Phụ chú về lời chú thích biểu đối chiếu danh từ Cái ở vài trang trước.
Về câu đầu của bài hát trẻ con ở miền Bắc “Bắt cái hồ khoan” ông Tàu Việt Điểu trong Văn hóa Nguyệt san số 56, năm 1960, đã bác lối giải thích của ông Ngô Quý Sơn trong tập kỷ yếu B.I.I.E.H. 1943. Ông Ngô giải thích rằng Bắt Cái có nghĩa là bắt thăm để làm nhà lãnh đạo, theo lối rút cọng rơm ngắn hay dài, một lối bắt thăm của ta.
Ông Tân Việt Điểu cho rằng Bắt cái = Bát, Cạy, tiếng Chàm mà ta học được ở miền Trung.
Nhưng theo chỗ chúng tôi biết thì Mã Lai Nam Dương và Chàm có động từ Kuak (Cạy) là chèo lệch sang một bên, còn Pối (Bát) là chèo một cách khó nhọc tức chèo từ trái sang phải, cực nhọc vì dân Việt Tả nhậm lấy bên trái làm bên thuận (Tư Mã Thiên). Bao nhiêu chim, nai đều bay và đi từ phải sang trái ở trống đồng, cực nhọc vì làm trái với thói quen của họ. Ta đã mượn của Chàm, nhưng chỉ biến thành Bát và Cạy mà thôi còn Bắt Cái là một câu hát tối cổ của ta ở đất Bắc thì ta phải vay mượn của đợt II bổ sung, tức của người Mường tại Bắc Việt, bởi cuộc Nam tiến thật sự chỉ xảy ra dưới trào Lý mà xem ra, bài hát đó cổ hơn nhiều.
Như thế thì từ Cái trong Bắt cái chỉ có thể là bắt thăm để làm Láky tức làm Lìcáy, tức làm nhà lãnh đạo trong một trò chơi, hoặc có nghĩa là Bắt lãnh tụ của địch, trong một trận thủy chiến. Ta đã có tiếng Cái ấy rồi từ thuở Bố Cái Đại Vương, chớ không đợi Việt Chiêm chiến sử mới có.
Cả ngày nay trong cờ bạc người ta vẫn còn dùng từ ngữ Bắt cái tức bắt thăm để làm cái, bằng cách rút phóng mạng một con bài, hễ ai nhiều nút thì Làm Cái.
Bắt Cái của ngày nay và của ngày xưa đều có nghĩa là bắt thăm để làm Xếp trong một trò chơi, nhứt là thi đua bơi chèo.
Đó là bài hát Chanson folklorique của một dân tộc thì không thể có chữ nho trong đó được. Như vậy Hồ khoan cũng phải là tiếng Mã Lai có nghĩa gì đó mà ta truy chưa ra, chớ không thể nào mà là chữ nho Hải Hồ Khoan như ông Tân Việt Điểu đã nói. Chúng tôi đang nỗ lực học thêm tiếng Mã Lai để đi sâu vào ngôn ngữ ấy hầu tìm biết những danh từ bí hiểm của ta có nghĩa là gì. Chúng tôi đã tìm được vô số danh từ như Tràm Lục, sông Trẹm với nghĩa đúng của nó trong ngôn ngữ Mã Lai, nên chúng tôi tin rằng chúng tôi sẽ biết được Hồ Khoan là gì, và chắc chắn không là chữ nho vì cái lẽ tự nhiên là Chanson folklorique phải có rất lâu đời, trước khi chịu ảnh hưởng ngoại lai, thì không thể là chữ nho được.
*
* *
Biểu số 59
Việt Nam: Bu (Mẹ)
Cổ ngữ Mân Việt: Pô (Mẹ)
Các đảo Mã Lai: Ibu (Mẹ)
Mã Lai Johore: Papu (Nhũ mẫu)
Biểu số 60
Việt Nam: Bố (Cha)
Cổ ngữ Mân Việt: Pế
Tàu Hải Nam gốc Lạc Lê: Pe
Mã Lai: Pa
Thái: Por
Cao Miên: Pút
Tamoul, tức Nam Ấn gốc Mã Lai: Babu
Đại danh từ U của Việt Nam, chúng tôi tìm không ra nguồn gốc, có lẽ nó chỉ là biến thể của Ibu của Mã Lai.
*
* *
Người Việt miền Nam đã bắt chước Thất Mân dùng danh từ Tía, nhưng họ dùng sai giọng đọc lẫn cả nghĩa. Danh từ đó là Tia (không có dấu sắc) và đó là danh từ của Mã Lai đợt II. Thất Mân, Lạc bộ Mã, các đảo Mã Lai đều nói là Tưa và đó là Cha vợ chớ không phải là Cha như người Việt miền Nam đã dùng sai. Nam Dương và Thất Mân (Phúc Kiến) đều dùng đúng nghĩa là Cha vợ.
*
* *
Quan Thoại có Pà Pá, nhưng đó là đại danh từ để xưng hô, chớ không phải là danh từ. Danh từ của họ là Fuá Tsil = Phụ thân.
Nhưng đó là trường hợp ngẫu nhiên vì Bắc Ấn Độ nói Pa, Pháp nói Papa, không hề có vấn đề Mã Lai vay mượn của Tàu hay của Pháp.
Biểu số 61
Việt Nam: Đẻ
Mạ: Đẻ
Bà Na: Kđẻ
Mường: Tể
Nói Mường gần ta hơn, nhưng ở đây thì thấy Mạ giống ta hơn Mường.
Biểu số 62
Việt Nam: Tỳ (chống tay)
Bà Na: Tiết
Gia Rai: Tít
Biểu số 63
Việt Nam: Già
Thái: Kà
Mạ: Krà
Bà Na: Kra
Bà Na: Ya (Bà già)
Gia Rai: Tla
Chàm: Tahaa
Mã Lai: Tu À
Cu Ti: Khaa
Khả Lá Vàng: K’rrà
N.B.- Mạ và Khả Lá Vàng sống cách nhau hơn 1.000 cây số, nhưng lại rất giống nhau.
Biểu số 64
Việt Nam: Tre
Việt Nam Trung Cổ
(A. de Rhodes): Ble
Bà Na: Plee
Gia Rai: Bu Le
Mạ: Gle
Mường: Tle
Biểu số 65
Việt Nam: Trăn (một thứ rắn to)
Mạ: Klan
Gia Rai: Tlan
Sơ Đăng: Klan
Bà Na: Klan
Biểu số 66
Việt Nam: Trẻ
Mường: Tlẻ
Khả Boloven: Plẻ
Biểu số 67
Việt Nam: Vải
Bà Na: Kpải
Gia Rai: Kpải
Cao Miên: Kpải
Khả Lá Vàng: Kpở
Mạ: Byải
Biểu số 68
Việt Nam: Chí, chấy (rận tóc)
Mạ: Chí
Sơ Đăng: Chí
Bà Na: Tzi
Cao Miên: Chaay
Biểu số 69
Việt Nam: Khố (quần)
Cao Miên: Kho
Mạ: Kho
Xi Tiêng: Kho
Biểu số 70
Việt Nam: Mùi (màu sắc). Nói theo Trung và Bắc.
Gia Rai: Bui
Cao Miên: Mau
Biểu số 71
Việt Nam: Mùi (vị). Huế cũng đọc là Màu.
Bà Na: Moou
Gia Rai: Bao
Mã Lai: Baou
Biểu số 72
Việt Nam: Há (miệng)
Bà Na: Haa
Gia Rai: Haa
Sơ Đăng: Haa
Mã Lai: Haa
Biểu số 73
Việt Nam: Lợi (Nướu răng)
Gia Rai: Lơni
P. Kli: Lươni
Mạ: Lưng
Bà Na: Li in
Chàm: Liên
Mã Lai: Lơny
Biểu số 74
Việt Nam: Bú
Cao Miên: Bau
Mạ: Pu
Biểu số 75
Việt Nam kim: Trời
Việt Nam Trung Cổ: Blời và Tlời
Mường: Blời
Mạ: Trô
Bà Na: Blơny
Nhựt Bổn: Hara
Khả Boloven: H’ngày
Mã Lai Célèbes: Hơry
Mã Lai các đảo khác: Hari
Có lẽ lộ trình biến dạng là như thế nầy:
Hơri, Hari (Mã Lai) biến thành Hara (Nhựt Bổn)
Hơry - Hơny
Hơny - Blơny (của Bà Na)
Blơny - Blời (Việt Nam Trung Cổ)
Blời - Trời (Việt Nam hiện đại)
Blời - Trô (Mạ)
Nhưng trong xâu chuỗi nầy, chúng tôi chưa tìm ra cái khoen Hơny, có lẽ là của nhóm Mã Lai rừng rú nào đó ở Bornéo. Nhưng cái khoen Bà Na Blơny cho thấy quá rõ lộ trình biến dạng như thế đó. Sự biến dạng của danh từ Mã Lai Lơny thành Lợi của Việt Nam ở biểu số 74 trên đây cũng qua một lộ trình tương tợ như Hơry thành Trời. Chúng tôi để biểu Lợi và Trời cạnh nhau để cho thấy rõ cái luật biến dạng đó.
Trong biểu đối chiếu danh từ Ngày, chúng tôi đã nói khá nhiều về danh từ Hari của Mã Lai và Hara của Nhựt Bổn, nhưng nói chưa đủ.
Thoạt kỳ thỉ, các nhà ngôn ngữ học Âu Mỹ ngỡ rằng Mã Lai đã vay mượn danh từ đó của Phạn ngữ là Surya. Nhưng xét ra thì Nhựt Bổn không có tiếp xúc với Ấn Độ trước Tây lịch mà họ đã có Hara trước Tây lịch rồi, thì sự hơi giống nhau giữa Hari, Hara và Surya chỉ là một cuộc trùng hợp ngẫu nhiên như trường hợp danh từ Cái Đầu của Việt Nam ngẫu nhiên trùng hợp với Tàu.
Ngày nay thì Mã Lai Nam Dương chỉ còn dùng danh từ Hari trong hai trường hợp:
Hari = Ngày
Hari = Ông Thiên
Muốn chỉ vòm trời, họ nói Langít, Chàm cũng nói thế. Người Thái thì biến thành Ngèn, còn người Cao Miên không biến nhưng lại cho nó một nghĩa hơi khác là Trời chiều.
Khi mà Cao Miên và Thái đều có Langít (biến dạng, biến nghĩa chút đỉnh) thì ta cũng phải có vì cả hai đợt đều có hai danh từ chỉ trời với hai nghĩa khác nhau:
Vòm trời (vật chất)
Ông Thiên (thiêng liêng)
Việt Nam đã đánh mất Langít, chớ không phải là không có, bằng chứng là các nhóm đợt I khác đều có.
Xin chú ý: Tất cả mọi nhóm đều dùng danh từ Hari với ý nghĩa thiêng liêng, người Mã Lai Nam Dương gọi mặt trời là Mata Hari, tức Mắt của vòm trời.
Tàu thì chỉ có độc một danh từ Thiên để chỉ hai ý niệm Thiêng liêng và Vật chất, tức chỉ ông Thiên và vòm trời.
Danh từ Nhựt của Tàu tuy chỉ mặt trời, nhưng không mang ý niệm ông Thiên hay vòm trời nữa.
*
* *
Danh từ Trời thì biến dạng lung tung như thế đó, nhưng danh từ Trăng thì rất là đồng nhứt trong tất cả mọi nhóm.
Biểu số 76
Việt Nam: Mặt trăng
Mạ: Maht Kan
Thái: Jăng
Khả Lá Vàng: Mặt Kai
Bà Na: Mat Tlang
Cổ ngữ Ba Thục: Chắng
Gia Rai: Blăang
Chàm: Blăang
Miến Điện: Blăang
Tây Tạng: Blăang
Mã Lai: Bulăng
Thái, trên biểu nầy là Thái Lan, gốc Vân Nam. Nhưng Thái thượng du Bắc Việt Nam thì gọi Trăng là Bưông. Đó là một danh từ kỳ dị không giống danh từ của đợt I, cũng chẳng giống danh từ của đợt II.
Danh từ Trăng là danh từ may mắn nhứt có đủ mặt tất cả các dân tộc gốc Mã Lai, thế mà Thái thượng du Bắc Việt lại đi chơi riêng thì quả thật đáng buồn. Không biết là họ vay mượn của ai, chúng tôi truy mãi mà không ra. Họ cũng chỉ là Thái Vân Nam và Thái Lưỡng Quảng di cư xuống chớ không phải là Thái bí mật nào. Nhưng cho đến cả Ba Thục còn nói là Chắng thì không lẽ Tây Âu lại nói Bưông vì Ba Thục và Tây Âu đồng ngôn y như Nam Việt và Bắc Việt.
Chú ý: Một quyển tự điển Anh - Thái Lan mà chúng tôi mua từ Thái Lan về để kiểm soát lại sự hiểu biết về tiếng Thái của chúng tôi, lại viết rằng trong ngôn ngữ Thái Lan, Trăng nói là Đuăng. Thế thì không còn ăn khớp với Jăng ở trên đây nữa mà chúng tôi học với Việt kiều ở Thái hồi hương. Nhưng dầu cho jăng hay Đuăng gì, nó cứ đồng gốc tổ với Blăng của Tây Tạng.
Nhưng người Chàm thường thêm danh từ EA trước Blăng; tức có nghĩa là Bà Trăng, cũng như Việt nói Ông Trăng vậy.
Danh từ Chàm EA là Nước không phải biến thể của tiếng Mã Lai Ayer. Đó là tiếng Lưỡng Hà có nghĩa là Nữ thần nước, thế nên nó mới đứng trước danh từ Blăng và có nghĩa thật đúng là Bà Trăng, Nữ thần Trăng.
Ta sẽ thấy rằng kẻ đến khai hóa đất Chàm, không phải là Ấn Độ như các ông Tây tiền chiến đã viết. Theo khám phá mới thì đó là người Ba Tư gốc Nhục Chi.
Nhưng bọn Ba Tư Nhục Chi nầy lại có thể là gốc Lưỡng Hà, theo khám phá của riêng chúng tôi, chính vì danh từ EA là Nước của người Chàm, bởi đó là danh từ Lưỡng Hà không thể chối cãi. Dân Ba Tư lại thờ Mặt Trăng.
Nhưng tôi tìm được hai ba chứng tích rằng Chàm do Lưỡng Hà khai hóa chớ không phải Ấn Độ (sẽ nói rõ ở chương Chàm).
*
* *
Trong quyển Atlas ethnographique du globe, Paris, 1821, thấy ghi rằng vào năm đó, Việt Nam gọi Trăng là Blăng, tức giống hệt Gia Rai, Chàm, Miến Điện, Tây Tạng. Và tiếng Việt rời xa gốc tổ không lâu lắm như ai cũng đã ngộ nhận.
Biểu số 77
Việt Nam kim: Trái
Việt Trung Cổ: Blái
Mường: Blái
Khả Lá Vàng: Plái
Bà Na: Plây
Mạ: Plái
Cao Miên: Ph’le
Thái: Pho-la
Chú ý: Trong ngôn ngữ Chàm thì Plây có nghĩa là Xứ, là Vùng. Ở Ninh Thuận có làng Chàm Plây Râm, tức Vùng rậm rạp, đã được Việt hóa thành làng Văn Lâm.
Danh từ Trái trên đây là của Mã Lai lưỡi rìu tay cầm đợt I, tức Lạc bộ Trãi. Dạng từ của Lạc bộ Mã là Bu Ả. Nhưng không phải là do Quò, Quó, Quả của Tàu vì khoa khảo tiền sử cho biết rằng lúc di cư thì Lạc bộ Mã thuần Mã Lai, không có hợp chủng, không có chịu ảnh hưởng Tàu.
Biểu số 78
Việt Nam: Về, Vìa (Nam kỳ)
Bà Na: Wia
Nam Gia Rai: Wit
Ra Đê: Wit
Mường: Vê
Chàm: Vơk
Cao Miên: Vil
Kơ Yong: Val
Một điều lạ lùng hết sức là người Bà Na với người Việt miền Nam đọc các danh từ quá giống nhau, sáng tác danh từ mới cũng quá giống nhau như Jông, Nhồng (Yểng) chẳng hạn, mà họ thì không hề có liên lạc với Bà Na trước năm 1954.
Nếu đọc quá giống một danh từ chung, ta có thể nghĩ rằng qua khỏi vĩ tuyến nào đó, dân Lạc phải đọc khác, và mọi người mọi nhóm đều đọc khác như nhau. Nhưng vấn đề sáng tác thì đã khác. Có lẽ hồi xưa, Bà Na và Việt miền Trung không sống riêng rẽ như ngày nay, và chính những người Việt miền Trung ấy đưa giọng đọc và danh từ vào Nam.
Biểu số 79
Việt Nam: Khạc
Bà Na: Kơhak
Cao Miên: Khac
Khả Lá Vàng: Khé
Biểu số 80
Việt Nam: Nhổ (Khạc nhổ)
Sơ Đăng: Kơ cổ
Bà Na: Kơ sỏ
Biểu số 81
Việt Nam: Rừng, Rừng rậm, Rừng rú
Mạ: Pri, Prưng
Cao Miên: Prây
Thái: Sây và Rú
Khả Lá Vàng: Brây, Bru
Chàm: Râm
Chàm: Rố (glai)
Chuỗi biến dạng có thể là từ cái gốc Ri của ai đó, ta truy chưa ra.
Ri biến thành Ru, Rú, Rố (glai) và Pri.
Pri biến thành Prưng, Prây và Rừng.
Ta thiếu mất cái khoen Ri không biết của dân tộc nào.
Tới Rừng thì có sự trở về nguồn. Việt Nam nhập Rừng với Rú để làm Rừng Rú, rồi lại nhập Rừng với Rậm để làm Rừng Rậm.
Nhưng Rú thì chỉ có hai tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh là dùng mà thôi. Tại sao vậy? Có lẽ đó là ảnh hưởng Lào ở gần đấy. Ở quê hương của Nguyễn Du thì danh từ Rú được dùng gần như đơn độc, ít có dùng Rừng lắm.
Ông H. Maspéro lại cho rằng chánh gốc là Rú của Thái. Ông không biết Pri, Bru và Prưng để thấy được sợi dây chuyền của danh từ Rừng của ta.
Bác sĩ Reynaud ghi là Brai thì sai. Phải ghi là Prei trong Pháp văn mới đúng.
Ở đây có một sự kiện giống nhau lạ lùng giữa Mạ và Việt.
(Mạ) Prưng = (Việt Nam) Rừng
Dân Mạ quá nhỏ trong các bộ lạc khác, ở quá xa gốc chánh Việt Nam, cớ sao có sự kiện kỳ lạ như thế?
Mà đừng tưởng là họ biến Rừng của ta thành Prưng của họ. Họ có hai danh từ mà họ dùng khác nhau, tức họ đã có từ lâu nên mới được ghi sâu vào văn phạm của họ như vậy.
Thú rừng = Pom tahm pri
Gà rừng = Yhr prưng
Với thú thì Pri còn với cầm thì Prưng, họ cũng đã dùng khác nhau, trong nhiều trường hợp, và đó là bằng chứng không phải họ mới học với ta sau nầy. Vả lại họ học làm gì, khi họ đã có danh từ Pri rồi?
Rố và Râm đều là danh từ của Mã Lai đợt I của Chàm miền Bắc du nhập xuống Ninh Thuận, chớ danh từ của Mã Lai đợt II là Hu Tăng mà người Pháp biến thành Outang trong danh từ Orang-Outang (người vượn rừng).
Có thuyết cho rằng Lâm Ấp là tên mà Tàu phiên âm của Chàm miền Bắc là Râm Iếp, tức vùng Rậm rạp (Thừa thiên cổ thời).
Thuyết nầy có vẻ đúng hơn thuyết Lâm Ấp là sự co rút của Tượng Lâm Ấp.
Lâm Ấp là danh tự xưng thì phải là ngôn ngữ của Lạc Lồi, hoặc Lạc bộ Mã, của bọn Khu Liên, chớ không thể nào mà là tiếng Tàu được.
Vả lại Tàu gọi nơi ấy là Tượng Lâm, huyện chớ không bao giờ gọi là Tượng Lâm ấp. Trong ngôn ngữ Trung Hoa, danh từ ấp chỉ một vùng đất rất lớn, lớn bằng cả nước Việt Nam của ta, thí dụ An ấp, Lạc ấp đều là những vùng mà vua nhà Hạ, nhà Chu để dành cho họ đủ ăn, còn các ấp khác thì họ phong cho chư hầu. Huyện Tượng Lâm chỉ bằng một tỉnh Việt Nam nay thì không xứng đáng với danh từ Ấp của Trung Hoa đời Hán.
Cũng nên nhớ rằng Tàu luôn luôn thay âm R mà họ thiếu bằng âm L khi nào phải phiên âm danh xưng ngoại quốc. Vậy thì Râm biến thành Lâm là đúng. Ta cũng đã biết Plây râm thành Văn Lâm.
Thế thì còn danh từ Ngàn của Việt Nam do đâu mà ra? Chúng tôi hồ nghi nó do Utang của Mã Lai Nam Dương mà Pháp biến thành Outang, trong Orang-Outang.
Nhưng chúng tôi chỉ nói qua vậy mà thôi, muốn nối kết hai danh từ khác nhau, phải có đủ cả xâu chuỗi biến dạng, điển hình là danh từ Lợi của Việt Nam.
Danh từ Trời tuy thiếu mất một cái khoen của xâu chuỗi nhưng vẫn có xâu chuỗi đó. Còn với Utang và Ngàn thì chúng tôi tìm những khoen trung gian chưa ra. Nhưng nó vẫn phải có ở đâu đó, vì có đến 2.000 phương ngữ Mã Lai Nam Dương mà chúng tôi học đến bạc đầu cũng chưa xong.
Vậy xin nhường lại cho thế hệ sau để truy nguyên nguồn gốc của danh từ Ngàn mà không có nhóm nào có cả, trong các nhóm mà tôi đã học ngôn ngữ, kể cả bao nhiêu nhóm Thượng Cao nguyên vốn cũng đông vô số kể rồi.
Biểu số 82
Việt Nam: Rức
Gia Rai: Ruac
Bà Na: Rố
Ra Đê: Rứ
Chàm: Ruik
Mã Lai: Ruak
Biểu số 83
Việt Nam: Bay (lên trời)
Bà Na: Par
Gia Rai: Poor
Biểu số 84
Việt Nam: Ngáp
Cao Miên: Sngap
Bà Na: Sơ ngap
Gia Rai, Chàm: Hơap
Mã Lai Á: Kuap
Mã Lai Johore: Sa ngap
Biểu số 85
Việt Nam: Lột (vỏ)
Bà Na: Lok
Gia Rai: Lỏ
Biểu số 86
Việt Nam: Rét
Gia Rai: Rơot
Jêh: Root
Bà Na: Hrơt
Khả Lá Vàng: Dét
Biểu số 87
Việt Nam: Sán (xơ mít)
Bà Na: Klan
Gia Rai: Tlaan
Biểu số 88
Việt Nam: Quăng, Quẳng
Sơ Đăng: Hoang
Jêh: Toual
Bà Na: Hoang
Biểu số 89
Việt Nam: Mây (Rotin)
Gia Rai: Hwây
Chàm: Hwây
Mặc dầu Chàm có danh từ nầy, nhưng đó là danh từ của Mã Lai đợt I do bọn Lâm Ấp đưa xuống. Tiếng Mã Lai đợt II mà đáng lý Chàm phải dùng là Rô Tăng (mà Pháp vay mượn, biến thành Rotin).
Biểu số 90
Việt Nam: Môi
Gia Rai: Boai
Cao Miên: Bobôô
Khả Lá Vàng: Bưa (Âm M của cổ Việt là B)
Biểu số 91
Việt Nam: La (hét)
Gia Rai: Laa
Cao Miên: Lôla
Biểu số 92
Việt Nam: Cành
Sơ Đăng Koirap: Kâng
Bà Na: To kơng
Sơ Đăng Tổng quát: Tkhơng
Cổ ngữ Ba Thục: Chảnh
Khả Boloven: Kưng
Biểu số 93
Việt Nam: Một
Mường: Môt
Cao Miên: Mui
Bà Na: Môny
Sơ Đăng: Môi
Khả Nam Om: Moy
Khả Boloven: Muôi
Biểu số 94
Việt Nam: Hai
Mường: Hai
Kơyong: Haai
Khả Nam Om: Hai
Biểu số 95
Việt Nam: Nhị
Khả Boloven: Bư
Cao Miên: Phải
Cổ ngữ Mân Việt: Ni, Nò
Bà Na: Nyi
Cổ ngữ Ba Thục: Nhi
Cổ ngữ Tây Âu: Dzi
Quảng Đông: Dzi
Tây Tạng: Ngi
Chữ Nhị nầy là một hình thức đề kháng của người Tây Âu khi họ bị đồng hóa thành Trung Hoa ở Quảng Đông. Đó cũng là danh từ chung của Mã Lai gốc Tây Tạng song song với danh từ Hai. Riêng Việt Nam, ta vừa dùng Nhị vừa dùng Hai. Đồng thời về Hán Việt ta cũng đề kháng mà nói Nhị chớ không nói theo Trung Hoa là Ơl.
Tất cả các nhóm Trung Hoa đều nói Ơn, Ờn, Ớn, chỉ trừ Mân Việt và Quảng Đông vì bị đồng hóa sau hết nên còn giữ được Ni, Dzi. Riêng nhóm Khách Gia tức Hakka, tức Hẹ, là Ba Thục, bị đồng hóa trước khi Tần Thỉ Hoàng lên ngôi, nhưng đây là nhóm chạy xuống lánh thân ở Quảng Đông nên cũng cứ giữ được Nhi của họ.
Biểu số 96
Việt Nam: Ba
Mường: Pa
Mạ: Pê
Sơ Đăng: Pii
Cao Miên: Pee
Khả Nam Om: Pa
Khả Boloven: Pê
Biểu số 97
Việt Nam: Bốn
Mường: Pươn
Khả Nam Om: Pon
Khả Boloven: Puôn
Bà Na: Pươn
Sơ Đăng: Puôn
Cao Miên: Puôn
Mạ: Puôn
Biểu số 98
Việt Nam: Năm
Mường: Kam
Bà Na: Pơđđm (ĐĐ Bà Na = NN của Việt Nam)
Cao Miên: Pram
Mạ: Prahm
Khả Nam Om: Đam
Biểu số 99
Việt Nam: Sáu
Mạ: Prao
Bà Na: Tdruao
Khả Boloven: Trau
Tất cả các nhóm Thượng đều có từ số 6 đến số 10, chỉ có Cao Miên là không có. Thế mà các ông Tây lại nói rằng tiếng Thượng là một phương ngữ phụ của Miên ngữ.
Biểu số 100
Việt Nam: Bảy
Mường: Pai
Khả Nam Om: Pay
Khả Boloven: Po
Mạ: Pỏ
Sơ Đăng: Pải
Bà Na: Pải
Jêh: Pải
Biểu số 101
Việt Nam: Tám
Bà Na: Tơngaam
Mạ: Pàm
Kơ Yong: Tơham
Khả Nam Om: Sam
Khả Boloven: Tham
Jêh: Tam
Sơ Đăng: Tham
Xiêng tiêng: Pam
Gia Rai: Spam
Biểu số 102
Việt Nam: Chín
Mường: Chín
Mạ: Shin
Sơ Đăng: Chin
Kơ Yong: Chin
Bà Na: Tơsin
Khả Nam Om: Kin
Khả Boloven: Chin
Biểu số 103
Việt Nam: Mười
Mạ: Mơht
Mường: Mươi
Khả Nam Om: Muy
Khả Boloven: Chêt (Chục)
Đây là 10 con số của Mã Lai đợt I, Nam Dương là Mã Lai đợt II, nên 10 con số ấy của họ khác ta hết.
Biểu số 104
Việt Nam: Vật (Thú vật)
Cao Miên: Sât
Thái: Sât
Biểu số 105
Việt Nam: Lỗ
Bà Na: Lỗ
Gia Rai: Lủ
Mã Lai: Lubang
Cao Miên: Lô
Biểu số 103
Việt Nam: Còng, Vòng (tức cái xuyến đeo tay)
Cao Miên: Kong
Gia Rai: Kuung
Bà Na: Kuay
Biểu số 107
Việt Nam: Đốt
Ra Đê: Đuic
Bà Na: Tơk
Jêt: Têk
Biểu số 108
Việt Nam: Gió
Hrê: Yau
Sơ Đăng: Kơya
Nhựt Bổn I: Kazi
Nhựt Bổn II: Thôyò
Khả Boloven: Yưll
Mã Lai Á: Bayu
Biểu số 109
Việt Nam: Năm (Année)
Cao Miên: Chonam
Bà Na: Đđam
Biểu số 110
Việt Nam: Thêm
Cao Miên: Thêm
Gia Rai: Thiam
Bà Na: Tam
Biểu số 111
Việt Nam: Gầy
Rơn Gao: Rơnghi
Sơ Đăng: Rơghi
Mạ: Rgay
Khả Boloven: Srầy
Người Mạ không hề có tiếp xúc với Bắc Việt, chỉ gần Nam Việt thôi còn Nam Việt nói ốm chớ không bao giờ nói gầy. Vậy mà Mạ và Bắc Việt vẫn có chung danh từ với nhau, tức đồng gốc tổ rồi vậy.
Biểu số 112
Việt Nam: Muỗi
Cao Miên: Mú
Bà Na: Mỏi
Gia Rai: Moả
Mã Lai: Mok
Biểu số 113
Việt Nam: Đan
Gia Rai: Laam
Bà Na Rơbang: Klan
Biểu số 113 bis
Việt Nam: Nửa, Rưởi
Ra Đê: Nả
Cao Miên: Kamlả
Biểu số 114
Việt Nam: Xơi
Cao Miên: Xi, Sa
Khả Boloven: Cha
Cổ ngữ Mân thứ 7 trong Thất Mân (Triều Châu):
Chìa
Mạ Biên Hòa: Saa
A Ka Lông: Haa
Biểu số 115
Việt Nam: Ăn
Mường: An
Cao Miên: Ănh
Khả Nam Om: An
Khả Lá Vàng: An
Mã Lai: Mak An
Tôi rất bối rối trước hai nhóm danh từ có nghĩa là Ăn. Nếu lấy Mark-An của Mã Lai Nam Dương làm cái mốc thì Ăn đích thị là danh từ của Mã Lai đợt II.
Thế nhưng Mân Việt, Lạc bộ Mã, cũng là Mã Lai đợt II lại nói Chìa, đồng gốc với động từ Mã Lai đợt I là Cha của Khả Boloven, Sa của Cao Miên?
Trong xã hội Mân Việt không thể có hai đợt Mã Lai như trong xã hội Cao Miên hoặc Việt Nam mà danh từ của đợt nào, có mặt cũng không làm cho ai ngạc nhiên hết. Ở Mân Việt chỉ có độc một đợt là đợt II, đợt Lạc bộ Mã, con dân của Câu Tiễn.
Biểu số 116
Việt Nam: Nhắm
Việt Nam: Liếm (Ăn theo lối chó ăn)
Mường: Lam
Cao Miên: Nham
Ra Đê: Miam (Ăn)
Bà Na: Miam (Ăn)
Mã Lai Á: Nyam (Ăn tiếng nói của trẻ con)
Mã Lai Á: Minum (Uống)
Cổ ngữ Đông Âu
(Phúc Kiến): Lim (Ăn và Uống)
Mã Lai Phi Luật Tân: Mi miom (Ăn)
Thật ra thì Nhắm là uống hơn là ăn, nhưng vẫn có ăn thế nên Đông Âu dùng tiếng đó vừa chỉ ăn mà cũng vừa chỉ uống.
Biểu số 117
Việt Nam: Cà
Chàm: Kán (Âm Án đọc theo Bắc Việt
tức như Ál của Pháp)
Mường: Ka
Sơ Đăng: Kaa
Khả Lá Vàng: Aka
Khả Boloven: Ca
Thái: Blá
Nhựt Bổn: Sakána
Mã Lai: I-Kán (Chữ N cuối cũng đọc như Bắc Việt
hoặc như L của Pháp)
Biểu số 118
Việt Nam: Ghe
Cao Miên: Thwe (ghe chài loại to lớn)
Mã Lai: Gav
Chúng tôi đã cho thấy rằng Bắc Việt chỉ mới mất những danh từ thuần Việt là Bông, Trái, Muỗng, Ghe vào đầu đời Thanh vì lưu vong nhà Minh tràn ngập vùng đó (Khâm Định Việt Sử, Bản dịch Langlet).
Thế nên không ai biết Hòn Gay là cái gì. Có lẽ đó là cái đảo mà ngày xưa là Bến Ghe thương hồ, và nó ăn khớp phần nào với Kattigara của Ptolémée, chớ Kattigara không thể là Oc Eo như ông Melleret đã viết.
Kathi có thể nào là Kẻ Thị chăng? Vâng, Kẻ Thị và Kẻ Chợ cũng thế thôi. Và Kathi Gara là Kẻ Thị Gay, tức thành phố ghe thuyền, tức thương cảng.
Cũng nên biết rằng Ptolémée đến nơi đó vào cuối thế kỷ thứ II S.K., thế nghĩa là ta bị Mã Viện chinh phục gần hai trăm năm rồi, và sự vay mượn danh từ Thị đã xảy ra rồi.
Hoặc Kattti hay Kathi là Cái Xị của Quảng Đông không chừng, vì dân cổ Tây Âu đã tràn sang đó để buôn bán vì bị trị trước và vì thạo thương mãi hơn ta.
Dầu sao, không vì thế mà Kattigasa lại nằm trong tỉnh Quảng Đông như có nhiều ông Tây đã nói, vì Gara không ăn vào với địa danh nào cả trừ với Gay ở Hòn Gay mà thôi.
Kattigara cũng không thể là Oc Eo như ông Melleret đã viết vì ông R.A. Stein đối chiếu sự miêu tả cảnh vật của Ptolémée thì thấy nó không ăn khớp với vùng Oc Eo tí nào cả.
Biểu số 119
Việt Nam (kim): Trầu
Việt Nam Trung cổ: Tlù
Mường: Plù
Cao Miên: Mìu
Bà Na: Bơaou
Sơ Đăng: Graou
Mã Lai: Brao
Biểu số 120
Việt Nam: Ta
Gia Rai: Ta
Chàm: Kta
Mã Lai: Kita (chỉ có nhà vua mới được dùng)
Mã Lai Kelantan: Kita (thường dân cũng được dùng)
Biểu số 121
Việt Nam: No tức Đâu (No Nao = Đâu nào)
Cao Miên: Na
Mường: No
Biểu số 122
Việt Nam: Mặc (áo)
Bà Na: Bak
Gia Rai: Bak
Ba thí dụ dưới đây làm cho thuyết của giáo sư Lê Ngọc Trụ bị xáo trộn, như đã trình bày về vụ người Mường “Chàm thau” từ ngàn xưa, và về sự chiết tự chữ Nỗ của Tàu.
Chúng tôi xin lặp lại, cho đoạn nầy được trọn bộ, mặc dầu cả ba bản đều đã trình ra rồi ở đoạn trước nhơn một dịp khác.
Biểu số 123
Việt Nam: Chìm
Chàm: Tram
Cao Miên: Tram
Gia Rai: Ram
Bà Na: Kham
Mã Lai: Kram
Thái: Đâm
Chú ý: Tram của Chàm cũng có nghĩa là Ngâm (nước).
Biểu số 124
Việt Nam: Đâm
Bà Na: Tam
Mường: Chàm
Chàm: Tơm
Mã Lai: Tơm
Chú ý: Cả hai tiếng Chìm và Đâm, giáo sư Lê Ngọc Trụ đều cho rằng do Hán Việt Trầm và Châm mà ra.
Biểu số 125
Việt Nam: Ná, Nỏ
Cao Miên: Snả
Mạ: Na
Bà Na: Hna
Sơ Đăng: Mnáa
Gia Rai: Hnáa
Thái: Nảa
Mã Lai: P’nả
Biểu số 126
Việt Nam: Tên (cung tên)
Mã Lai: Tiang
Sự thật thì danh từ đúng là Anak P’na nghĩa là Con của cây Nỏ, còn danh từ Tiang chỉ là cây dài, nhọn. Nhưng cả hai danh từ ấy lại để chung, mặc dầu định nghĩa khác nhau, trong tự điển Mã Lai. Ta có thể hiểu rằng như thế có nghĩa là mượn nghĩa qua lại được.
Giáo sư Lê Ngọc Trụ vì chủ trương rằng Ná, Nỏ do Nỗ của Tàu mà ra, nên ông bắt buộc phải chủ trương rằng Tên do Tiễn của Tàu mà ra.
Nhưng về động từ Bắn dưới đây thì ông không còn biết làm sao để lôi kéo ta vào Tàu được nữa vì Bắn và Xạ khác nhau quá xa, chớ nếu động từ Tàu mà rủi ro là Bạn, Bằng gì đó thì nhứt định ông đã bắt ta làm bà con với Tàu rồi.
Biểu số 127
Việt Nam: Bắn
Cao Miên: Panh
Thái: Puen
Mạ: Panh
Mã Lai: Panaa
Biểu số 128
Việt Nam: Nhà
Trung Việt nông thôn: Yà
Mường: Nha
Kơ Yong: Nyia
Khả Lá Vàng: Honiơm
Jêh: Niơ
Sơ Đăng (K. Bring): Hnhây
Rơn Gao: Hnyê
Lamet: N’a
Khả Boloven: Túp (lều tranh)
Ta có thể hồi phục lộ trình biến dạng như sau:
Hnyê biến thành Hnhây
Hnhây – Niơ và Hniơm
Niơ. Hniơm – Nyia
Nyia – Na Ya và Nha
N’a, Nha, Ya – Nhà
Biểu số 129
Việt Nam: Mặt
Cao Miên: Múk
Mã Lai: Muka
Mạ: Mat, Cũng có nghĩa là phía tay mặt (tay phải)
Bà Na: Maa
Sơ Đăng: Hơmaa
Khả Lá Vàng: Mat
Tự điển Anh-Mã của R. O. Winstedt ghi rằng Muka là danh từ gốc Phạn ngữ. Chúng tôi cho rằng đây là trùng hợp ngẫu nhiên, y hệt như người Khả Lá Vàng nói Ai là Tôi như Anh. Dân Mã Lai đợt nhì di cư xuống Nam Dương thì đã tiến đến thời đại đồng thau rồi, không lẽ lại không có danh từ Muka để phải vay mượn của Ấn Độ.
Dân Lạc Việt đã phải vay mượn không cần thiết, thí dụ Đùi = Thùi là vì bị thực trị, còn Mã Lai thì không bao giờ bị Ấn Độ xâm lăng cả thì họ chỉ mượn những gì họ không có mà thôi.
Người mà ta gọi là da đỏ Maya ở Nam Trung Mỹ có vài danh từ giống hệt Do Thái. Nhưng các nhà chủng tộc học, dân tộc học và ngôn ngữ học vừa khám phá ra họ là Mã Lai đợt II.
Và cũng xin nhắc lại rằng cái thuyết của thế kỷ 18 cho rằng nhơn loại đồng gốc tổ, nên tất cả các ngôn ngữ đều đồng một vốn cũ, nay đã thấy là sai rồi. Những trùng hợp lẻ tẻ, chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, chớ không phải là đồng tổ.
Không có lý nào mà cho rằng người Khả Lá Vàng đồng gốc với Ăng Lê được chỉ vì đại danh từ ngôi thứ nhất của hai dân tộc đều là Ai.
Paddy, Ananas của Pháp là danh từ Mã Lai Mỹ Châu, Pháp mượn mà không khai ra trong tự điển của họ, khiến ngày kia có người sẽ nói là Mã Lai vay mượn của Pháp đấy. Mã Lai có danh từ Đua có nghĩa là Hai, Đôi, Song, Cặp mà Việt Nam biến thành Đũa (ăn cơm) Latinh, Pháp cũng có Dualis, Dualité, cũng đồng nghĩa với Đua của Mã Lai, nhưng không vì thế mà Mã Lai là La Tinh, hoặc là Pháp bao giờ cả.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên có rất thường trong ngôn ngữ, nhưng phải trùng hợp vài trăm từ sắp lên kia mới là đồng tông, chớ chỉ có vài từ thì chỉ là trùng hợp buồn cười vậy thôi.
Biểu số 130
Việt Nam (Bắc): Hắc
Thái: Harak
Sơ Đăng: Harak
Bà Na: Harak
Việt Nam (Trung và Nam): Lác
Chàm: Laak
Mã Lai Sumatra: Haarraak
Sơ Đăng: Harak Lao (Hắc của người Lào)
Bắc Việt: Hắc Lào
Biểu số 131
Việt Nam: Lạ
Mã Lai Á: Lu ạ
Mã Lai Sumatra: Lahi
Môn, Miến: Lạ
Chúng tôi có ám chỉ đến lối đọc tiếng Lạ của tài tử Anh Tuấn (gốc miền Bắc) trong Tivi. Ông ấy đọc là Lạ-a (hai âm). Mà như vậy là đúng với gốc Mã Lai Lu-Ạ (hai âm), tức tài tử đó đọc theo cổ Việt vốn là nhị âm, còn ta thì độc âm hóa tiếng Lu-Ạ thành Lạ.
Hai ngàn năm đã qua rồi, mà sự độc âm hóa của Mã Lai ngữ trong xã hội Việt Nam chưa hoàn thành và còn để lại dấu đây đó, nơi ông Anh Tuấn.
Biểu số 132
Việt Nam: Mưa
Mạ: Mui
Mường: Mừa
Khả Lá Vàng: Mừa
Biểu số 133
Việt Nam: Mây
Mường: May
Cao Miên: Mêk (cũng có nghĩa là Trời)
Cổ ngữ Ba Thục: Mui
Thái: Mek
Trên đây là danh từ của nhóm Mã Lai lưỡi rìu tay cầm, gốc Hoa Bắc dưới đây là danh từ của nhóm Mã Lai lưỡi rìu hình chữ nhựt gốc Hoa Nam.
Biểu số 134
Việt Nam: Vân
Cổ ngữ Tây Âu: Wàl
Quảng Đông: Wàl
Khả Lá Vàng: Wil
Mã Lai: Awan
Toàn thể người Việt Nam đều ngỡ Vân là Hán Việt. Nhưng sự thật đó là tiếng Mã Lai, do nhóm Mã Lai Tây Âu giữ được. Chúng tôi đã đưa ra nhiều thí dụ rằng người Quảng Đông (tức cổ Tây Âu bị Hoa hóa) tuy nói tiếng Tàu sai giọng chút ít, nhưng vẫn cố giữ được non trăm danh từ cổ Tây Âu, vì tinh thần tiêu cực đề kháng. Mây, tiếng Trung Hoa kinh đô (Quan Thoại) là Diễn. Quảng Đông vẫn phải viết y như người Tàu chánh hiệu, nhưng thay vì đọc trại chút ít, họ đọc cái chữ Diễn đó bằng ngôn ngữ Mã Lai Wàl tức là Awan, mất chữ A đầu.
Các “Man di” Tây Âu, lẫn “Man di” Lạc Việt đều đề kháng y như nhau, viết y như Tàu nhưng không chịu đọc như Tàu nhưng sai chút ít, theo thường lệ, mà đọc là Wàl, là Vân tức giữ gốc tổ Awan.
Mà đừng tưởng là Mã Lai đợt II đã học của Tàu. Khoa khảo tiền sử đã cho biết với đầy cả chứng tích là bọn đó là Mã Lai Hoa Nam còn thuần túy là Mã Lai, lúc di cư.
Chúng tôi có nói bằng chứng. Chữ đó, Quan Thoại đọc là Diễn mà âm D của Quan Thoại chỉ biến thành âm D của Quảng Đông và Ng của Quảng Đông chớ khônh bao giờ biến thành âm W cả, Diễn không thể biến thành Wal được, theo cái luật biến nói trên.
Một lần nữa, ta thấy Âu, tức Thái, tức Quảng Đông, mặc dầu là bọn lưỡi rìu tay cầm, có mượn vài danh từ của Lạc đợt II như Nghen là Trời, Nả là Mẹ và Wàl là Mây.
(Không thể nói ba danh từ đó là danh từ chung cho cả hai đợt, mà có bằng chứng là danh từ riêng của đợt II).
Nhưng không vì thế mà chủ trương rằng Hán Việt do Quảng Đông mà ra. Đã bảo không bao giờ có Quảng Đông ngữ cả. Chỉ có cổ Tây Âu ngữ tức Thái ngữ và Hoa ngữ do Thái Lưỡng Quảng đọc sai chút ít.
Còn tại sao Việt và Quảng Đông lại khá giống nhau trong lối đọc Wàl, Vân thì rất dễ hiểu. Cả hai đều vay mượn Awan và đều biến gần giống Awan vì họ sống khít vách nhau.
Biểu số 135
Việt Nam: Lu (đựng nước)
Mường Cao Miên: Tr’lu
Khả Lá Vàng: Tru
Biểu số 136
Việt Nam: Bông
Mã Lai: Bônga
Chàm: Bơngư
Mường: Pong
Khả Lá Vàng: Pươ
Nhựt Bổn: Bana
Cao Miên: Chxba
Cao Miên còn một danh từ nữa là Phôka. Nhưng đó là vay mượn Fóa của Quảng Đông. Người Chàm là Mã Lai chánh hiệu, nhưng lại biến xa hơn Việt về danh từ nầy. Giữa Bông của Việt và Bơngư của Chàm, thì Bông gần với Bônga của Mã Lai hơn.
Nhưng theo một người bạn Chàm thì khi xưa người Chàm vẫn nói là Bônga. Và người bạn ấy kể một chuyện rất lạ về tên của vua Chế Bồng Nga.
Đó là một cái tên hỗn loạn mà người Việt đã phiên âm bậy bạ chớ vương hiệu và tên cúng cơm của ông ấy không phải là thế.
Về Vương hiệu, thì ta nhìn nhận, vì các nhà khảo cổ Pháp đã cho biết đúng Vương hiệu của Chế Bồng Nga là gì.
Còn về tên cúng cơm của ông ấy, không ai biết cả. Người Việt Nam đã phiên âm danh từ Phạn Cri thường được đặt trước Vương hiệu các vua Cao Miên, Phù Nam và Chàm, thành ra là Chế.
Tới đây thì đã ổn. Nhưng người Việt Nam thuở đó lại không biết cả vương hiệu của ông ấy nữa chớ đừng nói là tên cúng cơm vì hai bên cắt đứt liên lạc ngoại giao với nhau tức khắc khi ông ấy lên cầm quyền.
Người Việt tưởng Chế là Vua (và cũng đúng phần nào) nên thêm vào đó là tên nước, mà tên nước của Chàm là Bônga Chămpa, tức Bông Sứ, Bông Đại, để diễn cái ý Vua của Chàm.
Vậy vì không biết, nên Việt gọi ông ấy là vua của nước Bônga Chămpa. Nhưng quá dài, nên Việt tự ý bỏ Chămpa, chỉ còn Chế Bônga mà thôi.
Mà Việt thì đã bị Hoa hóa sâu đậm rồi, viết Bônga thành chữ Nho không được nên lại tự ý biến Cri Bônga thành Chế Bồng Nga, hai tiếng Bồng Nga thì viết bằng chữ Nho được mà cũng không xa Bônga lắm.
Vậy đó là ba tiếng phiên âm, nhưng chỉ có tiếng đầu mới dính líu đến vua, còn hai tiếng sau thì dùng để trỏ tên nước vì họ không biết tên vua, cũng không biết vương hiệu, tức hai tiếng phiên âm sau chẳng dính líu gì đến tên hay hiệu của ông đó cả.
Một lần nữa, ta thấy rằng tiếng Chàm Ninh Thuận không phải là tiếng Chàm chánh hiệu, mà có thể chỉ là ngôn ngữ Phù Nam vì như đã nói, lãnh thổ Phù Nam ăn ra tới Khánh Hòa.
Địa danh Ba Ta Ngan và nhân danh Bônga đã cho thấy là Chàm ở trên, nói Mã Lai đúng giọng, còn Chàm Ninh Thuận thì nói sai quá xa.
Biểu số 137
Việt Nam: Cù lao
Mạ: Cu rao
Mã Lai Igorote: Cu rao
Chàm: Pi’lao
Mã Lai Á: Pu lô
Khả Lá Vàng: K’lô
Thái: Kốc
Cao Miên: Kốc
Có lẽ đây là danh từ chung cho cả hai đợt chớ không phải là danh từ riêng của đợt II. Sự biến dạng như sau:
Kốc biến thành Kốc Lô
Kốc Lô – K’Lô
Kốc Lô - Pulô
Pulô – CuRao
Cu Rao – Cù Lao
Tất cả các hòn đảo ở bờ biển Nam và Trung Việt cho tới Quy Nhơn, đều được Pháp gọi là Poulo. Nên biết rằng người Âu châu đến nước ta từ năm 1650, và họ đã đặt tên các đảo ấy trước khi xâm lăng. Có lẽ họ đặt tên theo hướng dẫn viên Phi Luật Tân chăng?
Nhưng không, ta thấy là các đảo ấy được đặt tên theo nghề nghiệp, theo thổ sản, thí dụ Poulo Gambir có nghĩa là Đảo Cau Mứt, Poulo Obi, Đảo Khoai, thì bọn thông ngôn Phi Luật Tân khó lòng thủ được vai trò nào bởi phải có sống lâu ở đó mới biết sanh hoạt của dân chúng.
Vả lại Phi Luật Tân nói là Cu-Rao chớ không hề nói là Poulo bao giờ cả mà nghĩ rằng chính họ đặt tên những cái Poulo đó.
Vậy họ phải đặt theo lối gọi của dân địa phương, tức của Chàm và Phù Nam. Thế nghĩa là người Phù Nam tồn tại vào thời đó, vì những danh từ Poulo, Obi, v.v. Cao Miên không có.
Từ Phú Quốc lên tới Quy Nhơn, có hai thứ dân địa phương là Phù Nam và Chàm, vậy Phù Nam nói cùng một thứ tiếng với Chàm, và danh từ đó quả là Pu-lô, bằng chứng là hồi cổ thời Tàu đã phiên âm đảo Chàm ở Quảng Nam là Chiêm Phù Lao, phiên âm có sai đôi chút cũng còn gần sự thật, mà sự thật có thể là Ph’lao. Thế nên trên biểu đối chiếu, trước tiếng Chàm, chúng tôi để là Ph’lao là phỏng theo lối phiên âm của Tàu đời xưa mà không so lại với lối đọc của Chàm thời nay, thấy là đã sai cả rồi khác rất xa lối đọc cách đây mấy trăm năm của Chiêm Thành.
Nhưng người Mạ mà chúng tôi hồ nghi là dân Phù Nam sống sót lại đọc là Cu-Rao, giống hệt Phi Luật Tân, chớ không là Pu-lô. Nhưng cũng có thể là vì sống chung với ta mấy trăm năm, họ biến giọng đi.
Chỉ cần 50 năm là một dân tộc đọc sai cả rồi. Hiện người miền Nam, chịu ảnh hưởng của Pháp đọc Ph giống F trong khi Ph Việt Nam khác xa F không như trong ngôn ngữ của Pháp.
Các cô ca sĩ đầu tiên cách đây 25 năm đều xuất thân ở trường đầm. Họ đọc I giống hệt của Pháp. Họ được hoan nghinh hóa ra ngày nay đa số người Việt miền Nam đọc chữ I đã sai rồi. Chữ Ch cũng vì các cô đó mà sai tuốt, các cô đọc như Ti của Pháp.
Những địa danh Chàm ở Trung Việt, được Pháp ghi trong dư đồ Việt Nam chưa lâu, thế mà nay không còn ăn khớp với lối đọc của Chàm nữa, ta biết được nó là gì, chỉ nhờ thuở xưa nó giống Nam Dương, và ta đã học tiếng Nam Dương nên mới truy ra được, chớ cả một số người Chàm cũng không biết đó là gì, bởi họ đã đọc khác rồi mà trường hợp điển hình hơn cả là trường hợp mũi Bantagan ở Quảng Ngãi.
Nam Dương: Tangan = Tay
Kim Chàm: Tơngưl = Tay
Pháp không ghi là Cap Batơngưl thì tức là người Chàm năm 1860 không đọc là Batơngưl như ngày nay.
Ngôn ngữ biến như vậy, thế mà ta truy ra được tiếng ta là tiếng Mã Lai thật quá may mắn. Danh từ Kưala sôngai = Cửa sông, ở Mã Lai Á thì thế, thế nhưng đi có vài cây số đường biển sang Sumatra, nó đã biến thành Mưala sôngai. Nếu không có cái khoen Mã Lai Á thì ta đã bị tịt ngòi trong việc tìm ngữ căn của danh từ Cửa.
*
* *
Danh từ của Thái và Miên tuy hơi khác, nhưng vẫn thấy được là cùng gốc tổ Mã Lai là từ Cốc sang Cu Rao có cái khoen trung gian K’lô của Khả Lá Vàng.
Chúng tôi không tin là dân Phù Nam đã bị đồng hóa với Cao Miên vào giữa thế kỷ 17 mà ta di cư tới Nam Kỳ. Một dân tộc phải mất một ngàn năm mới đồng hóa được một dân tộc khác, mà phải thật văn minh kia, còn Cao Miên thì không giỏi lắm. Hơn thế, ở một chương khác chúng tôi sẽ đưa ra khám phá của một nhà khảo cổ cho biết khi diệt quốc Phù Nam, Chân Lạp chỉ chiếm được đất Cao Miên ngày nay, chớ không chiếm được đất Nam Kỳ. Vậy Pu Lô phải là danh từ của Phù Nam tức Phù Nam nói y hệt như Nam Dương.
Biểu số 133
Việt Nam: Măng (tre)
Mạ: Pang
Cao Miên: Pang
Biểu số 139
Việt Nam (kim): Trâu
Việt Nam Trung cổ: Tlu
Mường: Tlu
Khả Lá Vàng: Salu
Đó là danh từ của Mã Lai đợt I Xy Vưu, Hùng Vương. Còn danh từ của Mã Lai đợt II là:
Mã Lai: Kả Bô
Chàm: Ku Bao
Thái: Kawi
Cao Miên: Kà Bây
Mạ: Kà Bây
Khoa khảo tiền sử cho rằng Môn và Khơ Me thuộc Mã Lai đợt I, chúng tôi kiểm soát bằng ngôn ngữ và quả thấy như vậy.
Nhưng biểu đối chiếu trên cho thấy một chi tiết khác là họ vẫn có dùng danh từ của Mã Lai đợt II.
Danh từ nầy có lẽ đi vào ngôn ngữ Cao Miên qua dân Phù Nam. Cao Miên diệt Phù Nam, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng Phù Nam phần nào.
*
* *
Một động từ cho Cao Miên và Chàm khiến chúng tôi ngẩn ngơ:
Chàm: Ngáp Kubao = Giết trâu
Cao Miên: Sláp Kabây = Giết trâu
Động từ Ngáp, Sláp là giết, chúng tôi tìm khắp các đảo Mã Lai, không đâu có cả mà cũng không phải là động từ đợt I, động từ đợt I là Giết, Ket, Pchkét, v.v.
Biểu số 140
Việt Nam: Chiều
Cổ ngữ Ba Thục: Chiếu
Cổ ngữ Tây Âu: Châu
Tiếng Trung Hoa chánh gốc, Buổi Chiều, họ viết là Hạ Ngọ, tức sau giờ Ngọ, đọc là Xá Wùa.
Bị đồng hóa, dân nước Ba, nước Thục và nước Tây Âu tiêu cực đề kháng, tuy bắt buộc bị nói tiếng Tàu, họ phải viết là Hạ Ngọ nhưng cứ đọc là Hà Chiếu, Hà Châu, theo gốc tổ Mã Lai trong cái gốc tổ ấy dĩ nhiên làm gì có Hạ, bởi Sau Ngọ thì được chớ Sau Chiều thì không có nghĩa gì hết. Nhưng hiện người Hẹ và người Quảng Đông nói như thế, tức nói Sau Chiều, nhưng lại nói bằng một danh từ kỳ dị gồm một tiếng Tàu Hạ, mà họ đọc là Hà, và một tiếng Thái là Chiếu, là Châu.
Danh từ Chiều thì ta dùng của đợt Mã Lai I, nhưng danh từ Sáng thì ta lại dùng của Mã Lai II. Đó là một sự hợp tác ngộ nghĩnh tại địa bàn Hồng Hà làm vừa lòng cả hai đợt.
Biểu số 141
Việt Nam: Sáng (buổi sáng)
Mã Lai: Siang
Thái: Rong sáng (tức Rạng sáng)
Biểu đối chiếu nầy cũng cho thấy một điều kỳ dị là Âu tức Thái cũng có danh từ của Lạc. Có lẽ nước Tây Âu cũng có tiếp thu một mớ Lạc chạy giặc Sở, vì Thái có Nghén, một biến thể của Langít Nam Dương mà Cao Miên biến thành Nghít.
Nhưng Rạng Đông thì ta trở lại dùng danh từ của đợt I.
Biểu số 141 bis
Việt Nam: Sớm mai
Nhựt Bổn: Yoakê Maê
Biểu số 142
Việt Nam: Xóm
Cổ ngữ Ba Thục: Xâm
Mã Lai Célèbes: Tsăm
Biểu số 143
Việt Nam kim (toàn quốc): Nước
Việt Nam kim (Bình Trị Thiên): Nác
Mường: Đák
Khả: Đák
Bà Na: ĐĐák
Sơ Đăng: ĐĐak
Xi Tiêng: Đáa
Mã: Đạa
Mã Lai Phi Luật Tân: Đanum
Cao Miên: Tứk
Mã Lai Á: Banyu
Chữ U trong Đanum và Banyu của Mã Lai ghi trên đây, nên đọc như chữ U của Việt Nam.
Sự biến dạng như sau: Đạ-Đá-Đák-Nác-Nước-Tứk-Banyu.
Đó là danh từ của Mã Lai đợt I. Mã Lai đợt I còn một danh từ nữa là Nam, chỉ được dân Thái dùng.
Danh từ của Mã Lai đợt II là:
Mã Lai: Ayer
Nhựt Bổn: Ây
Chàm: Ea
Ra Đê: Ia
Gia Rai: Ya
EA của Chàm, đọc thật nhanh, và nghe YA của Gia Rai.
Ở các đảo Mã Lai, Nam biến thành JAM. Như vậy ở các đảo Mã Lai vẫn có dùng danh từ đợt I, có lẽ đó là ảnh hưởng của Célèbes là đất của đợt I.
Nhưng như đã nói, chúng tôi không tin rằng EA của Chàm là biến thể của Ayer của Mã Lai đợt II ở Nam Dương, vì đó là danh từ Lưỡng Hà có nghĩa là Nước và Nữ Thần nước mà Chàm thì cũng dùng EA với cả hai nghĩa đó, thí dụ EA Blăng là Bà Trăng, Nữ Thần trăng.
Chúng tôi lại tìm được nhiều dấu vết Lưỡng Hà nữa trong xã hội Chàm và sẽ kể ra ở chương “Chàm”.
Ây của Nhựt Bổn mà Tây viết là EI để đọc cho đúng giọng Nhựt Bổn thì mới là không thể chối cãi là biến dạng của Ayer.
Trong xã hội Nhựt Bổn họ cũng dùng hỗn loạn danh từ của đợt I (như Kazi là Gió) và danh từ đợt II (Ây là nước) vì ở đó có cả hai đợt Mã Lai y hệt như ở Việt Nam và Chàm.
Nhưng ở Đại Hàn thì chỉ có Mã Lai đợt I mà thôi. Tuy nhiên, ở cực Nam Đại Hàn, thuở xưa có một tiểu vương quốc bé tí hon mà sử của Tây của Tàu không có nói đến. Đó là tiểu vương quốc Nhiệm Na. Đó thuộc địa của Nhựt và ở đó thì có danh từ của cả hai đợt Mã Lai, vì ảnh hưởng Nhựt sâu đậm ở đó.
Trong nhiều xã hội Mã Lai, Nước cũng dùng để chỉ Sông, thí dụ nơi người Thái, người Chàm, người Thượng và cả các đảo Mã Lai nữa.
Sự kiện nầy không lạ lắm vì hình như dân tộc nào, lúc sơ khai, cũng dùng danh từ như vậy, chỉ có khác là có dân tộc đã bỏ lối cũ, có dân cứ còn giữ hoài.
Hiện ở Việt Nam, cũng có vài con sông được gọi là Nước. Ở Trung Hoa cũng có nhiều con sông được gọi là Thủy.
Nên nhớ là trong ngôn ngữ Trung Hoa, Hà và Giang ban đầu không phải là danh từ mà tên riêng của sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Sông Hoàng Hà đến đời nhà Chu, vẫn còn bị gọi là Hà Thủy (xem lại Xuân Thu và Tả Truyện: Năm U Vương thứ ba Kinh Thủy, Hà Thủy và Lạc Thủy đều cạn nơi nguồn”.
Ngày nay thì họ dùng Thủy để chỉ những con sông nhỏ, bất luận tánh cách, chớ không phải phụ lưu được gọi là Thủy, mà hễ nhỏ thì mặc dầu đổ thẳng ra biển cũng được gọi là Thủy, y hệt như dân Mã Lai.
Ba tên riêng Hà, Giang và Hoài bị biến thành danh từ, nhưng không vì thế mà Thủy mất địa vị, bởi đôi khi họ cũng gọi sông Dương Tử là Giang Thủy.
Nhưng sự kiện dưới đây mới là lạ. Người Gia Rai đọc tiếng EA của Chàm nhanh đến mức y như Ya. Nhưng ở quanh Ban Mê Thuột có những con sông tên là EA YA nầy, EA KRONG nọ.
Hễ EA thì không còn Ya nữa làm gì, mà hễ EA rồi thì cũng không còn Krong làm gì nữa, thế mà dân địa phương lại đặt tên như thế đó, y như ở vùng đất Việt duyên hải ở ranh giới hai tỉnh Ninh và Bình có con sông tên là sông Lòng Sông.
Hình như đó là dấu vết của hai chủ đất kế tiếp nhau, thuộc hai nhóm Mã Lai không thạo ngôn ngữ của nhau, nên chủ trước đặt tên rồi, có danh từ Sông trong đó, chủ sau lại tiếp theo mà đặt tên nữa, cũng thêm danh từ Sông nhưng bằng phương ngữ của mình.
Thí dụ người Bà Na đặt tên là Krông Pach, thế rồi người Chàm lên cai trị Cao nguyên không hiểu Krông là gì (Họ có Krong nhưng không có dấu mũ, đọc khác Krông của Bà Na), bên ngỡ Krông Pach là tên nên thêm EA ở trước, hóa ra sông đó là EA Krông Pach, tức sông Sông Pach.
Tên của sông Lòng Sông chắc cũng có nguồn gốc như thế.
Chú ý: Danh từ Thái, Nam = Nước cũng có mặt trong Việt ngữ ở độc một trường hợp. Đó là danh từ Con Nam của ta, mà giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ngộ nhận là do Mana của chủng Mê-la-nê mà ra. Chúng tôi sẽ trở lại rành mạch về danh từ Con Nam ở biểu đối chiếu về các danh từ Ma.
Và cũng nên biết rằng ở Nam Dương cũng có danh từ Nam. Đó là ảnh hưởng của đảo Célèbes (Mã Lai đợt I). Nhưng Nam ở Nam Dương bị biến thành Jam.
Biểu số 144
Việt Nam: Non (Núi)
Cổ ngữ Ba Thục: Non
Phù Nam: B’Nam
Cao Miên: Ph’num
Mạ: Phơnơm
Bà Na Trường Sơn: Bơnơm
Thái Lan: Phu
Mã Lai: Gunong và Phunông
Đã nhận xét rồi ở chương Mã Lai chủng là các nhóm Mã Lai có thói quen không lấy hết trọn danh từ hai Xy láp, mà có nhóm lấy Xy láp đầu như Thái, có nhóm lấy Xy láp sau như Ba Thục và Việt Nam, có nhóm lấy hết nhưng biến dạng, như Cao Miên, Phù Nam và cả Việt Nam nữa: Gunông = Gò nổng.
Đây là danh từ chung của cả hai đợt Mã Lai, còn Chớ của Chàm là danh từ Mê-la-nê.
Hi là núi, trong Hi-Malaya, có mặt ở Nhựt Bổn. Còn Yama là Núi ở Nhựt Bổn thì lại không thấy nơi nào có cả.
Biểu số 144 bis
Việt Nam: Gò
Mã Lai Penong: Gun
Mã Lai Kedanh: Gua
Biểu số 145
Việt Nam: Gò Nổng
Mã Lai: Gunông
Biểu số 145 bis
Việt Nam: Sông
Mường: Không
Khả: Hông
Chàm: Krong
Bà Na: Krông
Thái: Khung (Mé Khung)
Cao Miên: Stung (Phụ lưu),
Sông của Cao Miên là T’lê
Mã Lai: Sôngai
Biểu số 146
Việt Nam: Cửa
Mường: Cua
Mã Lai Á: Kưala
Trong danh từ Sông, chỉ có Việt Nam là dân gốc Mã Lai nhứt mặc dầu Chàm được xem như là dân Mã Lai, còn ta thì không xa Mã Lai nhứt là Cao Miên với danh từ T’lê của họ.
Mã Lai đợt II di cư đi xa hơn Mã Lai đợt I và có sông ngòi nhiều hơn, giỏi thủy vận hơn, thế mà lại nghèo danh từ, về sông ngòi hơn Mã Lai đợt I. Quả thật thế, để chỉ con suối họ nói là Anak sôngai tức Con nít sông. Trong khi đó thì:
Thái: Houei
Việt: Suối
Họ cũng không có danh từ phụ lưu. Trong khi đó thì:
Cao Miên: Prek (Phụ lưu)
Việt Nam: Rạch (Phụ lưu)
*
* *
Danh từ Kưala của Mã Lai chỉ để trỏ cửa sông mà thôi, chớ không hề trỏ Cửa (nhà). Nam Việt lại mượn thêm danh từ Piam của Cao Miên để chỉ Kưala và Việt hóa thành Vàm (Vàm Cỏ). Nhưng Vàm chỉ trỏ nơi sông nhỏ đổ vào sông lớn chớ không chỉ nơi sông lớn đổ ra biển như Kưala. Nam Việt cũng dùng đúng y hệt như thế. Cửa chỉ để gọi nơi cửa biển, còn Vàm thì gọi nơi giáp lưu bên trong.
Biểu số 147
Việt Nam: Cây
Khả: Ki
Mã Lai Á: Kâyu
Biểu số 118
Việt Nam: Làng: Đơn vị hành chánh tự trị
Mường: Lang: Thái ấp nhỏ (Quan Lang là chủ của Lang)
Mã Lai: T’lang: Thôn
Hiện nay ở Phi Luật Tân, làng họ nói là Barangay và danh từ nầy có một lịch sử kỳ dị ngộ nghĩnh nó cho ta thấy sự biến dạng của danh từ thật là thiên hình vạn trạng.
Nguyên dân Phi Luật Tân ban đầu là dân phiêu lưu ăn cướp biển từ Nam Dương đến. Họ đi bằng gay (tức ghe thuyền).
Đến nơi vì chưa khai hoang kịp, họ lâp làng ngay trên các sông ngòi mà làng nầy là làng gồm toàn ghe thuyền. Làng thì đã sẵn có danh từ T’lang, nhưng họ đọc sai đi, biến nó ra thành Barang. Thế thì Barangay = T’langgay = làng ghe.
Ngày nay đã hết làng ghe, làng nào cũng là làng trên bờ, nhưng họ cứ tiếp tục gọi làng là Barangay nuốt mất hết một chữ G, chớ đáng lý gì mà Barang-Gay.
Biểu số 149
Việt Nam: Tắc kè (gecko)
Nam Việt: Cắc ké (gecko)
Nam Việt: Cắc kè (caméléon)
Thái: Tuk-kae (gecko)
Cao Miên: Tắc kè (gecko)
Mã Lai: Tokek (gecko)
Biểu số 150
Việt Nam: Đò
Bà Na: Đúc
Sơ Đăng: Đoo
Khả Lá Vàng: Đo
Mã Lai Kelantan: Đogol
Biểu số 151
Việt Nam: Đũa (ăn cơm)
Việt Nam: Đôi
Mã Lai: Đua = Hai, cặp
Mã Lai: Đua Đua = Đôi đũa
Bằng vào cuộc đối chiếu nầy, ta biết được rằng đũa ăn cơm do đợt nhì đưa vào nước ta, chớ không phải đợt I.
Mã Lai lại có động từ Suái nghĩa là Đối. Như vậy không chắc lắm là Đối của Việt Nam do Tàu mà ra.
Mà đừng tưởng rằng Mã Lai đợt II ấy đã học với Tàu vì khoa khảo tiền sử đã đưa ra đầy đủ bằng chứng là họ thuần túy Mã Lai, về máu mủ và văn hóa.
Biểu số 152
Việt Nam: Cổ (Trung Hoa chánh gốc là Chiêl)
Cổ ngữ Ba Thục: Cú
Cổ ngữ Tây Âu: Kẻng
Kim Thái: Kủ
Cổ ngữ Mân Việt: Kẹ
Mạ: Co
Mường: Kô
Biểu số 153
Việt Nam: Bướm
Cao Miên: Bâđ
Khả Lá Vàng: Pùl
Mường: Puôm
Mã Lai Johore: K’pu
Biểu số 154
Việt Nam: Soi
Mã Lai Á: Sua (Rọi bằng đèn) đọc là Su-A
Mã Lai Sumatra: Tua (Rọi bằng đèn) đọc là Tu-A?
Việt Nam tối cổ: Tua (ngôi sao)
Khả Lá Vàng hiện kim: Tua (ngôi sao)
Động từ nầy là động từ chung cho cả hai đợt Mã Lai, nhưng thật ra ban đầu nó là danh từ, có nghĩa là ngôi sao, còn thấy được trong ca dao Việt Nam và ngôn ngữ Khả Lá Vàng.
Về sau, Mã Lai đợt II biến thành động từ Sua ta biến thành động từ Soi.
Còn danh từ Tua cũng bị ta biến thành Sao, Thái biến thành Đao. Thế nên trong Việt ngữ thái cổ là Tua mà kim là Sao.
Biểu số 155
Việt Nam: Nàng
Cao Miên: Niêng
Thái: Năng
Thái: Năng
Mã Lai Java: Nona
Ta có tĩnh từ Nõn Nà có lẽ Nona đẻ ra Nàng và Nõn Nà. Ta lại có danh từ Nõn Nường, chỉ bộ phận phụ nữ, có lẽ cũng là một biến thể của Nona.
Biểu số 156
Việt Nam: Vàng
Khả Lá Vàng: Yêng
Mã Lai: Wang
Nhưng Wang lại có nghĩa là Tiền nữa, nơi Mã Lai Đồng tiền còn gọi là Mata Wang, tức Con mắt bằng vàng, tức Vàng tròn như con mắt.
Họ còn một danh từ nữa là Ảma mà đồng bào Thượng và Chàm nói là Maah, Ảma và Maah là danh từ của Mã Lai đợt I vì người Thượng trừ Gia Rai thì thuộc đợt I, còn danh từ Wang chắc chắn là của đợt II mà vua Hùng Vương đã mượn.
Danh từ của đợt I lại cũng bị Mã Lai mượn.
Mã Lai: Ảma
Cao Miên: Mia
Thượng: Maah
Chàm: Mah
Biểu số 157
Việt Nam: Nôn mửa
Mã Lai Johore: Mual
Mã Lai Penang: Muak
Đó là động từ của Mã Lai đợt II. Động từ của Mã Lai đợt I là:
Việt Bắc: Oẹ
Việt Nam: Ọi, Ọc, Ợ
Miến Điện, Môn
và Cao Miên: Ko ẹ
Biểu số 158
Việt Nam: (Chiếu) Sáng
Khả Lá Vàng: Trắng
Mã Lai: Tárang
Các tĩnh từ chỉ màu sắc của ta, thường mượn của Mã Lai đợt II.
Có lẽ ta mượn tĩnh từ Tărang để biến thành Trắng, chớ tĩnh từ của đợt I thì là So.
Môn: Đây So = Đất trắng
Miên: Đây So = Đất trắng
Việt Nam: Đất thó = Đất trắng
Biểu số 158 bis
Việt Nam: Đen, Thâm
Thái: Lam, Đăm
Mã Lai: Hi Tam
Biểu số 159
Việt Nam: Đêm
Khả Lá Vàng và các nhóm Thượng: Mang
Mã Lai: Malam
Biểu số 160
Việt Nam: Lưỡi
Cổ ngữ Tây Âu và Ba Thục: Li
Các nhóm Thái: Lin
Mã Lai: Lidaa, Lio
Quảng Đông nói là Li là dùng Cổ ngữ Tây Âu chớ không phải đọc tiếng Tàu sai giọng chút ít. Tiếng Tàu là Xửa mà Xửa thì không thể biến thành Li. Chúng tôi đang nghiên cứu tại sao các cụ nhà nho lại đọc cái tiếng Xửa ấy thành Thiệt. Có lẽ Thiệt là danh từ Mã Lai đợt nhứt chăng? Nhưng không chắc lắm, vì Môn Khơ Me là Mã Lai đợt I, nhưng họ nói là On Đát.
Biểu số 161
Việt Nam: Ai (đại danh từ ngôi ba)
Mã Lai: Aku (Tôi)
Khả Lá Vàng: Ai (Tôi)
Người Khả Lá Vàng nói tiếng Việt, nhưng đại danh từ ngôi thứ nhứt của họ là như trên. Nhưng chúng tôi thấy rằng họ thuộc đợt Mã Lai thứ I hơn là thuộc Mã Lai II, vì có nhiều danh từ giống Việt Nam hơn là giống Nam Dương.
Như vậy ta có thể tạm kết luận rằng hồi cổ thời ta cũng nói AI, y hệt như Mã Lai và Khả Lá Vàng, thay cho Tôi, nhưng sau rồi ta đẩy đại danh từ ấy xuống ngôi thứ ba. Và đó là danh từ chung cho cả hai đợt.
Trong câu chuyện người Việt Nam ngày nay cũng thường nói Ai thay cho Tôi.
Thí dụ A hỏi B:
- Tại sao quân Congo lại đánh quân Ouganda?
- Ai biết đâu!
Chữ Ai đó rõ ràng có nghĩa là Tôi. Ai biết đâu = Tôi có biết gì đâu về chuyện đó.
Biểu số 162
Việt Nam (kim): Mình (Tôi)
Việt Nam Trung cổ: Min (Sách các cố đạo)
Mã Lai: Kami (Chỉ có nhà vua mới
được dùng để nói)
Biểu số 163
Việt Nam: Mi, Mày
Bà Na: Mi = Mày
Mã Lai Perak: Mika = Mày
Mã Lai Perak: Mika-Ma = Bây
Biểu số 164
Việt Nam: Mắc cỡ
Cao Miên: Khở mắt
Mã Lai: Malủ, Mukả
Biểu số 165
Việt Nam kim: Vua
Triết Giang: Vò
Việt Nam Trung cổ: Bua (Theo sách cố đạo)
Mường: Bua
Bà Na: Bưa
Gia Rai: Patô
Mã Lai: Pảtuan
Chàm: Pô
Đây là danh từ của đợt II mà Hùng Vương vay mượn.
(Chúng tôi chủ trương rằng người Thượng là Việt thoái hóa vì mất địa bàn tốt, chớ không phải Việt tiến trễ. Sự có mặt của danh từ Vua trong ngôn ngữ của họ chứng minh rằng họ đã biết chế độ vua chúa vào một thời nào đó).
Thái: Sadet
Danh từ vua của Mã Lai đợt I
Mường: Adecht
Cao Miên: Sdacht
Cao Miên còn một danh từ nữa để chỉ Vua, đó là Luông, nhưng danh từ nầy lại cũng gần giống với danh từ Thái: Luang là Vương quốc.
Biểu số 166
Việt Nam: Lửa
Môn: Phlơn
Cao Miên: Phlơn
Khả: Phlơn
Vài nhóm Thượng: Phlơn
Biểu số 167
Việt Nam: Bắp (Lúa, Ngô)
Thái: Bốt
Cao Miên: Bôt
Vài nhóm Thượng: Bốt
Xem các tự điển xưa, thấy ghi là miền Bắc vẫn nói Bắp trước khi nói Lúa Ngô. Vậy Bắp không là danh từ riêng của miền Nam như nhiều người đã tưởng.
Như thế thì rõ ràng là lúa Ngô không phải từ bên Ngô (bên Tàu) đưa sang ta, vì lẽ ta đã gọi món ấy là Bắp trước khi gọi là lúa Ngô. Nhưng tại sao ta gọi nó là lúa Ngô thì thật không thể truy ra.
Có lẽ đó là do sáng kiến của một kẻ dốt nào, nhưng sáng kiến lại được hoan nghinh? Bằng chứng là món ý dĩ, từ bao lâu nay ta và đồng bào Thượng đều gọi là bo bo. Bỗng dưng vài năm nay người ta đưa ra danh từ mới là lúa Miến, mặc dầu nó không từ Miến Điện nhập cảng sang đây bao giờ cả. Thế mà cái danh từ mới ấy cũng lại được hoan nghinh.
Món bí Ngô, chắc chắn cũng không phải từ bên Ngô đưa sang vì bên Ngô không có bí đó, họ đem giống từ xứ Hồ sang nên họ gọi nó là bí Hồ.
Bằng chứng là Nhựt Bổn lấy giống bí đó ở Cam Bốt Ra và gọi nó là Kaboja, thì ta, có biên giới chung với Cao Miên hồi cổ thời, ta vẫn phải lấy giống từ Cam Bốt Ra. Nhưng miền Bắc cũng gọi nó là bí Ngô.
Lúa Ngô và bí Ngô có lẽ do một tác giả độc nhứt sáng tác ra, với hậu ý nào đó.
Biểu số 166
Việt Nam: Bo bo (Ý dĩ)
Sơ Đăng: Bo Kô Bo
Bà Na: Bo Kô Bo
Bo bo cũng là không phải là danh từ riêng của miền Nam, y như đã thấy trên kia trong trường hợp Bắp.
Bo bo là danh từ của Mã Lai đợt I. Danh từ của Mã Lai đợt II là Sảkoi, mà có lẽ người Chàm đã nói như vậy, chúng tôi quên học danh từ nầy của người Chàm.
Biểu số 169
Việt Nam: Lúa
Việt Nam Bình Trị: Ló
Mường: Ló
Mã Lai Perak: Lú
Nhóm Perak là một nhóm Việt Nam ly khai đi Nam Dương và thuộc Mã Lai đợt I. Đã bảo một dân tộc ở hai địa bàn khác nhau mà phát minh cùng một món đồ giống nhau, họ cũng sáng tác tên gọi khác nhau, vì cái lẽ dĩ nhiên là không thể giống nhau được. Việt Nam đợt I và dân đảo Célèbes cũng đợt I, nhưng khi di cư cả hai đều chưa biết nông nghiệp. Thế nên cùng đợt với nhau, vậy mà họ gọi lúa gạo khác nhau.
Trong khi đó thì Mã Lai Perak lại gọi là Lú thì Mã Lai Perak phải là người Việt Nam di cư xuống đó.
Người Mường thuộc đợt II nên họ thường dùng danh từ Pơ Duông của đợt II hơn là Ló của đợt I, thế nên ta mới biết họ thuộc đợt II.
Xin nhắc lại danh từ đợt II chỉ lúa gạo là:
Mã Lai: Padi (Pháp mượn biến thành Paddy)
Gia Rai: Pơ đai
Chàm: Pơ đai
Mường: Pơ đuông (Sau biến thành Đuống, Sông Đuống).
Biểu số 169 bis
Việt Nam: Nầy, Nay, Ni, Nầy, Nè
Khả Lá Vàng: Nè
Mã Lai Pennag: Ini
Thái: Tini
Biểu số 170
Việt Nam: Vườn
Cao Miên: Suôn
Thái: Suôn
Biểu số 171
Việt Nam: Thang (Để leo cao)
Mã Lai: Tangga
Chàm: Thang giơ
Người Mã Lai, nhà Sàn, họ mới là nhà Tangga, tức nhà thang. Vậy danh từ Sàn của Việt Nam là biến dạng thứ nhì của Tangga.
Tangga: Thang
Tangga: Sàn
Riêng trong ngôn ngữ Chàm, Tangga biến khác nữa. Chàm biến thành Thang giơ có nghĩa là Nhà cất theo cổ tục tổ tiên. Nguyên hiện nay họ ở nhà sát ngay trên mặt đất như ta. Còn nhà sàn, chỉ cất để cử hành những nghi lễ tôn giáo theo cổ tục, nên Thang giơ mới biến nghĩa như thế.
Biểu số 172
Việt Nam: Hái
Mã Lai: Tuái
Mã Lai Lalangor: Mãnuái (Lưỡi hái)
Biểu số 173
Việt Nam: Kẻ lạ
Mã Lai: Ka lu ạ (Kẻ từ ngoài đến)
Miến Điện: Ka Lạ (Như trên)
Việt Nam đã vay mượn Lu ạ (tức ngoài, từ bên ngoài) để biến thành người lạ rồi lạ kỳ chớ tĩnh từ lạ kỳ của Mã Lai đợt II thì khác chớ không phải Lu ạ.
Và Lu ạ bị biến như sau: Lu ạ = La ạ = Lạ
Lối đọc của tài tử Anh Tuấn trong Tivi cho thấy rõ ràng là La ạ.
Biểu số 173 bis
Việt Nam: Xiêm
Chàm: Syăm
Cao Miên: Syăm
Mã Lai: Syămbu
Có nghĩa là chạy trốn, tù binh. Cao Miên dùng danh từ nầy để chỉ người Thái Lan là kẻ chạy trốn Tàu hồi thế kỷ thứ 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, xâm nhập vào thuộc địa của Cao Miên. Họ là kẻ chạy trốn và bị xem như là một thứ tù binh của Cao Miên.
Sau Thái lập quốc tại đó, chẳng hiểu danh từ ấy có nghĩa gì, nên lấy đó làm quốc hiệu. Xiêm là do ta mượn thẳng của Mã Lai, Chàm và Cao Miên chớ không phải mượn của Tàu như có người tưởng, vì Tàu cũng chỉ phiên âm Syăm, chớ họ không có danh từ đó.
Biểu số 174
Mã Lai Nam Dương: Manát (ma của người chết đuối)
Việt Nam: Ma (bất kỳ loại ma nào)
Thái: Masuốt (bất kỳ loại ma nào)
Thái: Manam (ma dưới nước, vì nam = nước).
Việt Nam: Con Nam (ma dưới nước)
Miền Nam Việt Nam: Ma Da (ma của người chết đuối).
Giáo sư Trần Ngọc Ninh có ngộ nhận về hai điểm trong danh từ nầy. Ông cho rằng ta vay mượn của chủng Mê-la-nê. Nhưng tự điển Anh-Mê-la-nê lại cho biết rằng chính chủng Mê-la-nê đã vay mượn của chủng Mã Lai danh từ đó.
Giáo sư lại nói rằng ta biến Mana thành con Nam. Sự thật thì chính Thái đã biến Mana thành Ma Nam rồi ta vay mượn lại của Thái mà bỏ âm Ma đi.
Danh từ Ma Da của Nam Kỳ thì lại mượn thẳng của người Java, thời ta khẩn hoang miền Nam, vì họ có tới đây đông đảo đến hai lần, lần Nông Nại Đại phố vừa thành lập, và lần Pháp đánh ta năm 1858 mà Phi Luật Tân đến với tư cách lính đánh thuê. Cả hai lần họ đều có ở lại và thành Việt Nam luôn.
(Có lẽ giáo sư họ Trần lẫn lộn Mê-la-nê với Mã Lai cũng nên như giáo sư Nguyễn Phương và học giả Lê Văn Siêu).
Biểu số 175
Nam Việt: Hởi
Chàm: Hời, Hới (Đồng Hới)
Mã Lai: Hai
Trong ngôn ngữ Chàm, tiếng Hời, Hới không có dùng trong văn chương như Mã Lai và Việt, mà chỉ dùng để gọi nhau, tương đương với tiếng Ê của Việt Nam, và ai bị gọi như vậy là mích lòng lắm, vì đó là lối gọi không trọng nể. Ta không nên gọi người Chàm là người Hời, vì sẽ làm cho họ giận.
Những tiếng Ơi, Ời, Ới, Ôi của Việt Nam đều do Hai mà ra cả.
Chúng tôi đã tự hỏi Thái biến Mana thành Ma Nam hay Nam Dương biến Ma Nam thành Mân, và chúng tôi trả lời được ngay là chính Thái đã biến, vì danh từ Nam là Nước của Thái, khi đến Nam Dương thì đã hóa thành Jam. Nếu Nam Dương biến thì danh từ của họ phải là Majam chớ không là Mana.
Đặc biệt chú ý
Có sự liên hệ giữa âm Du, Vu, Dâu Việt Nam với âm Tô của Mã Lai, nhưng không biết vì sao mà lại biến hơi lạ vậy.
Mã Lai: Kảtô = Cây dâu
Mường: Tô = Cây dâu
Mường: Tô = Cái Vú
Khả Lá Vàng: Tô = Cái Vú
Lại có sự liên hệ giữa âm V của Việt Nam và âm S của Mã Lai.
Mã Lai: Su = Cái Vú (có biến âm)
Mã Lai: Su = Sữa (bình thường)
Sữa và Vú là hai thứ khác nhau, thế mà người Mã Lai nói y như nhau, thì có nghĩa là họ đã nhập âm V vào âm S.
Kỳ công của ngôn ngữ tỷ hiệu
Nếu chúng tôi cứ tiếp tục đối chiếu mãi thì quyển sách nầy hóa ra một quyển tự điển mất, vì có ít lắm 10 ngàn từ cần được đối chiếu.
Bao nhiêu đây thì tạm ngưng được rồi để bước sang những điểm sử khác.
Nhưng trước khi ngưng đối chiếu chúng ta cần nhận xét những điều sau đây là Việt Nam còn Mã Lai hơn chính người Mã Lai nữa, bằng chứng là danh từ Cửa sông ở Mã Lai Á nói là Kưala sôngai, nhưng chỉ bước qua một eo biển nhỏ, tới đảo Sumatra thì nó biến thành Mưala Sôngai tức xa gốc tổ hơn Việt Nam quá nhiều.
Ta lại tự hỏi tại sao các nhà bác học Âu Mỹ nhận diện được người Chàm là Mã Lai mà không nhận diện được ta, trong khi ta nói giống Mã Lai hơn Chàm nhiều lắm. Thí dụ sơ sơ:
Mã Lai Á: Bônga
Việt Nam: Bông
Chàm: Bơngư
Mã Lai: Sôngai
Việt Nam: Sông
Chàm: Krông
*
* *
Các nhà bác học Âu Châu làm việc ở “Đông Dương” hơi bê bối, nếu không, họ đã thấy cái gì, và một quyển sách như thế nầy, có lẽ ra đời từ 30 năm rồi khi mà trong Việt ngữ có đến 40 phần trăm danh từ Nam Dương nói đúng giọng hơn Chàm ngữ nhiều lắm.
Thật ra thì trong Chàm ngữ cũng chỉ có lối 60 phần trăm danh từ Mã Lai Nam Dương, tức không nhiều hơn ta bao nhiêu, mà lại đọc sai quá xa, thí dụ danh từ Kaki của Nam Dương, ta đọc là Cẳng, còn người Chàm đọc là Tcay thì cũng là ta đọc đúng hơn Chàm, vì rõ ràng là Cẳng gần gũi với Kaki hơn là Tcay.
Điển hình nhứt là Gu nông của Nam Dương, ta đọc là Gò Nổng thì quá giống trong khi đó thì danh từ của người Chàm là Chớ thì lại khác xa Nam Dương một trời một vực.
Cái lớp sơn Trung Hoa phết lên văn hóa Việt Nam đã gạt gẫm tất cả mọi người, kể cả các nhà bác học nữa.
*
* *
Những biểu đối chiếu trình ra trên đây được lập ra có toan tính, tức cố ý chọn những từ có nhiều nhóm trùng hợp với nhau, hóa ra nhìn vào đó, ta không thể biết ta giống ai nhiều hơn. Bổn ý của chúng tôi là đối chiếu nhiều nhóm Mã Lai, chớ không phải đối chiếu ta với một nhóm nào đó.
Nhưng cứ bằng vài chỗ chúng tôi biết riêng thì tỷ lệ giống thiên hạ được ước tượng thế nầy trong Việt ngữ căn bản, tức bỏ vay mượn của Tàu ra:
Thái: 6%
Môn và Khơ Me: 30%
Mã Lai Nam Dương: 40%
Thượng Việt: 40%
Miến Điện: 6%
Tây Tạng: 10%
Mê-la-nê: 4%
Tổng cộng: 135%
Con số 135% là một con số giả tạo, bởi tối đa, chỉ có 100% mà thôi. Sở dĩ giả, vì Miến Điện, Tây Tạng và Môn Khơ Me lại giống nhau.
Bây giờ cho một con số thật thì như thế nầy:
Thái: 6%
Môn Khơ Me, Miến Điện, Tây Tạng: 10%
Thượng Việt: 40%
Mã Lai Nam Dương: 40%
Mê-la-nê: 4%
Tổng cộng: 100%
Các ông Tây nói đến Thái ngữ quá nhiều, nhứt là ông H. Maspéro, vì ông biết có Thái ngữ mà thôi, nhưng tỷ lệ Thái ngữ trong Việt ngữ lại quá thấp, ít hơn cả Cao Miên nữa.
Điều mà không ai ngờ là Thượng Việt ngữ lên đến 40 phần trăm. Thế nên chúng tôi mới hò hét dữ dội khi Thượng Viện ta biểu quyết cho người Cao Miên làm dân tộc thiểu số, mà lại bỏ Thượng Việt vào trong nhóm Cao Miên vì nghe theo sự xuyên tạc của các ông Tây.
Nội cái danh từ Harak Lào của người Sơ Đăng và Hắc Lào của Bắc Việt đủ cho ta thấy sự gần gũi hồi cổ thời giữa ta và Thượng Việt rồi, người Chàm được thế giới nhìn nhận là Mã Lai đấy, nhưng Harak, họ đọc là Lák tức là xa gốc tổ hơn Việt quá nhiều vì Hắc phải gần với Harak hơn.
Gốc tổ đây là Mã Lai đợt I, Thượng Việt là Mã Lai đợt I, chớ không phải Nam Dương đâu, bởi Nam Dương chỉ là Mã Lai đợt II, tức Mã Lai Hoa Nam.
Chúng tôi thử viết lại, theo cái biết của người Tàu đời xưa:
Âu: 6%
Lạc bộ Chuy: 10%
Lạc bộ Trãi: 40%
Lạc bộ Mã: 40%
Mê-la-nê (Tàu không hề biết dân nầy): 4%
Tổng cộng: 100%
Thế thì không có chữ Lạc nào của Tàu nào sai cả, mặc dầu họ gọi ta bằng bất kỳ chữ Lạc nào.
Và ta đừng ngạc nhiên sao tỷ lệ của Âu lại quá thấp. Họ khác chi với ta, với Nam Dương, với Thượng, với Cao Miên, tất cả đều Lạc, mà họ thì là Âu thì tỷ lệ danh từ của Thái trong Việt ngữ không thể cao hơn được.
Và các biểu tỷ lệ sau đây, một lần nữa, cho thấy rằng các nhà ngôn ngữ học Âu Mỹ sai quá to khi họ cứ nhấn mạnh về Miên ngữ, mà không biết 80 phần trăm kia gồm 40 phần trăm Mã Lai đợt I (Thượng) và 40 phần trăm Mã Lai đợt II (Nam Dương).
*
* *
Những danh từ của chủng Mê-la-nê chỉ dùng để trỏ thổ sản và cầm thú địa phương, như Dừa chẳng hạn, những thứ mà khi ta định cư ở đây, ta tìm thấy, nhưng không buồn sáng tác danh từ, chỉ học với thổ dân là đủ rồi. Tuy nhiên, một vài danh từ cao hơn của họ vẫn len lỏi vào ngôn ngữ ta được, thí dụ danh từ Giò.
Tuy nhiên, cầm thú địa phương, có lắm con, ta cũng sáng tác. Thí dụ: một loài chim nói giỏi mà đất Bắc gọi là Yểng, thì người Bà Na gọi là Jông, người Đàng Trong gọi là Nhồng. Jông và Nhồng đồng gốc, và có lẽ đó là sáng tác về sau, sau khi vay mượn Yểng của Mê-la-nê tại cổ Bắc Việt.
Các biểu tỷ lệ cho thấy ở cổ Việt, Mã Lai bộ Trãi và Mã Lai bộ Mã đồng số với nhau. Sở dĩ chúng tôi bảo đợt I đa số vì đợt I gồm bộ Trãi, lại bộ Chuy nữa, nếu không có bộ Chuy thì không có sự đa số đó.
Có một danh từ độc nhứt làm cho chúng tôi khổ sở lắm, không biết Mã Lai học của Tàu, hay Tàu học của Mã Lai. Đó là danh từ Bông Lài.
Việt Nam: Bông Lài
Mã Lai Nam Dương: Bônga Mãlati
Tàu: Mạt lị hoa
Thấy rõ là đồng gốc, nhưng gốc nào chớ?
Theo khoa khảo tiền sử thì, khi di cư, Mã Lai Nam Dương tuyệt đối không có chịu ảnh hưởng Tàu. Vậy chúng tôi tạm kết luận rằng Tàu học của ta, hoặc của Nam Dương hồi đời nhà Hán.
*
* *
Cũng vì tỷ lệ nầy mà ở chương sau, chúng tôi viết sơ sử cho Thượng Việt theo chiều hướng đó. Họ là bộ Trãi, di cư đồng thời với ta, ta ghé Bắc Việt, họ ghé Trung Việt. 2.500 năm sau họ bị Mã Lai đợt II là Chàm đánh đuổi lên Cao nguyên, trái hẳn với các ông Tây, các ông cho rằng Thượng Việt là phụ chi của Cao Miên và từ Cao Miên sang Cao nguyên. Chúng tôi có nhiều bằng chứng hơn chứng tích ngôn ngữ, còn các ông Tây nói ra mà không chứng minh được, lại sai lầm rõ rệt về điểm ngôn ngữ.
Thế là ước mơ của ông G. Coedès đã được thể hiện. Ông viết: “Ai biết người sống đồng thời với hai bà Trưng dùng ngôn ngữ nào thì vấn đề nguồn gốc của dân tộc Việt Nam sẽ được giải quyết dễ dàng”.
Nay thì ta đã biết rồi đây. Họ dùng ngôn ngữ của cả ba thứ Lạc:
Lạc bộ Trãi: 40%
Lạc bộ Mã: 40%
Lạc bộ Chuy: 10%
Ông G. Coedès là người có công lớn nhứt đối với quyển sách nầy vì chính ông là người tóm lược khoa khảo tiền sử đúng về Á Đông mà chúng tôi không được đọc và không đọc được. Không được đọc vì tài liệu tản mác khắp thế giới, không đọc được vì tài liệu được viết với nhiều ngôn ngữ mà chúng tôi không thạo.
Chúng tôi đã nỗ lực biến mơ ước của ông thành sự thật, nhưng ông lại đã hóa ra người thiên cổ rồi.
*
* *
Cũng xin nhắn với vong linh ông H. Maspéro. Ông nói Việt ngữ gồm 3 yếu tố: Miên, Thái, và một yếu tố còn ẩn.
Khá thông minh. Miên, Thái là Mã Lai đợt I, còn yếu tố ẩn thứ ba là Mã Lai ngữ đợt II mà ông quên học.
Ông cũng quên một yếu tố thứ tư. Đó là Mê-la-nê ngữ nó chỉ những cây, trái, cá mà mỗi nhóm đều phải học với dân địa phương vì các thứ ấy vắng mặt ở địa bàn cũ của họ là Trung Hoa, nên họ không biết mà cũng không dại mà sáng tác cho mất công. Thí dụ: Cây dừa.
Việt Nam: Dừa
Cao Miên: Đôn
Thái Lào: Prao
Mã Lai: Nyor
Những món mà họ sáng tác hàng ngàn năm sau khi họ có ngôn ngữ, họ phải sáng tác danh từ, mà họ không còn ở gần nhau nữa nên:
Mã Lai đợt I nói cái Nhà.
Mã Lai đợt II nói Rumaa.
Ruộng, lúa, gạo chính họ phát minh ra chớ không phải là thổ dân, và ở đây thì họ sáng tác danh từ chứ không còn vay mượn nữa, nhưng vì các nhóm đã văn minh rồi và sống biệt lập với nhau thành thử Thái sáng tác không giống Cao Miên, Cao Miên không giống Việt Nam.
Thí dụ:
Việt Nam: Ruộng
Thái: Na
Môn và Cao Miên: Srê
Chàm: Alak
Mã Lai Á: Ladang, Uma (Ruộng khô)
Mã Lai Selangor: Sawra (Ruộng bầu, ruộng đầm lầy)
(Giáo sư Trần Kinh Hòa cho rằng Alak của Chàm do Phạn ngữ mà ra. Nhưng Chàm tiếp xúc với Ấn Độ sau Mã Lai Nam Dương rất lâu mà Mã Lai không có mượn tiếng Phạn để chỉ ruộng, còn Chàm thì mượn là thế nào? Ở đây lại có trùng phùng ngẫu nhiên nữa).
Chúng tôi cho rằng mặc dầu khoa học chê chứng tích ngôn ngữ tỷ hiệu, nhưng chính chứng tích ấy lại cho biết rõ nhiều điều mà khoa chánh là khảo tiền sử và chủng tộc học mù tịt.
Những điều đó gồm cả việc đại sự lẫn việc lặt vặt.
Đây là đại sự. Khoa khảo tiền sử bảo rằng Mã Lai đợt II không có ghé Đông Dương, Đông Pháp gì hết ráo, từ cực Nam Hoa Nam nhảy vọt một cái là đi thẳng xuống bán đảo Ma-Lắc-Ca.
Nhưng học ngôn ngữ của Chàm và Phù Nam, thì ta thấy hai quốc gia đó nói tiếng Mã Lai đợt II.
Vậy cái khoa bị chê nầy lại biết nhiều hơn các khoa khác mà họ gọi là quan trọng hơn.
Cũng nên biết, chúng tôi sẽ chứng minh rằng trống đồng là sản phẩm của Mã Lai đợt II, mà người ta đã tìm được trống đồng ở gần hồ Tonlé Sap, tức tại trung tâm văn hóa cổ Phù Nam. Như thế thì khoa khảo tiền sử đủ khả năng biết sự thật. Nhưng chưa bao giờ ai tìm được trống đồng ở cổ Chiêm Thành cả thì nếu không có ngôn ngữ tỷ hiệu, khoa khảo tiền sử sẽ bí chết về Chiêm Thành, không thể biết họ thuộc đợt I hay đợt II.
Chúng tôi biết, hơn thế nhờ đó mà chúng tôi viết được cả thượng cổ sử Chiêm Thành nữa, chớ cho đến nay sách vở cũng chỉ viết được kể từ thế kỷ thứ hai (II) sau Tây lịch, tức cũng chưa xứng đáng là cổ sử nữa, chớ đừng nói là thượng cổ sử.
Chuyện lặt vặt thì nhiều vô số kể, nhưng thật ra thì đều là đại sự cả chớ không có lặt vặt tí nào, chỉ lặt vặt đối với đại chủng Mã Lai, chớ rất to tát đối với Việt sử.
Chẳng hạn, chúng tôi biết (xin xem chương riêng) nhờ ngôn ngữ tỷ hiệu, rằng người Mường thuộc Mã Lai đợt II, đó là chuyện lớn, vì cho đến nay, chưa ai biết người Mường là ai cả.
Nhưng to hơn chuyện người Mường, là chuyện Hùng Vương. Nhờ biết rõ người Mường mà chúng tôi biết rằng quả có vua Hùng Vương và ông vua đó quả lấy vương hiệu là Hùng Vương, một đề tài tranh luận lớn trong giới trí thức ta, chưa ngã ngũ được, vì chưa ai biết rõ người Mường, họ là nhơn chứng nói cho ta biết là có vua Hùng Vương và vua Hùng Vương thuộc đợt I.
Hay quá sức hay!
Lặt vặt là vua Hùng Vương nói Chơn, còn bọn đợt II tới sau nói Cẳng, còn thuở trước Mê-la-nê thì nói Giò.
Ta biết bọn đợt II đã đưa yếu tố văn minh nào để giúp vua Hùng Vương kiện toàn văn hóa. Họ đưa Trống Đồng, nhưng đó không do ngôn ngữ đối chiếu cho ta biết. Họ đã đưa lưỡi hái đến, trong khi vua Hùng Vương chỉ có lưỡi liềm và lưỡi A. Họ đưa đôi đũa ăn cơm đến mà họ gọi là Đua-đua.
Đua = Hai, cặp, đôi
Ta có thể biết xa hơn nữa thế kia, chẳng hạn Nhựt Bổn thuộc nhóm nào trong khối Mã Lai.
Việt Nam đã đánh mất quá nhiều danh từ, Nhựt Bổn cũng thế. Nhưng Nhựt Bổn còn giữ được danh từ Mã Lai tương đương với Phương hướng của Tàu.
Phương hướng họ nói là Khí.
Thí dụ:
Khí Gắc (Hướng Đông)
Khí Ta (Hướng Tây)
Chúng tôi tìm khắp Đông Nam Á, chỉ có một nhóm độc nhứt là còn nói Khí mà thôi. Mã Lai Nam Dương thì nói Mata An nghin tức là Mắt gió, chớ cũng không có nhóm nào nói Khí cả.
Những nhóm Khả Lá Vàng thì nói Khí đấy.
Khí To: Hướng Đông
Khí Lừng: Hướng Tây
Khí Tin: Hướng Nam
Khí Ho: Hướng Bắc
Chỉ hơi kỳ dị một chút xíu là hướng Tây của Nhựt Bổn (Khí To) lại giống hướng Đông (Khí Ta) của Khả Lá Vàng.
Có lẽ các nhà bác học Nhựt Bổn cũng linh cảm được cái gì cho nên đi tìm tổ tiên họ, họ không đi Nam Dương, mà lên Cao nguyên Việt Nam.
Đó là tiết lộ của giáo sư đại học Nghiêm Thẩm, vì nhà bác học Nhựt Bổn ấy có ghé Saigon, có thăm giáo sư và có cho biết ý định.
Chúng tôi tin rằng với những khám phá của chúng tôi, dùng làm bàn đạp, các nhà học giả Việt Nam sẽ đi xa hơn chúng tôi nhiều để biết nhóm nào thuộc nhóm nào, nhóm nào di cư đích xác từ đâu và đích xác là vào thời nào.
Nhờ ngôn ngữ tỷ hiệu mà chúng tôi biết rằng họ là người Mã Lai và di cư tại Nam Dương từ đầu Tây lịch, bằng chứng là những danh từ Paddy, Ananas, Âu châu mượn của da đỏ Mỹ Châu đều là danh từ của Nam Dương, tức họ đã cùng nhau sáng tác những danh từ ấy rồi thì mới di cư, chớ nếu sáng tác riêng rẽ thì không làm sao mà họ sáng tác giống nhau được.
Có thể nào mà họ đã cùng nhau sáng tác tại Hoa Nam chăng vì người “da đỏ” di cư từ Hoa Nam.
Chắc chắn là không, vì ở bên Tàu, thuở ấy không có trái Ananas, đó là một chứng tích vững như trụ đồng.
Chúng tôi đã phí hơn 10 năm, nhưng vẫn chỉ biết được đường nét lớn mà thôi. Chắc phải tốn thêm 100 năm nữa, mới biết rõ hơn, và đó là công việc của lớp người sau, và chúng tôi tha thiết mong rằng thế hệ trẻ tiếp tục công việc của chúng tôi, và nhiều khám phá mới lạ nữa về thượng cổ sử Việt Nam sẽ được đưa ra ánh sáng.
Nếu ta làm việc thận trọng thì mỗi danh từ đều cho ta một khám phá mới lạ. Thí dụ: chúng tôi tự hỏi danh từ Tangga là cái thang, cái nhà sàn, là danh từ của đợt I, hay của đợt II, hoặc chung của hai đợt.
Để trả lời chúng tôi phải suy luận, và nhờ suy luận mà khám phá. Đó là danh từ riêng của Mã Lai đợt II, danh từ của Mã Lai đợt I đã bị đánh mất rồi, hoặc ta không bao giờ có.
Tại sao biết được như thế?
Hai đợt Mã Lai phát minh ra cái nhà ở địa bàn khác nhau và thời điểm khác nhau thì tự nhiên họ phải sáng tác danh từ chỉ món đó khác nhau là Nhà và Rumaa.
Cả hai đều cất nhà sàn và cái thang còn được phát minh ra sau cái nhà nữa thì không có lý nào mà danh từ Tangga lại là danh từ chung cho hai đợt.
Nhưng biết nó là của đợt II vì hiện khắp các đảo Mã Lai đều dùng danh từ đó, còn ở Đông Nam Á lục địa rất có ít nhóm biết danh từ đó.
Thế thì vua Hùng Vương đã vay mượn của khách trọ bổ sung hơi nhiều.
Và vua Hùng Vương đã vay mượn có hơi kỳ dị, là vay mượn cả những danh từ mà ông đã có rồi.
Thí dụ: đợt I đã có danh từ Chiều thì không lẽ lại không có danh từ Sáng. Thế mà Sáng là danh từ riêng của đợt II đấy, mà cổ Thục, cổ Tây Âu, Môn, Miến, Khơ Me đều không có.
Nhiều danh từ của đợt I lại biến mất, nhường đến 90 phần trăm chỗ ngồi cho đợt II. Thí dụ danh từ Đam của đợt I nay chỉ còn có vài tỉnh miền Trung là nói thôi còn Cua (Kôjor) của đợt II tức Nam Dương, được toàn quốc ta dùng.
Có những danh từ của đợt I biến mất hẳn, thí dụ Knra là con Rùa là danh từ của đợt II đấy. Còn danh từ của đợt I thì khác, chỉ còn nơi người Môn và người Khơ Me thôi.
Vân và mây, không phải là vay mượn, mặc dầu nó là danh từ của Mã Lai đợt II. Ta chỉ dùng Vân để cùng Tây Âu để kháng Trung Hoa đọc tiếng Diển của Tàu theo Mã Lai đợt II cho bõ ghét vậy thôi, chớ đợt I đã có danh từ Mây rồi.
Vua Hùng Vương và dân của ông đã vay mượn của đợt II, nhưng không trọng những danh từ đó lắm. Trong văn chương và ca dao ta, ta chỉ nói Chơn mà không nói Cẳng. Có ai lấy gạch Bát Tràng xây ao cho nàng rửa Cẳng hay không?
Trong khi đó thì đợt II, Chàm và Nam Dương nói Cẳng trời thay vì Chơn trời, và làm thơ nói đến cái Cẳng của nàng, họ vẫn nghe nó hay như thường.
Còn Giò là danh từ của thổ trước Mê-la-nê nên lại còn bị khinh rẻ hơn, thường dùng để chỉ chơn thú vật, hoặc chơn người, nhưng với ý miệt thị hay đùa cợt: Tướng học trò mà giò ăn cướp.
Vấn đề Chơn, Cẳng và Giò, cho ta thấy một điểm triết lý ngộ nghĩnh là quan niệm về cái hay, cái đẹp của con người sai cả, vì nó dựa trên những yếu tố bậy bạ.
Trong văn chương Việt, ai mà dám viết: “Cẳng nàng quá đẹp” thì sẽ bị người ta chưởi là dùng danh từ thô và quê.
Nhưng ở Nam Dương thì họ viết như vậy và thấy là hay là đẹp vô cùng. Và nếu họ biết danh từ Chơn, chắc họ sẽ dùng để chỉ chân thú.
Có người Việt Nam nào viết: “Vết cẳng của hai bà Trưng trên các chiến trường chống xâm lăng” hay không? Không. Họ phải viết “Vết chân” mới yên thân với độc giả.
Người Chàm cũng cảm thấy rằng danh từ Chơn của ta là dị kỳ thô lậu, quê mùa. Đối với họ Cẳng mới là hay và sang.
Khoa thẩm mỹ còn phải tự chỉnh lý mới xong, Chơn, Cẳng hay Giò gì, thật ra chẳng có từ nào hay hơn từ nào cả, nó chỉ hay đối với riêng lỗ tai của một nhóm người mà thôi, bởi dân Mê-la-nê nghe rằng danh từ Giò thơ mộng vô cùng và sang cả vô cùng chớ không phải như ta để danh từ đó để nói Giò heo, Giò gà.
Và khi ta thâm lậm văn hóa Tàu quá rồi thì nghe danh từ Hoa của Tàu là hay còn danh từ Bông của Mã Lai là dở, chớ thật ra thì hai thứ cũng như nhau, Sơn thủy không làm sao mà hay hơn Non nước được, nhưng các cụ thì cứ nghe rằng Tranh sơn thủy hay hơn Tranh non nước.
Khi ta coi rẻ Cẳng hơn Chơn thì đợt II hẳn là không văn minh bằng đợt I vào thuở đó. Khoa khảo tiền sử nói đợt I thuở di cư, chưa biết nông nghiệp, nhưng ta phải hiểu rằng suốt 2.500 năm sống ở Bắc Việt, trước khi bọn đợt II đến, họ đã tự lực tiến lên, bằng chứng là người ta đã tìm được lưỡi rìu tay cầm bằng đồng pha, tại núi Voi.
Chúng tôi nói Mã Lai đợt II kém hơn đợt Hùng Vương vào năm đó. Quả thật thế, mãi cho đến năm nay (1970) mà họ chỉ có độc danh từ Prụt để chỉ Bụng, Ruột và Dạ dày.
Nhưng đừng tưởng là họ kém lắm đâu. Ba trào đại danh tiếng của ta, trào Đinh, trào Lê, trào Nguyễn đều xuất phát từ xứ Mường (đợt II), và người Chàm, đa số là đợt II, vẫn oanh liệt trên một ngàn năm.
Như vậy trào Lê và trào Nguyễn đánh Chàm thì chỉ là đợt II đánh đợt II, chớ không phải đợt I đánh đợt II đâu nhé. Mà cũng tại đợt II đã cất binh đánh đợt II là Đinh Bộ Lĩnh trước nhứt.
Nhờ ngôn ngữ đối chiếu mà ta biết được những địa danh vô nghĩa của ta thật ra có nghĩa gì.
Sông Côi (tức Hồng Hà) là sông gì? Côi là cái cối. Đó là danh từ của Mã Lai đợt II mà ta mượn rồi bỏ dấu sắc.
Sông Côi lại nắm tay với sông Đuống. Mà Đuống là gì kia chớ?
Đó cũng là danh từ của Mã Lai đợt II, có nghĩa là lúa gạo. Cối ở gần lúa gạo là ổn lắm rồi.
Nhiều người cho rằng ở Bắc tên làng thường là chữ Nho kèm theo một tên Nôm chỉ nghề nghiệp hay đặc thù của làng đó.
Nhưng thật ra thì không phải luôn luôn như vậy.
Xin lấy thí dụ tên Nôm của làng Tả Thanh Oai. Đó là làng Tó. Tó là gì? Là một dụng cụ dùng để chống cái xe khi bò hay ngựa, trâu được mở ra khỏi ách.
Làng nào cũng biết chế tạo Tó cả vì trẻ con làm dụng cụ đó cũng được thì đâu cần cả một làng Tả Thanh Oai chế tạo cái ấy.
Tó là một danh từ Mã Lai có nghĩa khác.
Sông Mã là sông gì? Ở đó không có ngựa nhiều hơn nơi khác đâu. Ảma là danh từ Mã Lai đợt II, có nghĩa là Vàng. Chắc chắn ngày xưa sông Mã có vàng và người Mường ở đó gọi là sông Ảma.
Một nhận xét đặc biệt
Trong tất cả các nhóm Mã Lai đợt I, hay đợt II gì đều không có loại từ Cái, trừ Việt.
Theo nghiên cứu của giáo sư Trần Ngọc Ninh thì ta phải hiểu rằng loại từ Cái, có đã lâu đời lắm, có từ thuở ngôn ngữ ta vừa mới phôi thai. Nhưng cái Việt ngữ phôi thai ấy, ta đã thấy, đó là ngôn ngữ của người Khả Lá Vàng, mà người Khả thì không hề có loại từ Cái.
Theo chúng tôi quan niệm thì đó chỉ là tiếng Tàu Cá mà ta mới bắt chước sau Mã Viện đây thôi, nhưng vì ngộ nhận mà ta biến nó thành loại từ, CÁ (Hán Việt) cũng được Quan Thoại gọi là Cá, Quảng Đông đọc là Cô, nhưng nó chỉ là một danh từ có nghĩa là Đơn vị.
Thế thì đó là vay mượn quá mới.
Loại từ Con thì chỉ có Mã Lai đợt I là có mà thôi, còn Mã Lai đợt II tuyệt đối không. Nhưng nhóm Mạ ở Nam Kỳ thì đặt loại từ ấy bất kỳ danh từ nào: con Trời, con đá, con cá, v.v. khác hẳn ta ngày nay. Có lẽ xưa kia, ta cũng thế.
Nhưng cũng chỉ có nhóm Mạ là dùng quá loạn loại từ Con, còn các nhóm Mã Lai đợt I khác thì chỉ đặt nó trước cầm thú mà thôi.
Không hiểu sao chi Âu tức Thái lại biến nó thành danh từ và có nghĩa là Người. Chúng tôi tự tìm hiểu. Xin phân tách danh từ kép: Người ta. Nguyên thỉ, danh từ nầy phải có nghĩa là kẻ khác, vì Ta là Ta đây, thì Người ta phải là kẻ không phải là ta. Vậy danh từ Người phải là tĩnh từ và có nghĩa là Khác. Người ta = Ta Khác.
Thế thì Kon mới đúng là Người nguyên thỉ, còn Người chỉ là tĩnh từ mới bị biến thành danh từ về sau thôi.
Có lẽ chính hai bọn Lạc bộ Chuy và Lạc bộ Trãi đã biến Người Tĩnh từ thành Người Danh từ, và biến Con danh từ thành Con loại từ, không biết vào thời nào và vì lẽ gì. Mà như vậy loại từ Con của ta cũng không có lâu đời gì hết, sánh với lịch sử 5.000 năm của dân ta.
Giáo sư Trần Ngọc Ninh bảo rằng loại từ của ta không thể hoán chuyển được, nhưng rõ ràng ca dao ta đã hát:
“Cái cò, cái vạc, cái nông”.
Thế thì loại từ Cái đã bị ta dùng rất loạn, để chỉ cả con người nữa, giống hệt nhóm Mạ đã loạn với từ Con, với những con Trời, con đá của họ.
Nếu ta nói Cái nông được, chắc ta đã nói Cái Trời, Cái đá. Những nhận xét trên đây cho thấy rằng Cái và Con quá mới, không có lâu đời gì hết, mà bằng chứng khó chối cãi là Khả Lá Vàng không có Con, Cái, trừ Con Gái, Con Trai mà Con, trong trường hợp đó, có thể bị đồng hóa với Đứa Con, chớ cũng không hẳn là loại từ.
Về loại từ thì ta chịu ảnh hưởng Tàu rất nhiều. Thí dụ ta nói Phiến đá. Có lẽ đó là vay mượn của trí thức về sau, còn Cái là vay mượn của bình dân, ngay trong buổi đầu bị chinh phục, và chỉ do một sự hiểu lầm khi học ngoại ngữ lối nhảy dù với bọn lính Tàu từ Lạc Dương xuống. Họ trao cho ta một cái bánh, hai cái bánh và nói “Yi cá, ơl cá” tức một đơn vị, hai đơn vị, rồi ta hiểu rằng trước danh từ chỉ một vật, phải có loại từ Cá mà ta đọc sai là Cái. Rồi ta tổng quát hóa ra, làm sai ngôn ngữ của ta với Cái Cò, Cái Vạc, Cái nông, v.v. Câu chuyện chỉ xảy ra chưa tới 2.000 năm.
Cuộc biến Con ra loại từ, tuy cũng không tối cổ, nhưng có thể cổ hơn việc dùng loại từ Cái hàng ngàn năm, vì tất cả bọn Lạc bộ Chuy và Lạc bộ Trãi đều có loại từ Con thì hẳn phải tốn lắm thì giờ.
Người Mạ là một nhóm Mã Lai đợt I, có ngôn ngữ quá giống ngôn ngữ Khả Lá Vàng, mặc dầu một kẻ có địa bàn ở Nam Kỳ, một kẻ có địa bàn ở đèo Mụ Già, giống nhứt là đại danh từ Tôi, nơi họ là Ai.
Chúng tôi đã chứng minh rằng Khả Lá Vàng là Việt tối cổ thì chúng tôi phải tin rằng Việt xưa cũng nói Ai, thay vì Tôi. Thật thế, ngày nay ta nói Tôi, Tao mà Tôi, Tao chỉ là biến thể của Ta, Ta chỉ là Kita của Mã Lai đợt II. Hồi Trung cổ, theo sách của các cố đạo, ta nói Min (tức Mình ngày nay) mà Min cũng chỉ là vay mượn của Mã Lai đợt II.
Thế thì đại danh từ ngôi thứ nhứt của ta ở đâu? Nó phải là Ai của Khả Lá Vàng và của Mạ, tức của nhiều nhóm Mã Lai đợt I, chớ không riêng gì của nước ta.
Trong một câu tiếng Việt ngày nay, đôi khi Ai cũng rõ ràng có nghĩa là tôi. Thí dụ hai câu đối thoại dưới đây:
- Chó có bị chẹt ô tô ngoài phố không ?
- Ai biết đâu!
Ta đã lôi Ai từ ngôi thứ nhứt xuống ngôi thứ ba, có lẽ chánh phạm là vua Hùng Vương. Quả thật thế, Kita của bọn đợt II, chỉ có vua mới được dùng, mà vua Hùng Vương thì không có đại danh từ nào khác hơn là Ai. Vậy muốn phân biệt cái ngôi thứ nhứt của vua và dân, vua Hùng Vương đã vay mượn Kita. Sau, vua tổ ta mất rồi thì loạn trong ngôn ngữ, dân chúng cũng trèo đèo nói Kita, rồi biến thành Tôi, Tao, v.v. Ai mất ngôi, bị ai lôi đi đâu tha hồ mà lôi.
Sự trèo đèo nầy giống sự trèo đèo của Lê Văn Duyệt, dùng đại danh từ thứ nhứt là Cô, y như vua, và dùng danh từ Làng để gọi mộ cha mẹ, chỉ vì ngài Lê ở quá xa vua, cũng như dân Lạc Việt ở quá xa Hùng Vương khi vua Hùng Vương thứ 18 bị diệt.
Trở lại với người Mạ. Danh từ U của ta, mà cũng là đại danh từ, để trẻ con dùng gọi mẹ, chúng tôi không tìm thấy trong nhóm Mã Lai nào cả, mà chỉ có mặt trong ngôn ngữ Mạ mà thôi dưới hình thức Uu, có nghĩa là Vợ, mẹ, đàn bà và hình thức Uuru, có nghĩa là giống cái. Mà đừng tưởng đó là ảnh hưởng qua lại. Người Việt miền Nam không bao giờ dùng tiếng U cả, còn người Việt miền Bắc thì lại cách trở họ đến hai ngàn cây số, bao nhiêu rừng sâu núi thẳm, và mấy chục thứ dân khác không có danh từ đó.
Tuy đã được các nhà dân tộc học biết rõ, họ có tánh cách cổ sơ nhứt trong bao nhiêu người Thượng ở điểm nầy là họ không ưa sự gần gũi với bất kỳ nhóm dân nào khác, không ưa ảnh hưởng ngoại lai, rất sợ chung đụng với bên ngoài. Đó là nhóm Mã Lai có khuôn mặt đều đặn nhứt nơi nét, và hợp chủng với người ta một đời là họ trắng trẻo ra ngay.
Vì tánh cách chống ngoại lai của họ mà chúng tôi mới tìm nguồn cội của loại từ trong ngôn ngữ của họ, và mới thấy biệt sắc lạm dụng loại từ Con, sự lạm dụng nầy, có thể là dấu hiệu của thời mới có loại từ, tức lâu đời, ít lắm cũng bốn hoặc ba ngàn năm, các dân tộc khác tước bỏ bớt nhưng họ thì không mà ta mới gặp lại buổi ban đầu của loại từ đó, nơi họ.
Trong sợi chuỗi biến dạng từ Hari sang Trời, ta thấy rằng họ có hình thức TRÔ trước cả khi ta có hình thức Trời nữa, vì cách đây không lâu, ta vẫn còn nói Blời. Cả họ lẫn ta đều nói Plái. Blái thay cho Trái, ta sang từ Blái đến Trái, còn họ thì chưa sang, nhưng Trời thì họ đã sang rồi từ rất lâu đời. Cách đây 50 năm, có tiếp xúc trực tiếp với dân đó, chúng tôi đã nghe họ nói là Trô rồi, và hỏi họ, họ cho biết rằng là tổ tiên của họ đã nói Trô từ lâu, chớ không phải là họ muốn bắt chước Trời của ta mà bắt chước không xong.
Chỉ khác có một điều là ta tự nhiên mà hiểu một câu của người Khả Lá Vàng mà không hiểu một câu của người Mạ, nếu không học tiếng Mạ cho thuần thục. Người Mạ không đồng nhóm với ta như người Khả Lá Vàng, nhưng lại là một nhóm Mã Lai gần gũi ta hơn tất cả các nhóm Mã Lai khác. Vì thế mà chúng tôi mới đặc biệt theo dõi loại từ trong nhóm Mạ hơn là theo dõi nơi các nhóm khác, vả lại các nhóm khác không có nhóm nào mà lạm dụng loại từ Con đến thế.
Điều nầy đáng chú ý lắm nơi người Mạ, Con vẫn còn ở dưới hình thức người, và cũng có nghĩa là Người, y hệt như nơi chi Âu tức Thái, nói một cách khác đó là nhóm Mã Lai đợt I mà Con vừa là danh từ có nghĩa là Người, vừa là loại từ đang được dùng rất loạn. Đó là tàn tích của thời mới biến hóa động từ Con thành loại từ Con.
Sách tham khảo riêng cho chương nầy:
Lê Quý Đôn: Kiến văn Tiểu lục, Saigon, 1963
Ph. Bỉnh: Sách sổ sang chép các việc, Đà Lạt
Martine Piat: Un vocabulaire Cochinchinois du 18è siècle (Cochinchine ở đây có nghĩa là Trung Kỳ), B.S.E.I., 1969
H. Maspéro: Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite, B.E.F.E.O., 1912
Sonvinget: Orgine de la langue annamite, B.E.F.E.O.
Shafer: Le Vietnamien et le tibeto-birman, Dân Việt Nam, 1946
L. Cadière: Dialecte du Haut Annam, B.E.F.E.O., 1902
Phạm Văn Sơn: Việt sử tân biên, Saigon, 1956
G. Condominas: Enquête linguistique parmi les populations montangardes du sud Indochinnois, B.E.F.E.O. T.XLVI
Haudri Court: Orgine des tons en Vietnamien, J.A., 1954
Huỳnh Tịnh Của: Đại Nam quốc âm tự vị, Saigon
Nguyễn Đình Hòa: Ngữ học nhập môn, Saigon
Lê Ngọc Trụ: Chánh tả Việt ngữ và Việt ngữ chánh tả tự vị, Saigon
P. Bitard: Note sur les dialectes Môn-Khmers, B.E.E.I., 1956
Hội Truyền Giáo: Sấm truyền, Saigon
Van Hop: Les dialectes Malais de l’Indonésie et des Philippines, Paris
Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Toản: Thi văn Việt Nam đời Trần, Saigon
Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, Saigon
Trần Trọng San: Văn học Trung Quốc, Chu Tấn, Saigon
Toan Ánh: Miền Bắc khai nguyên, Saigon
Các bản dịch Sở từ của Nguyễn Hiến Lê, Trần Trọng San, Phan Kế Bính, Dương Quảng Hàm
Nhượng Tống: Nam Hoa Kinh, Saigon
Chu Lễ: (Bản dịch E. Biot), Paris, 1930
Bác sĩ Reynaud: Etude des phonèmes Vietnamiens, B.S.E.I.
M. Moréchand : Le Chamanisme Hmong, Paris
Tự điển Từ Hải : Hongkong
V. Goloubew : Le tambour génie de Đan Nê, B.E.F.E.O., 1933
V. Goloubew: La maison dongsonienne, B.E.F.E.O., 1938
L. Bezacier: L’Art Vietnamien, Paris, 1951
H. Maspéro: Les religions chinoises, Paris, 1967
H. Maspéro: Sur quelques objects de l’époque des Han, Paris, 1932
J.Y. Claeys: Introduction à l’étude de l’Annam et du Champa, BAVH., 1934
Nguyễn Văn Huyên: Contribution à l’etude d’un génie tutélaire annamite, Lý Phục Man, B.E.F.E.O., 1638
Nguyễn Văn Khoan: Essai sur le đình, B.E.F.E.O., 1930
Nguyễn Phương: Việt Nam thời khai sinh, Huế, 1965
Thích Đại Sán: Hải ngoại ký sự, Huế, 1963
Mercier: Etude de fonderie artisanale au V.N. Fabrication des tambours de bronze, B.S.E.I., 1956
Dr. Hnard Saurin: Etat actuel de la crânéologie, Hà Nội, 1931
Nguyễn X. Huyện, Nguyễn Văn Đức: Indochinoise
Phạm Việp: Hậu Hán Thư
O. Jansé: Archaeotogical Researeh in BelgiqueIndochina, 1953
Bùi Hữu Sũng: Tạp chí Bách Khoa, Saigon
Lưu An: Hoài Nam Tử
Nguyễn Siêu: Phương Đình Dư địa chí, Saigon
Bùi Hữu Sũng: Dấu vết Lạc Việt, Tạp chí Bách Khoa
Nguyễn Hiến Lê: Bản dịch A Phòng cung, Saigon