mã Lai Khơ Me: Swai, phương ngữ Mã Lai Âu tức Thái Huai”.
Còn Muỗm của Bắc Việt là đích tập hợp vay mượn của Phạn ngữ qua trung gian Thái.
Quả thật thế, Bắc Việt nói Muỗm, Thái vừa nói Huai, vừa nói Muang.
Muỗm vay của Muang mà Muang là vay của Phạn ngữ Mangga. Tàu cũng vay của Phạn ngữ mà nói là Máng (quõ). Đó là Quan Thoại, chớ Quảng Đông thì nói là Moóng (quõ), tức Mang quả hoặc Mông quả.
Chỉ có ba danh từ sau đây mới là danh từ Mã Lai đợt I:
Việt Nam: Xoài
Cao Miên: Swai
Thái: Huai
Mã Lai đợt II ở Nam Dương mượn của Tamoul, Tamoul, tức Mã Lai đợt siêu I, tức Mã Lai di cư trước Mã Lai đợt I Trung Hoa. Đó là danh từ Tamoul Ămpătam, mà Tàu cũng có vay mượn và phiên âm là Am-ba-la.
Trong mấy chục quyển tự điển Âu châu Mã Lai mà chúng tôi tra cứu, họ chỉ lầm có độc một danh từ, thì kể ra sự lầm lẫn hiếm hoi như thế là vô địch rồi vậy.
Đó là danh từ Mã Lai Tẻ, họ bảo là vay mượn của Tàu, nhưng thật ra đó là gốc tổ Mã Lai đợt lưỡi rìu hình chữ nhựt ở Hoa Nam.
Quả thật thế, dưới thời Chu, người Tàu tìm được trà ở Ba Thục. Nhưng họ gọi là Đồ, là Dinh (Bắc Việt gọi là Dánh), chớ không gọi là trà.
Danh từ Quan Thoại Txã chỉ xuất hiện sau khi Tần Thỉ Hoàng đánh xuống Ngũ Lĩnh. Đó là danh từ Âu, tức Thái mà họ vay mượn tại nước Đông Âu (Nam Triết Giang), dân Âu đọc là Txà mà ngày nay hậu duệ của họ là người Quảng Đông còn đọc y hệt như vậy.
Danh từ Tẻ, là danh từ Lạc Việt bộ Mã, tức Thất Mân (Phúc Kiến) mà đa số các nước da trắng vay mượn vì họ tới Áo Môn (Phúc Kiến) trước hơn các nơi khác.
Mà Mân Việt đích thị là Mã Lai đợt II, lưỡi rìu chữ nhựt.
Người Mã Lai Nam Dương nói Tẻ thì không phải là vay mượn của Tàu, mà nói theo gốc tổ Mã Lai lưỡi rìu chữ nhựt ở Mân Việt vậy.
Xin chú ý: Trong các biểu đối chiếu ngôn ngữ Mã - Việt của chúng tôi, khi nào chúng tôi để Mã Lai đơn giản thì tức nhóm Mã Lai nào cũng nói y như thế: Nam Dương, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, bằng như các nơi đó nói khác nhau, chúng tôi mới ghi đích xác xuất xứ.
Thí dụ: Mã Lai: Bônga = Cái Bông (Đóa hoa).
Như vậy có nghĩa là tất cả các đảo Mã Lai đều nói y hệt như nhau.
(Nhưng bông Chămpa thì không được dùng để đối chiếu vì loại bông đó của ta gọi là bông Đại hoặc bông Sứ chớ không gọi là bông Chămpa như người Chàm vì họ là đợt II, nói khác một chút xíu).
Nếu như các địa phương Mã Lai nói khác nhau chút ít, chúng tôi sẽ ghi rõ địa phương nào nói thế nào.
Và xin nhớ rằng:
A) Đảo Célèbes là đất của Mã Lai đợt I, thế nên khi nào một danh từ mà Célèbes có thì kể như đó là danh từ đợt I, nên các nhóm khác là Java, Sumatra, Mã Lai Á, Phi Luật Tân không có, mà Việt Nam thì lại có, vì Việt Nam là Mã Lai hỗn hợp.
B) Những biểu đối chiếu mà không có Mã Lai, Chàm và Gia Rai trong đó, xin quý vị chớ ngạc nhiên. Ba nhóm nói trên, chỉ là Mã Lai đợt II. Mã Lai đợt I tuy đồng ngôn với Mã Lai đợt II, vẫn có một số danh từ riêng.
Trước khi có kết quả của khoa khảo tiền sử và khoa chủng tộc học, không hề ai biết rằng có nhóm Mã Lai đợt I cả, chỉ biết có nhóm II vì họ tự xưng là Mã Lai. Tuy nhiên, nếu các nhà ngôn ngữ như ông H. Maspéro chẳng hạn hoặc ông Cabaton chẳng hạn mà tinh ý một chút xíu, cũng biết các dân tộc sau đây thuộc Mã Lai đợt I: Thượng, Việt, Miên, Miến, Tạng, Thái, vì trong ngôn ngữ của sáu dân tộc đó, có quá nhiều danh từ của Mã Lai đợt I, nhứt là Việt Nam thì gồm đủ cả hai đợt ngôn ngữ.
Ông Cabaton là người độc nhứt trên thế giới đã biết rằng đồng bào Thượng là Mã Lai chớ không phải Cao Miên, nhưng không rõ cớ sao ông lại không biết rằng Việt Nam cũng thế, vì ngôn ngữ Thượng không khác Việt ngữ bao nhiêu.
Ông G. Coedès đã nói một câu rất thông minh và rất bất ngờ: “Ai biết người Lạc Việt của thời hai bà Trưng dùng ngôn ngữ nào thì nguồn gốc của dân tộc Việt Nam sẽ là một vấn đề dễ giải đáp”.
Trong chương nầy, chúng ta tìm biết ngôn ngữ của hai bà Trưng đây. Hơn thế, ta lại biết cả ngôn ngữ của vua Hùng Vương, nó khác hơn một chút xíu.
Đã bảo khoa khảo tiền sử cho ta biết rằng ở xứ ta có hai đợt Mã Lai hỗn hợp, đợt II chính là người Nam Dương ngày nay, thế thì ta lấy tập tự vựng Việt ngữ, trừ đi các tiếng Mã Lai Nam Dương thì lòi ra ngôn ngữ của vua Hùng Vương là người của đợt I.
Mà ngôn ngữ của đợt I của vua Hùng Vương không có gì là bí hiểm. Đó là Môn ngữ, Miến ngữ, Khơ Me ngữ và Thượng Việt ngữ, Tạng ngữ, Nam Ấn ngữ.
Hai bà Trưng vừa nói Chơn (đợt I) mà cũng vừa nói Cẳng (đợt II). Nhưng vua Hùng Vương các đời 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 chẳng hạn thì không hề biết Cẳng, bởi bọn đợt II chưa tới nơi.
Người Chàm, đa số là đợt II, nên chỉ biết Cẳng mà không hề biết Chơn.
Vì gồm đến hai đợt hỗn hợp nên Việt ngữ rất giàu. Chàm cũng thế, nhưng như đã nói, đợt I của họ ở miền Bắc (Lâm Ấp) không liên lạc được nhiều với đợt II (miền Nam) vì nước họ là những cái ô ngăn cách với nhau, chỉ thống nhứt lỏng lẻo về chánh trị mà không thống nhứt về văn hóa, ngôn ngữ miền Bắc không xuống miền Nam được và khi miền Bắc bị chiếm rồi thì họ chỉ còn độc nhứt một đợt phương ngữ mà thôi là đợt II. Tuy đợt I và đợt II cũng có rất nhiều danh từ giống nhau, nhưng đồng thời cũng có nhiều danh từ khác nhau, như Chơn và Cẳng nói trên.
Nhựt Bổn cũng gồm hai đợt, nhưng họ không giàu lắm, và một cuộc hợp chủng nào không rõ, có lẽ là với Hà Di (Aino) làm họ rất nghèo âm. Khi sự nghèo túng ấy trở thành cơ hàn thì khó lòng mà giàu được. Ông Châm Vũ Nguyễn Văn Tần nói rất đúng rằng họ có hàng trăm danh từ đọc là TÔ (tô): Đấu là Tô, Mười cũng là Tô, Chim cũng là Tô, Dây mây là Tô, Cửa là Tô, Đầu là Tô, Đáp lời là Tô, thì có giàu cũng hóa nghèo xơ.
Riêng cổ ngữ Tây Âu đã làm cho chúng tôi thắc mắc vô cùng mà không sao giải đáp được.
Nước Tây Âu (Lưỡng Quảng) là nơi nương náu cuối cùng của tất cả Âu đời xưa, Ba Thục đời Chu v.v. Lạc không có chen chơn vào đó được vì họ đã quá đông dân rồi (vì thế mà đạo binh viễn chinh của Tần Thỉ Hoàng mới lọt vào ổ kiến lửa tại đó).
Thế mà không hiểu sao trong ngôn ngữ Tây Âu lại có quá nhiều danh từ Mã Lai đợt II.
Nói là họ vay mượn, thì cũng được đi; nhưng sao họ lại vay mượn cả những danh từ không cần thiết mà họ đã phải có rồi thuở mà họ còn là Cửu Lê.
Thí dụ danh từ Trời của họ là danh từ của Lạc đợt II mà Chàm và Nam Dương đang dùng, trong khi đó thì từ khi là Cửu Lê, đến lúc là Âu họ cũng văn minh y hệt như Lạc chớ không có kém, hơn chút nào hết.
Những danh từ mà họ và Việt Nam giống nhau thì rất dễ hiểu vì như đã nói trong Cửu Lê có Lạc đợt I. Nhưng mà sự hiện diện của Lạc đợt II trong đó khó quan niệm được vì họ bận tiếp đón quá nhiều dân Âu bị Tàu đánh đuổi, kể cả dân Ba Thục cũng dồn xuống đó nữa, nghĩa là bao nhiêu Âu từ Hoa Bắc tới Hoa Nam đến đổ dồn vào nước Tây Âu, không còn chỗ chen chơn. Cuộc kiểm tra dân số của Tàu nhà Hán đã cho thấy rằng họ mười lần đông hơn Cổ Việt Nam thì bọn Lạc đợt II làm thế nào mà lọt vào đó được. Bằng như nói họ vay mượn của Lạc II có địa bàn tiếp cận với họ thì không ổn vì họ mượn toàn những tiếng mà họ phải có rồi là làm sao?
Đó là điểm độc nhứt trong quyển sách nầy mà chúng tôi không thể cắt nghĩa được bằng ức thuyết nào cả.
Thí dụ hoa đại, hoa sứ, thì họ nói y như Chàm là Bôngga Chămpa chớ không nói như Việt Nam là Bông đại, trong khi họ còn phải nói y theo Việt Nam vì họ là Mã Lai đợt I, còn ta thì đa số là Mã Lai đợt I.
Nhạc sĩ Lê Thương có sống ở Lào, có viết bản nhạc lấy ngôn ngữ Thái Lào làm tên cho bản nhạc đó là: Ô đuống Chămpa. Chúng tôi có hỏi nhạc sĩ có biết tại sao mà Thái Lào không dùng danh từ Mã Lai đợt I để chỉ loài hoa ấy, mà lại dùng danh từ của Mã Lai đợt II, thì nhạc sĩ cũng chẳng biết tại sao mà có chuyện kỳ lạ như vậy, điều chắc chắn là người Thái Lào gọi hoa đó y như Chàm, là Chămpa, chớ không biết danh từ Đại hay Sứ.
Về danh từ Trời thì rất dễ hiểu. Cả hai đợt Mã Lai đều có hai danh từ Trời, tùy theo nghĩa thiêng liêng (ông Trời) hay nghĩa vật chất (vòm trời). Việt Nam đã đánh mất hết một danh từ, Thái Lào cũng thế, Nhựt Bổn cũng thế, nên ba nhóm ấy chỉ còn có một danh từ, nhưng Thái Lào khác ta vì họ lại đánh mất cái danh từ mà ta còn, còn ta thì đánh mất cái danh từ mà họ đang có.
Những chứng minh ở chương trước của chúng tôi, đã giúp chúng tôi vẽ ra ở cuối tiểu mục Đ một đồ biểu chủng tộc.
Ở đây chứng minh của chúng tôi cũng phải đi sát cái đồ biểu ấy, tức chứng minh rằng các nhóm Mã Lai: Việt, Thái, Cao Miên, Chàm, Miến Điện, Tây Âu (cổ Quảng Đông), Ba Thục (cổ Tứ Xuyên) gì cũng đều đồng ngôn ngữ với nhau và tất cả đều quy về cái gốc tổ Tây Tạng.
Không làm như vậy được ở đây, cũng không thiếu sót, vì chứng tích quan trọng bực nhứt là chỉ số sọ, cũng đã đủ rồi, nhưng thêm được chứng tích quan trọng bực nhì càng hay.
Tuy nhiên, chứng tích quan trọng nầy dĩ nhiên là phải bị bể vỡ từng manh mún chớ không toàn vẹn như những cái sọ, vì như đã nói, ngôn ngữ là văn hóa, không ai mượn sọ được, nhưng mượn ngôn ngữ thì được.
Nhưng đây là vay mượn nội bộ, chớ không phải vay mượn bên ngoài. Đành rằng ta có vay mượn tiếng Tàu, tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng đó là vay mượn về sau kỷ nguyên Kitô, chúng tôi không kể vào, mà chỉ cứu xét về ngôn ngữ sơ khai của tổ tiên ta buổi đầu, cách đây trên hai ngàn năm thôi, ấy thế mà cũng đã có vay mượn rồi, vào thuở đó.
Vậy xin đừng ai mong hiểu được một câu chuyện của người Mã Lai, hoặc nói một câu ngắn bằng tiếng Việt mà họ hiểu được đâu. Đã bảo hiện có hơn 1.000 nhóm kim Mã Lai thì tìm thấy ngữ căn là may mắn lắm rồi đó.
Số là một chủng tộc quá lớn như chủng tộc Mã Lai thì tự nhiên vào thời thượng cổ, họ chia ra thành nhiều chi nhóm, ban đầu đồng ngôn với nhau cả, nhưng các chi ấy lại tủa ra khắp nơi (tùy theo đà phát triển của chủng tộc) để tìm sinh kế và tại các địa bàn mới, vì ảnh hưởng khí hậu, họ nói khác giọng với nhau chút ít như Bắc Việt với Nam Việt.
Mỗi địa bàn mới đó lại tự phát triển ra nữa và chung đụng với các dân khác quanh họ, vay mượn đủ thứ của người xa lạ kể cả ngôn ngữ, thành thử họ bắt đầu nói khác nhau. Thí dụ trực tiếp nhứt là người Việt miền Nam có danh từ Bưng biền vay mượn của Cao Miên, mà người Việt miền Bắc không có. Miền Bắc cũng không có danh từ Rạch chỉ phụ lưu một con sông.
Với thời gian, nhứt là với không gian, đôi khi họ vay mượn của ngoại nhân cả âm, thanh, cú pháp, văn phạm nữa, chớ đừng nói là danh từ.
Hiện nay dân thổ trước Papou chỉ đông có 70 ngàn người, thuộc chủng Mê-la-nê hết thảy, nhưng có nhiều bộ lạc nói, bộ lạc khác nghe không hiểu, phương chi dân Maori ở Tân Tây Lan, cũng thuộc chủng Mê-la-nê thì không mong hiểu được Papou, mặc dầu họ đồng gốc tổ Mê-la-nê với nhau hết.
Nhưng các nhà ngôn ngữ học biết được họ đồng gốc tổ, chính nhờ những danh từ căn bản (basic) của họ.
Các phương ngữ biến dạng theo một cái luật, và luật ấy đã được biết, dầu có bể ra từng mảnh nhỏ, ngôn ngữ ấy cũng còn truy nguyên ra được trong các thứ ngôn ngữ đồng gốc mà được thành hình về sau.
Chúng tôi xin vẽ ra một đồ biểu trừu tượng chỉ sự phân tán, và vay mượn.
Rất nhiều học giả Việt Nam chủ trương rằng Việt ngữ là một ngôn ngữ hỗn hợp mượn đây một ít, kia một ít, mà không biết rằng những nơi cho mượn toàn là các nhóm cổ Mã Lai, tức không có vấn đề hỗn hợp gì hết, vì tất cả các nhóm ấy đều mượn qua mượn lại với nhau sau một giai đoạn biến khác, dài hàng ngàn năm.
Gốc tổ ban đầu A
Phân chia rồi biến giọng, tân tạo danh từ, tùy nhu cầu địa phương |
Vay mượn Giữa các nhóm và ngoại nhân. Ngoại nhân được ghi bằng X và Y |
Sự nhìn lại nhau của vài nhóm sống sót |
|
X và Y |
|
B C D Đ E F |
B = A + Đ + X C = A + D + Y D = A + E + X Đ = A + F + Y vân vân |
C chỉ nhận được nhờ |
Thí dụ cụ thể và trực tiếp:
Sông của nhóm A Thái: Khung Chàm: Krong Mường: Không Bà Na: Krông Khả: Hông Việt Nam: Sông Cao Miên: Stung (Phụ lưu) Mã Lai: Sôngai |
Sông của nhóm B Cao Miên: T’lê Sơ Đăng: Tơ lê Jêh: Tlê
|
Nhưng A và B nhận nhau được nhờ danh từ Trái. Việt Nam cổ: Blái Mường: Blái Bà Na: Plây |
(Sách của các cố đạo xưa viết là Blái hoặc Tlái, người Mường ngày nay cũng nói Blái hoặc Tlái).
Đôi khi tất cả các nhóm đều nhận nhau được nhờ gốc tổ Mã Lai mà nhóm nào cũng giữ được hết thảy. Thí dụ danh từ Lá (cây).
Biểu đối chiếu số 1
Việt Nam: |
Lá (cây) |
Mã Lai Célèbes: |
Hạalaa |
Chàm: |
Halaa |
Bà Na: |
Hlaa |
Sơ Đăng: |
Hla |
Gia Rai: |
Laa (Xin đừng lầm với động từ La của Gia Rai; chỉ có một chữ A và cũng có nghĩa là La, y hệt như Việt Nam) |
Mạ: |
Nhla |
Mường: |
La |
Nhựt Bổn: |
Hạ |
Triều Tiên: |
Hạ |
Mã Lai Kedat: |
Kelat |
Mã Lai Sembilan: |
Serela |
Mã Lai Johore: |
Ulat |
Mã Lai Á: |
Layu (chỉ được dùng để gọi lá héo) |
Cao Miên: |
Slat |
Khả Lá Vàng: |
Sala |
Khả Văn Minh: |
Là |
Cổ ngữ Ba Thục: |
Lạ |
Cổ ngữ Tây Âu: |
Lá (Người Quảng Đông gốc Tây Âu, hiện nay nói Dịp, tức Diệp. Nhưng đồng thời họ cũng nói Lá). |
Xin đừng ngạc nhiên mà thấy vắng mặt danh từ Thái trong biểu đối chiếu nầy. Thái cũng là Việt, tức Mã Lai, nhưng thuộc một chi khác, chi Âu. Tất cả các dân tộc có mặt trong biểu đối chiếu nầy đều thuộc ba chi Lạc, Lạc bộ Trãi. (Việt Nam, Thượng), bộ Mã (Gia Rai, Chàm, Nam Dương) và bộ Chuy (Tạng, Miến, Môn và Khơ Me).
Nhưng ở các biểu đối chiếu khác sẽ có Thái. Tuy nhiên, vẫn ít thôi vì cái yếu tố Thái trong Việt ngữ mà ông H. Maspéro cứ nói đến mãi, thật ra là yếu nhứt trong Việt ngữ vì cái lý do giản dị là Thái thuộc chi khác.
Danh từ Thái là Bại (Mai). Nhưng không nên kể đến từ Mai, bởi đó là tiếng Tàu Mộc. Họ nói Lá Mộc thay cho lá cây, tức chi Âu mất ngôn ngữ nhiều hơn chi Lạc. Điều đó cũng dễ hiểu. Chúng tôi đã nhiều lần nhấn mạnh rằng chi Âu không hề ra khỏi nước Tàu, trước thế kỷ thứ 10. Hiện họ gồm:
Người Quảng Đông bị đồng hóa 99% |
về mặt ngôn ngữ và phong tục, văn hóa. |
Người Nùng bị đồng hóa 70% |
|
Các thứ người khác bị đồng hóa 50% |
Các đảo Mã Lai còn một danh từ nữa, đó là danh từ của nhóm Lạc Lê.
Tàu Hải Nam gốc Lạc Lê: Đo
Mã Lai: Đôn
*
* *
Dân Việt Nam là Mã Lai hỗn hợp nên dùng danh từ của cả ba thứ Lạc và cả danh từ của Âu tức Thái nữa.
Thí dụ điển hình nhứt là danh từ Vú, Sữa và Núm Vú. Vú và Sữa là danh từ của Lạc bộ Mã, họ nói Sú Sú, ta biến thành Vú và Sữa.
Danh từ của chi Âu Nóm là Vú, ta nhập Nóm với Vú để tạo ra Nóm Vú chỉ cục thịt nhỏ ở đầu vú.
Tóm lại, quả thật ta lượm lung tung, đầu nầy một ít, đầu kia một ít, nhưng chỉ lượm trong đại cộng đồng Mã Lai, chớ không hề vay mượn của chủng tộc nào khác hết.
Mà các quốc gia Mã Lai khác như Thái, Cao Miên cũng thế, chớ không riêng gì là ta. Họ cũng ghép danh từ của lu bù nhóm Mã Lai để tạo danh từ riêng của họ. Thí dụ điển hình nhứt là danh từ Ma Nam của Thái, sẽ nói thật rõ ở biểu đối chiếu về các danh từ Ma.
Trong chủng Ấn Âu cũng thế, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha mượn của nhau lung tung rồi biến nghĩa, tạo danh từ riêng cho họ, thành thử trong một danh từ Đức có danh từ Nga cộng với danh từ Pháp, với danh từ Albanie, rất là ngộ nghĩnh như Nóm vú của ta. Riêng người Thái Lan thì loạn xà ngầu, họ ghép Phạn ngữ, Thái ngữ, Môn ngữ để tạo một danh từ vô cùng kỳ dị mà chỉ có các nhà bác học mới tầm nguyên được mà thôi.
Biểu số 2
Việt Nam: Cột (dây)
Mạ: Kơt
Gia Rai: Keet
Sơ Đăng: Kơt
Bà Na: Kơơt
Chàm: Kaat
Mã Lai: Ikat
Đây là động từ của Lạc bộ Trãi và bộ Mã, còn Lạc bộ Chuy, Cao Miên, Miến Điện thì nói là Chon.
Biểu số 3
Việt Nam: Cháu (con cháu)
Mạ: Sáu
Mường: Cau
Gia Rai: Côô
Sơ Đăng: Caô
Bà Na: Saô
Cao Miên: Chau
Mã Lai: Chu
Biểu số 4
Việt Nam: Chim
Bà Na: Sêêm
Sơ Đăng: Chim
Mường: Chim
Khả Lá Vàng: Tiêm
Bộ lạc Irogo Phi Luật Tân: A chêm
Biểu số 5
Việt Nam: Cò (con cò)
Mạ: Kô
Bà Na: Kook
Gia Rai: Koo
Mường: Ko
Mã Lai: Kua (chỉ được dùng để gọi là Cò ăn đêm)
Biểu số 6
Việt Nam: Con (cha con)
Bà Na: Koon
Sơ Đăng: Kooon
Cao Miên: Kôn
Mạ: Kon
Mường: Kon
Biểu số 7
Việt Nam: Con (con vật)
Cao Miên: Ko
Mạ: Ko
Bà Na: Ko
Sơ Đăng: Ko
Gia Rai: Ko
Mường: Ko
Lạc bộ Mã không có loại từ Con. Chi Âu tức Thái thì dùng loại từ Con để chỉ Người, và vì vậy, không còn loại từ Con nữa.
Biểu số 8
Thí dụ nầy hơi rắc rối. Trước hết nên biết rằng ta có hai danh từ để chỉ một gia súc: đó là lợn và heo. Trong rừng Cao nguyên lại có một con vật hơi giống con heo, đó là con Agouti, mà ta gọi là con Cúi. Nhưng về sau, lợn, heo cũng được ta gọi là Cúi.
Việt Nam: |
Cúi tức Heo, Lợn |
|
Mường: |
Kuy |
Dùng chung để chỉ lợn và Agouti |
Cao Miên: |
Kui |
|
Sơ Đăng: |
Cuur |
|
Gia Rai: |
Kuai |
|
Khả Lá Vàng: |
Kur |
Biểu số 9
Việt Nam: Lội (Bơi lội)
Thái: Lô Y
Gia Rai: Loôi
Bà Na: Glôôi
Chàm: Luôy
Mã Lai Bontok (Phi): Luôy
Biểu số 10
Việt Nam: Nghe (hoặc Tai)
Gia Rai: T’nghĩa = Nghe
Khả: Sẽ: Nghe
Bà Na: I’nghẻ = Nghe
Chàm: Tauyô = Tai
Mã Lai Célèbes: Tngar = Nghe
Mã Lai Á: Tảlinga (Tai)
Mã Lai Á: Mảnảnga (Nghe)
Biểu số 11
Việt Nam: Chó
Mạ: So
Cao Miên: Cho
Gia Rai: Tsao
Khả Lá Vàng: Acho
Sơ Đăng: Coo
Bà Na: Soo
Mường: Coo
Chàm: Tho
Mã Lai Célèbes: Atho
Mã Lai Á: Asu
Người Mường lại có một danh từ nữa là Khai mà Cao Miên đã mượn. Khai của Mường có nghĩa là Chó, nhưng đồng thời cũng lại có nghĩa là Cọp.
Theo cố đạo L. Cadière thì tiếng Việt xưa cũng gọi con chó là con khai, di tích còn thấy mãi cho đến ngày nay tại thôn quê hẻo lánh ở Quảng Bình, và đó là hình thức cổ sơ của danh từ Cầy.
Cầy là danh từ của đợt I, còn Chó là danh từ của đợt II. Người Mường thuộc đợt II, nhưng họ nói Chó vì chịu ảnh hưởng ta. Họ cũng nói Cầy với hình thức cổ là Xhai, nhưng lại cho nó một cái nghĩa rất sang là Cọp vì một cái luật văn phạm dưới đây.
Ta thấy Lạc Việt đợt I, tức nòng cốt của Việt Nam, có cái đặc sắc nầy là những danh từ vay mượn của đồng chủng, đồng bào, họ chỉ cho nó giá trị hạng nhì mà thôi.
Đừng nói chi là danh từ của chi Âu, cả danh từ của chi Lạc đợt II, cũng chỉ được ngồi ghế hạng nhì. Thí dụ Chơn. Chơn là danh từ của Hùng Vương, nên nó giữ ngôi sang trọng. Ta có thể nói “Dấu Chơn của hai bà Trưng trên chiến trường chống Mã Viện”. Nhưng ta không thể nói “Dấu Cẳng của hai bà Trưng”, vì Cẳng là danh từ của đợt II, ta nghe không sang.
Trong khi đó thì người Chàm và người Nam Dương lại cho danh từ Cẳng một địa vị thơ mộng và cao quý. Họ nói Cẳng của nàng rất đẹp. Họ nói Cẳng Trời, thay vì Chơn Trời như ta.
Ta có thể lập ra cái luật văn phạm nầy mà rất ít vấp ngoại lệ:
A) Khi Việt ngữ có hai từ đồng nghĩa, thì luôn luôn từ thứ hai bị lép vế, và chắc chắn từ đó là vay mượn của một nhóm Mã Lai khác.
Xơi (đợt I) sang hơn Ăn (đợt II)
Cầy (đợt I) – Chó (đợt II)
Chó (Lạc đợt I) – Chó má (chi Âu)
Ngỗng (Lạc bộ Trãi) – Ngan (Lạc bộ Chuy)
Chơn (đợt I) – Cẳng (đợt II)
Cẳng (đợt II) – Giò (Chủng Mê-la-nê)
B) Khi Việt ngữ có ba từ đồng nghĩa thì từ thứ ba có một nghĩa xấu tệ và đó là vay mượn của một chủng kém hơn hoặc của một chi khác hơn là chi Lạc.
Cầy sang hơn chó, mà chó thì sang hơn chó má, chỉ dùng để chưởi, vì Má, Mã là danh từ của chi Âu tức Thái, chớ không phải của chi Lạc, mặc dầu trong chi Âu, nó chỉ có nghĩa là chó chớ không có gì là kém cỏi hết.
Sở dĩ người Mường (đợt II) cho Cầy có một nghĩa sang trọng vì thấm nhuần cái luật đó. Họ chỉ là khách trọ của Hùng Vương, tức chỉ là Mã Lai đợt II ở trọ với Mã Lai đợt I. Họ đã phải thần phục vua Hùng Vương về mọi mặt, như ta sẽ thấy, mặc dầu thuở di cư đến cổ Việt, họ đã văn minh cao lắm. Thế nên họ tự động đưa Cầy của ta lên thật cao với cái nghĩa là Cọp.
Biểu số 12
Việt Nam: Ngày
Môn: Tngay
Cao Miên: Thngay
Jêh: Ngaai
Kơ Young: Ngaai
Sơ Đăng: Haal
Mường: Ngai
Khả Lá Vàng: T’ngai
Trên đây là danh từ của Mã Lai đợt I. Mã Lai đợt II nói Hari.
Danh từ Hari nầy, rất là rắc rối trong Mã Lai ngữ và Nhựt ngữ, nhưng khi nó len vào ngôn ngữ ta thì nó làm cho thiên hạ điên đầu.
Trong ngôn ngữ Mã Lai Hari có nghĩa là Vòm Trời (vật chất), là ông Trời (thiêng liêng) và cũng có nghĩa là Ngày.
Nhưng có ai tin được rằng Hari biến dạng thành Trời hay không? Chắc là không. Ấy thế mà có sự biến dạng kỳ dị đó. Chúng tôi biết được là nhờ những cái khoen nối kết của xâu chuỗi biến dạng ấy.
Dầu sao, Mã Lai đợt I vẫn giàu danh từ hơn Mã Lai đợt II, ta có Ngày lại có Trời, còn họ thì chỉ có Hari.
Trong Nhựt ngữ, Hari biến thành Hara.
Mã Lai đợt II có Langít để chỉ Vòm trời (vật chất) nhưng các nhóm Mã Lai đợt I như Cao Miên, Thái cũng đều có (nhưng Việt Nam đã đánh mất Langít. Chúng tôi nói đánh mất, mà không nói là không có, vì Cao Miên và Thái có thì ta phải đã có, và một thời nào đó).
Sẽ trở lại vấn đề nầy sâu hơn, trong biểu đối chiếu về danh từ Trời.
Biểu số 13
Việt Nam: Ngoài
Mường: Ngwai
Bà Na: Tơ nguải
Khả Lá Vàng: Hòi
Sơ Đăng: Rơ nghieo
Cổ ngữ Ba Thục: Ngôi
Nhiều tỉnh Trung Việt nói Ngòi tức trung gian giữa Ngoài và Hòi của Khả Lá Vàng.
Biểu số 14
Việt Nam: Người
Bà Na: Bngoai
Sơ Đăng: Bngaai
Gia Rai: Ngaai
Mường: Mwai, Mwal (ta biến Mwal thành Mường và Mwai thành Mọi)
Cao Miên: M'Nư
Khả Lá Vàng: R’Nui
Khả Bolooen: P’Nui
Mã Lai Phi Luật Tân: Mnui
Thái: Muang (xóm đông người, hoặc thị trấn đông người, ta cũng biến thành Mường).
Trên đây là danh từ Mã Lai đợt I, lưỡi rìu tay cầm. Còn Mã Lai đợt II thì ORANG là người, không được dùng trong ngôn ngữ Việt Nam, mặc dầu đợt II cũng có mặt đông đảo ở Cổ Việt vì chính họ là tác giả trống đồng. Vì thế mà ta cũng cần biết:
Mã Lai, Chàm: ORANG
Triều Châu, một trong Thất Mân: NÁNG
Tàu Hải Nam gốc Lạc Lê: NÀNG
Thất Mân là Lạc bộ Mã, tức cũng là cổ Mã Lai Bách Việt đợt II. Đã nhiều lần, chúng tôi có nói đến việc tiêu cực đề kháng của người Tàu Hoa Nam, họ là Mã Lai, bị đồng hóa với Tàu, họ nói tiếng Tàu (sai giọng chút ít) nhưng mỗi nhóm còn giữ được hơn trăm danh từ Mã Lai.
Quả thật thế, Người, tiếng Tàu là Dỉl, bị dân cổ Tây Âu tức Quảng Đông, đọc sai chút ít, hóa ra Dành. Nhưng Náng thì không thể là biến dạng của Dỉl được như Dành.
Bằng vào danh từ Nàng của Hải Nam gốc Lê, ta biết được họ là Mã Lai đợt II, rất gần gũi với Thất Mân tức Lạc bộ Mã. Nhưng ông H. Maspéro cho rằng Hải Nam là Thái đen, thuộc chi Âu. Như thế là sai.
Chỉ có thể kết luận Hải Nam là nhóm Lạc Lê, nên họ mới có danh từ Nàng của Lạc.
Ta chỉ còn bí về danh từ cổ thời, không biết Triều Châu đã biến ORANG thành NÁNG hay chính Mã Lai đã biến ONÁNG thành ORANG.
Có lẽ Triều Châu và Hải Nam là thủ phạm vì chịu ảnh hưởng Tàu, họ đánh mất âm R mà xưa kia họ có, vì họ là Mã Lai, còn Tàu thì không bao giờ có âm R.
Nhưng Mã Lai đợt I lại còn một danh từ nữa để chỉ Người mà chỉ có Âu tức Thái là có dùng. Đó là danh từ Kon, được người Lào biến thành Cần.
Kon, bị Việt ngữ biến thành loại từ Con. Loại từ Con, chỉ có Thượng Việt (Mã Lai đợt I) là có, y như ta, còn Mã Lai đợt II tuyệt đối không có loại từ Con, cả Mã Lai đợt I là Thái cũng không có.
Có lẽ khi xưa, tất cả Mã Lai đợt I đều có, nhưng chi Âu đã biến nó thành Người rồi thì không thể dùng làm loại từ được nữa.
Biểu số 15
Việt Nam: Rễ (cây)
Sơ Đăng: Rễ
Bà Na: Rở
Mạ: Rỉa
Biểu số 16
Việt Nam: Khiên (tức cái mộc, cái thuẫn)
Chàm: Kheèl
Cao Miên: Khèl
Bà Na: Khèl
Sơ Đăng: Khèl
Kơyong: Khèl
Khiên, kheèl, khèl gì cũng là danh từ của Mã Lai đợt I mà Mã Lai đợt II không có. Nhưng Chàm vốn là Mã Lai đợt II lại có. Thế nghĩa là trong dân tộc Chàm cũng có hai đợt. Khoa khảo tiền sử không biết điều đó, nhưng khoa ngôn ngữ tỷ hiệu, bị khoa học chê, lại cho ta biết rõ hơn về nhiều chi tiết.
Mã Lai đợt I trong dân tộc Chàm là bọn Lạc lối, tức dân ở quận Nhựt Nam mà nơi đó bọn đợt II, bọn Khu Liên, tức bọn đã lập ra nước Tây Đồ Di, đã nổi loạn với quan cai trị Tàu và lập ra nước Chàm thứ nhì là nước Lâm Ấp.
Như vậy, danh từ nào của Mã Lai đợt I mà Chàm có đều do Chàm miền Bắc Lâm Ấp đưa xuống miền Nam Chiêm Thành khi họ thống nhứt xứ sở của họ. Nhưng họ đưa không nhiều vì xứ sở của họ bị núi ngang làm trở ngại giao thông.
Biểu số 17
Việt Nam: Kiềng (vật 3 chơn để nấu ăn)
Gia Rai: Kên
Hbao: Kên
Koyong: Khiêên
Bà Na: Tkaan
Biểu số 18
Việt Nam: Kèn
Các nhóm Thái: Khèl
Khả Lá Vàng: Khèl
Biểu số 19
Việt Nam: Rảy (nước)
Mạ: Srỉ
Bà Na: Prả
Chàm: Hprai
Biểu số 20
Việt Nam: Chín (không sống)
Bà Na: Sin
Sơ Đăng: Sên
Cao Miên: Ch’eanh
Gia Rai: Tsêêng
Biểu số 21
Việt Nam: Con ruồi
Mạ: Ko Rhai
Môn: Ko Rui
Cao Miên: Ko Ruy
Bà Na: Ko Rooi
Kôhô: Ko Rha
Roglai: Ko Rouai
Braou: Ko Ruay
Hrê: Ko Ròi
Tampoun: Ko Roy
Biut: Ko Rhuai
Xi Tiêng: Ko Ruêi
Mường: Ko Ruuêi
Khả Lá Vàng: Kon Rruêi
Không có mặt đợt II trong biểu rất dài nầy, và điều nầy chứng tỏ rằng Thượng Việt là Mã Lai đợt I.
*
* *
Biểu số 22
Việt Nam: Đắng
Bà Na: Tang
Sơ Đăng: Sang
Biểu số 23
Việt Nam: Ngóc (đầu)
Bà Na: Ngơk
Gia Rai: Ngaak
Biểu số 24
Việt Nam: Đang (làm việc)
Bà Na: Tơ đang
Gia Rai: Tơ đang
Chàm: Ttang
Mã Lai Célèbes: Tđang
Biểu số 25
Việt Nam: Tê (bại)
Gia Rai: Tom
Gia Rai Pleiku: Pơtơm
Bà Na: Pơtơm
Biểu số 26
Việt Nam: Cái (Lớn: sông cái, kẻ đứng đầu: thợ cái)
Sơ Đăng: Kel (Lớn)
Bà Na: Akal (Quan trọng) Kơl (Cái đầu)
Mã Lai: Laki (Đàn ông, hùng mạnh, lãnh tụ, lực lượng, đực)
Chàm: Lì cáy (Đàn ông, lãnh tụ, đực)
Danh từ nầy cho ta biết một sự thật ngộ nghĩnh mà nhiều người đã ngộ nhận. Là con của Phùng Hưng chỉ xây đền thờ cho cha, chớ không phải cho cha và mẹ vì cái lẽ rằng mẹ ông ấy chỉ là một bà nội trợ tầm thường, không xứng đáng gọi là đại vương. Người ta ngộ nhận vì danh từ Cái trong Bố Cái Đại Vương.
Nhưng Cái là danh từ Mã Lai, có nghĩa như trên vào thời xưa: Bố Cái là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ lãnh. Cả trong Mã ngữ ngày nay cũng thế.
Chúng tôi nói có bằng chứng. Hiện nay Mã Lai có danh từ Ibu Láki đúng nghĩa là Bố Cái, vì Ibu = Bố. Ibu Láki có nghĩa là nhà lãnh đạo.
Láki của Mã Lai biến thành Lìcáy của Chàm và Cái của Việt.
Và Con dại cái mang không có nghĩa là mẹ chịu trách nhiệm, mà chính là cha chịu trách nhiệm đây.
Danh từ riêng của miền Nam: “Người lại cái”, có nghĩa là người bán nữ bán nam, chắc chắn là do danh từ Chàm mà ra. Đó là Camay lagi lìcáy dịch ra từng chữ là Đàn bà mà lại còn là đàn ông.
Camay = Đàn bà
Lagi = Lại còn
Licáy = Đàn ông
Ta lười biếng, nuốt mất Càmay lagi, chỉ còn LICÁY biến thành LẠI CÁI. Một lần nữa, ta thấy Cái là đàn ông chớ không phải là đàn bà.
Từ Lagi còn thấy được ở một địa danh trong tỉnh Bình Tuy. Nơi đó xưa kia là đất của Phù Nam, rồi của Chàm, cả hai dân tộc ấy đều nói tiếng Mã Lai đợt II thì thật là không biết địa danh ấy là của ai. Nhưng nói đúng tiếng Mã Lai Nam Dương thì nó phải là Sa-Lagi. Nhưng chỉ có Sa-Lagi không thì không có nghĩa gì cả. Chắc chắn là người Việt đã nuốt mất một vài tiếng sau, như trong trường hợp trên đây, ta đã nuốt đến sáu tiếng Đàn bà mà lại còn là.
Cái địa danh trên kia có lẽ là Sa-gi đánh nhau với San La tức lại còn đánh nhau với Chân Lạp.
*
* *
Tra các tự điển đất Bắc thì không có danh từ Lại Cái, mặc dầu có danh từ Bố Cái. Có lẽ ngày xưa ngoài ấy cũng có, nhưng dân đất Bắc đâm ra mê Tàu từ năm 1600, như đã giải thích khi nãy nên bỏ bông, trái, ghe, muỗng, lại cái, dùng hoa, quả, thuyền, thìa, bán nam bán nữ. Mặc dầu họ xa Chàm, nhưng miền Bắc là đất mà dân Mã Lai đợt II đã định cư và phục vụ vua Hùng Vương đến 500 năm, và đã mượn đến 40% danh từ của Mã Lai Nam Dương thì lẽ nào lại không có danh từ Lại Cái vào thời xưa.
Chú ý: Licáy biến thành Lại cái thì chữ Lại hoàn toàn vô nghĩa vì nó là tiếng phiên âm. Người miền Nam hiểu lầm rằng Lại = Trở thành, nên có một dạo họ nói Đàn bà lại đực, nhưng danh từ ấy không thành hình, không được ai dùng cả, mặc dầu cuộc sáng tác đó kéo dài nhiều chục năm. Thấy rõ sức mạnh của các danh từ, nó sống dai không thể tưởng tượng được. Lì biến thành Lại một cách sai lầm đã mất nghĩa từ lâu, nhưng vẫn không ai có tài nào cho nó một nghĩa khác được nữa.
Hiện nay người miền Nam nói Đàn ông lại cái tức là nói sai. Câu đó có nghĩa là: Đàn ông – Đàn ông, tức rất vô nghĩa nếu xét theo ngữ nguyên nhưng nó cứ đứng vững được hoài, vì người ta hiểu rằng: Cái = Đàn bà.
Nếu hiểu như vậy thì Lại có nghĩa rõ ràng là trở thành và có quyền nói Đàn bà lại đực, nhưng vẫn không nói được, vì người sáng tác không được ai theo cả, có lẽ vì linh cảm cho họ nhớ cái nghĩa cũ một cách âm thầm trong thâm tâm của họ, và họ âm thầm chống đối nghĩa mới bằng cách không dùng. Còn từ Cái mang nghĩa là Giống Cái, là đàn bà, do ngữ nguyên khác, sẽ nói đến sau.
Biểu số 27
Việt Nam: Sạch
Mạ: Sạt
Cao Miên: Soạt
Biểu số 28
Việt Nam: Cây, gậy
Gia Rai: Gaai
Chàm: Gaai
Ra Đê: Giê
Mã Lai Célèbes: Gaai
Biểu số 29
Việt Nam: Hút
Bà Na: Huuc
Kơyong: Huut
Uống nước bằng ống. Người Thượng dùng ống trúc nhỏ hoặc ống sậy để uống rượu cần.
Biểu số 30
Việt Nam: Tro
Jêh: Blô
Kơ Yong: Loo
Sơ Đăng: Plo
Biểu số 31
Việt Nam: Sắn (Nam kỳ: Báng)
Bà Na: Blang
Thái: Parăng
Sơ Đăng: Loong
Gia Rai: Ploom
Khả Lá Vàng: Bluôn
Gia Rai + Radê (Pleiku): Bblaang
Biểu số 32
Việt Nam: Tru (chó)
Mường: Tlu
Bà Na: Klu
Sơ Đăng: Klu
Gia Rai: Lu
Biểu số 33
Việt Nam: Chết
Sơ Đăng: Chết
Mường: Chết
Mạ: Sớt
Khả Lá Vàng: Kết
Biểu đối chiếu nầy và bao nhiêu biểu khác cho thấy rõ ràng Thượng Việt không phải là Cao Miên như các ông Tây nói. Chết, Cao Miên gọi là Ngợp. Biểu về Trăng, Cá, v.v. đều có mặt người Thượng mà không có mặt người Cao Miên ở đâu cả.
Biểu số 34
Việt Nam: Bét (Toét mắt)
Bà Na: Peek
Gia Rai: Peek
Hadrông: Peek
Cu-Ti: Piơ
Biểu số 35
Việt Nam: Mới
Thái: Mai
Cao Miên: Thơmây
Mạ: Mhê
Biểu số 36
Việt Nam: Bước
Bà Na: Bôôk
Gia Rai: Rơ bat
Mã Lai Célèbes: Bơlak
Biểu số 37
Việt Nam: Bửa (củi)
Mạ: Pả
Bà Na: Pả
Biểu số 38
Việt Nam: Bọn, bạn
Cao Miên: Pôut, Bòn
Bà Na: Buơl, Pụng
Gia Rai: Pout
Khả Lá Vàng: Bang
Mã Lai: Mbang
Biểu số 39
Việt Nam: Sâu (không cạn)
Cao Miên: Chrau
Mạ: Zirâu
Bà Na: Jrâu
Biểu số 40
Việt Nam: Ruột
Mạ: Proit
Cao Miên: Pốt (Viên)
Gia Rai: Porooi
Ra Đê: Prooe
Mã Lai: Prụt
Mã Lai Nam Dương, Mã Lai Á và Phi Luật Tân chỉ có một danh từ Prụt để chỉ Ruột, Bụng và Dạ dày. Về mặt cơ thể và mặt thủy vận thì Mã Lai đợt I giàu danh từ hơn Mã Lai đợt II, mặc dầu Mã Lai đợt II ở biển.
Thí dụ Mã Lai đợt I là Môn và Khơ Me có danh từ Prek mà Nam Kỳ biến thành Rạch để chỉ phụ lưu, Thái có danh từ Honei mà Bắc Việt biến thành Suối, trong khi đó thì Mã Lai Nam Dương chỉ có Sôngai. Suối, họ nói là Sông con nít. Còn nguồn thì họ nói là Con mắt của nước. Nhưng một chuyện cổ tích cho biết rằng người Nam Dương từ Hòa Bình của ta mà di cư xuống đó, sau khi chung sống với ta khá lâu. Thế mà họ lại không học được những danh từ của đợt I.
Biểu số 41
Việt Nam: Lưng
Thái: Lâng
Bà Na: Roong
Sơ Đăng: Roong
Gia Rai: Roong
Biểu số 42
Việt Nam: Xương
Cao Miên: Chxoâng
Thái: Sân
Sơ Đăng: Ksing
Mạ: Ting
Bà Na: Kting
Cổ ngữ Ba Thục:Xoong
Khả Lá Vàng: K’tương
Mã Lai: Tulang
Ta thấy sự biến dạng hữu lý của những danh từ chỉ Xương, danh từ chung cho cả hai đợt Mã Lai, mà ông Lê Ngọc Trụ cho là Xương do Khang của Tàu mà ra. Cả hai nhóm đều không có chịu ảnh hưởng Tàu khi di cư, mà khi đó thì họ phải đã có danh từ Xương rồi vì họ ăn cá, mắc xương cá, họ chế tạo dụng cụ bằng xương thú, không làm sao mà đợi học với Tàu mới có được danh từ để chỉ món đó.
Biểu số 43
Việt Nam: Mắt
Bà Na: Mat
Sơ Đăng: Mat
Khả Lá Vàng: Mat
Mạ: Maht
Mã Lai: Mata
Tây Tạng: Mag
Mã Lai: Mata-Mata=Cảnh sát, tức kẻ có nhiều mắt ở khắp nơi
Biểu số 43 bis
Việt Nam: Mác
Xi Tiêng: Mata = Giáo cán dài
Mạ: Mata = Giáo cán dài
Hai danh từ Mata của Mã Lai trên đây, không phải là hai tiếng đồng âm. Danh từ thứ nhứt là danh từ chung của hai đợt Mã Lai (Mắt). Danh từ thứ nhì chỉ là danh từ riêng của Lạc bộ Trãi (Việt Nam và Thượng), có nghĩa khác hẳn, chẳng liên hệ gì đến con mắt hết.
Năm 1858, Pháp chiếm Saigon, với lính Pháp và Bạc Ti Dăng Phi do Tây Ban Nha cho thuê.
Chiếm Saigon xong Pháp cho bọn ấy ở lại làm cảnh sát mà Mata-Mata là tiếng Mã Lai có nghĩa là cảnh sát (có nhiều mắt). Saigon bỏ dấu gọi là Mã Tà.
Biểu số 44
Việt Nam: |
Tóc |
Đây là danh từ của Mã Lai đợt I mà các ông Tây không biết, cứ nói là của Cao Miên. |
Cao Miên: |
Sóc |
|
Bà Na: |
Sok |
|
Khả Lá Vàng: |
Sok |
|
Mạ: |
Soc |
|
Sơ Đăng: |
Sok |
Mã Lai đợt II có danh từ khác, nhưng chúng tôi không trích, không đối chiếu. Chúng tôi chỉ nói đến những danh từ riêng của Mã Lai đợt II khi nào có gì cần phải nhận xét mà thôi, thí dụ về trường hợp Hari, đã nói rồi và sẽ nói nữa.
Biểu số 45
Việt Nam: Sấm (sét)
Bà Na: Grâm
Gia Rai: Grâm
Biểu số 46
Việt Nam: Trôn
Gia Rai: Klôôn
Ra Đê: Tlôôn
Biểu số 47
Việt Nam: Nem
Tơlô: Nyem (Thịt)
Bà Na: Sêm (Thịt)
Sơ Đăng: Nyam (Thịt)
Biểu số 48
Việt Nam: Ít
Mạ: Yht
Bà Na: Nyet
Gia Rai: Eet
Nam Ấn: Eet (Dravidien tức Mlech’a tức Malayalam)
Đối chiếu Nem với Thịt, tưởng như là vô lý, nhưng không. Đó là mượn danh từ rồi biến nghĩa đôi chút. Nhưng Mạ thì Puịt = Thịt, Khả Lá Vàng thì Plịt = Thịt.
Tiếng Nam Ấn Eet là Một mà cũng là Ít.
Chúng tôi đã nói người Nam Ấn gốc da vàng từ Tây Tạng sang Ấn, và họ là Mã Lai và đây là xác nhận của ông L. Renou trong quyển Les littératures de l’Inde, xác nhận riêng về ngôn ngữ Nam Phạn chớ không phải về chủng Dravidien, nhưng vẫn củng cố những gì chúng tôi đã nói về chủng tộc học: “Tiếng Nam Phạn cũng do Bắc Phạn mà ra. Nhưng nó bị các phương ngữ thổ dân Nam Ấn xâm nhập vào, do chính các giáo sĩ Bà La Môn khuyến khích sự xâm nhập đó để truyền giáo với các thứ dân khác chủng”.
Vậy Eet của Nam Phạn không phải đồng gốc với Bắc Phạn mà là danh từ Dravidien tức đồng gốc Mã Lai.
Có lẽ Nam Ấn có nhiều danh từ giống ta lắm, tại ta chưa thông ngôn ngữ Malayalam, Tamoul, v.v. nên trong các biểu đối chiếu nầy rất thiếu họ.
Biểu số 49
Việt Nam: Chơn, chưn, chân
Cao Miên: Chơn
Mạ: Zưn
Gia Rai: Jơng
Jêh: Yơng
Sơ Đăng: Yông
Bà Na: Yơng
Khả Lá Vàng: Yơng
Trên đây là danh từ của Mã Lai đợt I. Danh từ của Mã Lai đợt II là Kaki mà Chàm biến thành Teay và Việt biến thành Cẳng.
Thấy rõ là trong xã hội Việt Nam Mã Lai đợt I đa số nên Chơn chiếm địa vị sang trọng trong văn chương: Người ta không thể nói: Xây gạch Bát Tràng cho nàng rửa cẳng.
Trong khi đó thì Chàm và Mã Lai nói: Cẳng của nàng, và Chơn trời họ nói là Cẳng trời, và họ nghe rất là văn chương vì đó là động từ chánh của họ.
Trong xã hội Việt Nam còn có một danh từ nữa là danh từ Giò thấy trong tự điển Anh-Mê-la-nê có ghi. Vì đó là danh từ của một chủng kém cỏi, nên trong ngôn ngữ Việt Nam, danh từ đó chiếm hạng ba. Người ta nói giò gà, giò lợn, tướng học trò, giò ăn cướp.
Biểu số 50
Việt Nam: Đứng
Bà Na: Đớng
Gia Rai: Đóng
Biểu số 51
Việt Nam: Tay
Chàm: Tangưl
Mã Lai: Tangan
Bà Na: Tii
Khả Lá Vàng: Tai
Mạ: Ti
Sơ Đăng: Taai
Cao Miên: Đaai
Danh từ Chàm đã bị biến qua lịch sử của họ. Hồi cổ thời, họ vẫn nói Tangan y như Mã Lai, thay vì Tangưl như ngày nay.
Dấu vết còn thấy được ở địa danh mũi Batagan ở Quảng Ngãi mà các ông Tây viết dính lại, khiến cả người Chàm cũng không hiểu địa danh ấy có nghĩa gì, một là tại Tây viết dính, hai là nếu viết đúng là Ba tangan Chàm cũng không hiểu vì họ đọc là Tangưl.
Ba là Ngón tay. Đó là Mũi ngón tay.
Nhưng không chắc chắn lắm là người Chàm đã biến Tangan thành Tangưl.
Ngôn ngữ Chàm mà Tây và ta học được ngày nay chỉ là ngôn ngữ Chàm Ninh Thuận, còn ngôn ngữ Chàm miền Quảng Ngãi thì trên đời nầy, không ai biết nó sao cả, và rất có thể nó giống hệt ngôn ngữ Mã Lai, bằng chứng là địa danh Tangan.
Nhưng Chàm Ninh Thuận thật ra là Phù Nam đa số vì nước Phù Nam ăn lên tới tỉnh Khánh Hòa hồi cổ thời.
Có lẽ chính Phù Nam đã biến Tangan của Mã Lai thành Tangưl và Chàm Ninh Thuận bị thiểu số trong đại đa số Phù Nam nên phải nói theo Phù Nam.
Ta nên đặt ra câu hỏi nầy: Ai đã ghi ra trên dư đồ cái danh xưng Batangan ấy? Chắc chắn là các cố đạo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vì chính họ đã ghi Cửa Hàn ra Tour Han, rồi Pháp mới biến thành Tourane.
Mà thuở các cố đạo Tây và Bồ đến thì người Chàm Quảng Ngãi vẫn còn, và họ đã ghi theo cái nghe tận tai của họ, tức người Chàm Quảng Ngãi vẫn nói Tangan chớ không nói Tangưl như Chàm Ninh Thuận.
Biểu số 52
Việt Nam: Nài (Quản tượng)
Gia Rai: Naai
Ra Đê: Naai
Chàm: Naai
Biểu số 53
Việt Nam: Gãi, Ghẻ
Gia Rai Phú Bổn: Gải, Kuaĩ
Bà Na: Kổi (Cạo, Nạo ghẻ)
Các ông Tây cứ cho Chàm là Mã Lai, mà không biết rằng Việt Nam còn Mã Lai hơn cả Chàm nữa vì bao nhiêu danh từ Mã Lai được ta giữ gìn đúng còn Chàm thì biến rất xa.
Mã Lai: Bônga |
Việt Nam: Bông |
Chàm: Bơngư |
Mã Lai: Sôngai |
Việt Nam: Sông |
Chàm: Krong |
Mã Lai: Tangan |
Việt Nam: Tay |
Chàm: Tangưl |
Có nhiều danh từ Mã Lai bị Chàm bỏ mất luôn như Gunông và Phunông họ không biến thành Non thành Gò nổng như ta, mà nói là Chớ, một danh từ của chủng Mê-la-nê.
Không ai hiểu tại sao các ông Tây nhận diện được Chàm là Mã Lai, qua ngôn ngữ, mà không nhận diện được ta. Vâng, họ chỉ nhận diện được Chàm là Mã Lai, nhờ ngôn ngữ, chớ không nhờ chứng tích nào khác cả, trước cuộc đối chiếu kiến trúc Mã Lai và Chàm của ông Claeys.
Biểu số 54
Việt Nam: Mái (Giống cái của loài cầm)
Sơ Đăng: Maai (Vợ)
Cao Miên: Maai (Cung phi)
Gia Rai: Amaai (Chị cả)
Bà Na: Mmaai (Chị cả)
Bà Na: Maai (Cô dâu)
Khả Lá Vàng: Prmay (Con gái)
Chàm: Cà May (Đàn bà)
Trong xã hội Chàm, người Mã Lai đợt II chiếm đa số, nhưng danh từ Cà May lại là danh từ của Mã Lai đợt I chớ người Nam Dương, đàn bà họ nói là Wanita, còn người Đa Đảo nói là Wahinê.
Xin nhắc rằng ở Bắc Chiêm Thành, tức Lâm Ấp, Mã Lai đợt I đa số tuyệt đối, mặc dầu chính Mã Lai đợt II lập quốc.
Và Càmay là ngữ nguyên chánh của Mái và Cái với cái nghĩa là đàn bà, là giống cái mà chúng tôi hẹn trình ra trong lời chú thích dưới biểu số 26 khi nãy. (Cái của ta có hai nghĩa, một nghĩa do danh từ Mã Lai Lì Cáy mà ra và có nghĩa là đàn ông là lực lưỡng, là to lớn, là lãnh đạo. (Thí dụ Bố Cái đại vương, thợ cái, ngón tay cái). Nghĩa thứ nhì do danh từ Cà May nầy và có nghĩa là giống cái, là con mái).
Chỉ phiền là không tìm được nhóm Mã Lai nào nói Cà May như Chàm, hoặc nói Cái như Việt Nam. Chúng tôi chỉ tìm được có hai danh từ 1 wahita của Mã Lai và 1 wahinê của Đa Đảo mà thôi.
Và Chàm không hề là Mã Lai Đa Đảo bao giờ cả như các ông Tây cứ nói vì thấy trong ngôn ngữ của họ có vài yếu tố lạ.
Ngôn ngữ của Đa Đảo cũng đã được biết. Nó chỉ là Mã Lai ngữ, pha với Mê-la-nê ngữ, nhưng trong Chàm ngữ thì không có yếu tố Đa Đảo, như danh từ Cà May và Wahinê đã cho thấy là Chàm và Đa Đảo khác quá xa, Chàm chỉ là Mã Lai, chớ không có Đa Đảo gì hết.
Biểu số 55
Việt Nam: Mẹ (tức Mẫu thân)
Việt Bắc: Me
Việt Bình Trị, Thiên: Mạ
Mạ: Me
Bà Na: Me
Tàu Hải Nam gốc Lạc Lê: Mà
Cao Miên: Mê (Đàn bà trẻ tuổi)
Cao Miên: Ma đai (Mẹ, Má, đại danh từ chớ không là danh từ)
Thái: Maê
Cao Miên: Mê (Mẹ của thú vật)
Khả: Mè (Mẹ của người)
Mã Lai Java: Emak (Mẹ. Chữ E đọc nuốt phân nửa, chỉ còn nghe là Mak).
Biểu số 56
Việt Nam: Mợ (Vợ của cậu)
Gia Rai: Kmơi (Đàn bà)
Khả văn minh: Mơ (Mẹ)
Kơyong: Mơ (Mẹ)
Bà Na Gôlar: Mơ (Chị cả)
Bà Na Halong: Mơ (Chị cả)
Sơ Đăng: Moo (Mẹ)
Biểu số 57
Gia Rai: Mi (Mẹ). Đừng lầm với Mi là Mày của Bà Na và của Việt Nam.
Bà Na: Mi-i (Em dâu). Đừng lầm với Mi là Mày chỉ có một chữ I.
Biểu số 58
Việt Nam: Nạ (Mẹ có nhiều con: Chờ Nạ thì má đã sưng).
Việt Nam Trung Cổ: Ang Nà (Tự điển Huỳnh Tịnh Của = Mẹ)
Gia Rai: Ina (Mẹ)
Chàm: Ina (Mẹ)
Ra Đê: Ana (Mẹ)
Cổ ngữ Tây Âu: Nả (Mẹ)
Nhựt Bổn: Onna (Đàn bà)
Mã Lai Sumatra: Jnang (Mẹ)
Bằng vào danh từ miền Nam Ang Nà của Tự vị Huỳnh Tịnh Của, ta biết chắc rằng cách đây một trăm năm, người Việt miền Nam chưa dùng danh từ Mẹ, Má, mà nói là Ang Ná, và chắc Bắc và Trung cũng thế, nhưng không có ai ghi chép như Huỳnh Tịnh Của, nên không ai biết rằng có. Riêng Bắc Việt có lẽ dùng song song Nạ và Ang Ná.
Và Việt Nam rất giống Nhựt Bổn là cho danh từ đó một nghĩa nữa là Đàn bà (gái nạ dòng) chớ không phải chỉ có nghĩa là Mẹ. Có lẽ gốc cũ chính là đàn bà, vì Nhựt Bổn rất thủ cựu ít biến nghĩa của danh từ cũ lắm.
Người Quảng Đông, hậu duệ của Tây Âu, vẫn viết Mẫu, đọc là Mụ, y theo Tàu, nhưng trong dân chúng, họ luôn luôn đọc chữ Mẫu là Nã hoặc Na. Họ có thành ngữ Chẩy Nã là Mẹ con. Họ lại chưởi Tiểu Na Má, tức như ta chưởi Đ… mẹ.
Từ ngữ Chẩy Nã (Tử Mẫu) cho thấy rõ rằng người Quảng Đông là Thái chớ không phải là Tàu, vì người Tàu luôn luôn để Mẹ đứng trước con, thế thì phải Nã Chẩy (Mẫu Tử) mới đúng luân lý Khổng Mạnh.
Nhưng người Thái biến thành Tàu không mê Khổng Mạnh bằng Việt Nam. Như đã nói, phong tục luyến ái của người Thái rất buông lơi và theo các bản thống kê quốc tế thì ở Quảng Đông, gái buôn hương đông nhứt nước Tàu, bịnh hoa liễu lại cao nhứt thế giới.
Sự kiện đó cũng xảy ra như vậy ở Chợ Lớn, mà gái Phúc Kiến không có làm kỹ nữ như gái Quảng Đông. Việc thay đổi vợ chồng cũng xảy ra trong cộng đồng Phúc Kiến ít hơn là trong cộng đồng Quảng Đông một cách rõ rệt.
*
* *
(còn nữa)