Chúng ta đã thấy, qua các chương trước, hễ khi chỉ số sọ khác nhau trên hai đơn vị là khoa chủng tộc học xem là một chủng khác rồi, hay nói cho thật đúng xem là một phụ chủng thứ X, nếu các yếu tố khác còn ràng buộc chủng mới đó với cái chủng cũ.
Danh xưng Chủng Cực Nam Mông Gô Lích không có trong sách nào hết, và chỉ là danh từ do chúng tôi đặt ra, căn cứ theo luật trên đây.
Khi các nhà bác học Âu châu còn đang nghiên cứu về cái chủng của dân Việt Nam thì nhiều biến cố chánh trị và quân sự đã xảy ra (1943) khiến công việc bị ngưng trệ.
Ta có phận sự tiếp tục công trình của họ, cứ với tinh thần làm việc của họ, vì thế mà sau khi đối chiếu sọ người Hoa Nam với sọ người Việt Nam, chúng tôi mới đặt tên cho chủng của ta như trên.
Chỉ số sọ của ta y hệt như chỉ số sọ của Mã Lai, nhưng chúng tôi lại cho ta là một phụ chủng Mông Gô Lích chớ không nói là chủng Mã Lai, vì tóc ta đã thẳng, tức có một yếu tố ràng buộc ta với chủng Nam Mông Gô Lích.
Đây là sự nhượng bộ cực cùng của chúng tôi chớ tánh cách thẳng của tóc chỉ là dấu hiệu bề ngoài, chỉ số sọ, tánh cách Brachycéphale và máu mới là yếu tố chánh, mà máu và sọ của ta là sọ và máu của Mã Lai.
Nhưng ta đã trót giống Tàu hơn giống Mã Lai, vì tác dụng của văn hóa nên chúng tôi không muốn bắt đồng bào phải chịu đựng quá nhiều ngẩn ngơ, bỡ ngỡ, chỉ nói ta có nguồn gốc Mã Lai đã làm điên đầu thiên hạ rồi, còn về chủng thì xin cứ tránh cho đồng bào đỡ phải choáng váng, và chỉ gọi chủng của ta là chủng Cực Nam Mông Gô Lích, chớ đáng lý gì phải gọi là Cực Bắc Mã Lai. Đáng lý gì phải gọi thế.
Quý vị đã thấy biểu chỉ số sọ của dân Việt Nam hiện nay ở một chương trước, chúng tôi không lặp lại ở đây.
Như Wallois đã nói thì chủng Mã Lai ở lưng chừng giữa ba chủng lớn: đen, trắng và vàng, thế nên khi họ sắp loại họ phải thận trọng lắm và họ thể theo mức độ nghiêng ngả của Mã Lai về hướng nào để quyết định, và họ thấy chủng Mã Lai nghiêng hẳn về hướng da vàng.
Vì tánh cách da vàng nầy mà người Trung Hoa mới dễ đồng hóa và hợp chủng với “man di” ở Hoa Nam.
Chủng Mông Gô Lích chỉ đưa được vào chủng Mã Lai Việt có một yếu tố độc nhứt mà thôi, đó là tánh cách “thẳng” của tóc chớ còn màu da thì hoàn toàn không, vì người Hoa Bắc ngâm ngâm đen y như một người Việt miền Nam, trong khi đó thì người Hoa Nam lại rất trắng.
Màu da vàng đen của người Hoa Bắc biến thành trắng, chính nhờ màu da của một chi Mã Lai là chi Thái trắng Hoa Nam.
Ta tự hỏi câu nầy: Việt Hoa có hợp chủng trước khi ta bị họ xâm lăng quân sự (Triệu Đà, Lộ Bác Đức, Mã Viện) hay không? Câu hỏi trên đây, tưởng như là thừa, nhưng lại cần được đặt ra.
Xin nhắc lại rằng khoa khảo tiền sử cho biết rằng cách đây 2.500 năm chủng cổ Mã Lai đợt II đã từ Hoa Nam di cư đến Cổ Việt thì thuần chủng Mã Lai không có chịu ảnh hưởng, không có lai Tàu.
Còn xưa hơn, cách đây 5.000 năm thì bọn cổ Mã Lai đợt I di cư đến Cổ Việt thì lại có lai với một chủng Mông Gô Lích mà toàn thể giới bác học đều ngộ nhận, cho là với Tàu, nhưng chúng ta đã bác bỏ và quả quyết rằng chỉ lai với Mông Cổ mà thôi, vì cái lẽ quá rõ rệt là Cửu Lê không có để dấu vết lại ở Hoa Bắc, tức họ không có ở lại hợp tác và chạy đi hết khi chạm trán với Tàu và bại trận. Cũng không hề có sọ Hoa Việt tại Hoa Bắc.
Hơn thế sự lai giống với Mông Cổ ở Hoa Bắc chỉ có hơn hai phần mười vì hang Làng Cườm cho thấy trong sáu cái sọ Mã Lai chỉ có một cái là có lai với Mông Gô Lích còn năm cái khác thì thuần chủng Mã Lai.
Nếu nhận luận cứ của chúng tôi là đúng thì chỉ còn phải kiểm soát lại về đợt II mà thôi. Phải kiểm soát lại vì bộ sách đồ sộ của ông O. Jansé nói khác khoa khảo tiền sử.
Câu hỏi trên đây rất dễ trả lời vì ông L. Bézacier đã quả quyết: “Không hề có mộ Trung Hoa trước thời Hậu Hán tại Cổ Việt”.
Nhưng ông O. Jansé đã kết luận liều lĩnh bộ sách của ông:
“Bọn phiêu lưu tiên phong Trung Hoa đến nơi vào thế kỷ thứ tư trước Tây lịch, rồi thì dân Đông Sơn, vốn đang sống vào thời tân thạch khí, bèn học hỏi với bọn ấy là bọn tài giỏi, rất được các thủ lãnh địa phương thích gả con gái cho. Thế rồi họ mới biết dùng dụng cụ và khí giới bằng đồng và bằng sắt, và hấp thụ rất nhiều yếu tố văn hóa khác của Trung Hoa.“
Ông O. Jansé không biết rằng dân Việt ở châu Kinh và châu Dương đã tự lực tiến tới văn minh đồng thau vào đầu đời nhà Chu như nhiều cổ thư Trung Hoa đã xác nhận, nên mới nói dân Lạc Việt học nghề đồng với bọn phiêu lưu tiên phong Trung Hoa vào thế kỷ thứ tư trước Tây lịch, tại Giao Chỉ. Đó là một lời kết luận hàm hồ của một nhà khảo cổ tập sự. Ông O. Jansé chỉ đúng khi nào ta không thuộc dòng Việt mà thôi, nhưng nếu thế thì tại sao người Tàu gọi là Việt? Và chúng tôi đã chứng minh được rằng ta là Việt?
Ta cũng là một trong các nhóm Việt, mà Việt thì đã biết đúc trống đồng vào thời Tây Chu mà Tàu không có đúc. Không phải là họ kém hơn Bách Việt, nhưng tại vậy, không phải dân tộc nào cũng phát minh nhạc khí giống nhau. Họ không kém hơn Bách Việt nhưng họ không hề chế tạo ra trống đồng, đó là một sự kiện lịch sử.
Ông viết tiếp: “Người Tàu đưa thợ và lái buôn tới. Ở Cổ Việt người Tàu rất được các thủ lãnh địa phương hoan nghinh khi họ muốn làm rể. Cuộc xâm lăng âm thầm ấy lần hồi bành trướng ra và đem kết quả đến vào đầu Tây lịch là sự thành hình của quốc gia Annam”.
Ông O. Jansé không biết rằng khi bà Lữ Hậu muốn đánh Nam Việt của Triệu Đà, một phần đất của Tàu, thì quân đội Trung Hoa không biết đường đi. Nhờ chúa của xứ Vân Nam là Đường Mông mách cho việc sử dụng con sông Tường Kha, sông ấy, đổ từ xứ Thục xuống tới Nam Việt, bà Lữ Hậu mới hành quân được. Thế thì trước đó, hẳn người Tàu không có đi ở rể ở Cổ Việt đông đến nỗi lấy gái Việt, đẻ con ra đủ số hầu thành quốc gia Annam.
Nếu “quốc gia Annam” thành hình bằng yếu tố Tàu lai thì làm thế nào có được những Lạc tướng mà cả An Dương Vương lẫn Triệu Đà, đến Lộ Bác Đức đều giữ lại để mà dùng? Những Lạc tướng nầy đều là Việt 100 phần trăm.
Ông O. Jansé là một nhà khoa học chuyên môn nói không bằng chứng, 7 điều trong 10 điều, và khoa khảo tiền sử về cả Á Đông, đã đính chánh ông quá chát chúa: đợt I chỉ lai giống với Mông Cổ có một phần mười, đợt II thuần chủng Mã Lai, và đã biết trống đồng trước khi di cư chớ không hề phải học với các chú rể Tàu nào hết, sau khi di cư.
Chúng tôi đã chứng minh rằng đợt I, đợt Hùng Vương cũng đã tự lực biết chế tạo trống đồng pha trước khi đợt sau tới. Tóm lại không ai cần các chú rể Tàu ấy để biết kim khí cả.
Ông O. Jansé kết luận như vậy vì ông thấy trong các ngôi cổ mộ Đông Sơn có đồ đá lẫn với đồ đồng.
Nhưng một nhà khảo cổ phải biết rằng thời đại thạch kim hợp dụng kéo dài có khi đến sáu bảy trăm năm là thường vì kỹ thuật tìm mỏ thuở xưa kém lắm. Không phải hễ biết đồng là bỏ đá được ngay, bởi vì đồng rất hiếm, món nào cần thiết lắm, như vũ khí và các vật dụng của tù trưởng, của trại chủ, của chúa, của vua, mới được đúc bằng đồng, còn thì các thứ khác như dụng cụ câu kéo, cuốc, xuổng, kể cả vài lưỡi rìu không cần thiết cho việc quân, cũng cứ còn được tiếp tục chế tạo bằng đá rất lâu, trong nhiều trăm năm.
Tất cả những gì O. Jansé viết đều vô bằng, mà trái lại còn ngược với bằng chứng mà ta có.
Sự kiện ở các di chỉ Đông Sơn có dụng cụ đá mài lẫn lộn với dụng cụ đồng thau, không hề có nghĩa rằng ta còn sống dưới thời đại tân thạch và chỉ mới tiến đến nền văn minh đồng thau, nhờ ảnh hưởng mới của các chú rể Tàu.
Ở Ai Cập, người ta bắt được đồ sắt nằm chung với lưỡi rìu đá lửa. Đó là đồ thờ cúng cổ nhơn.
Mỏ đồng ở Bắc Việt không quan trọng và đồng là kim khí rất quý đối với dân Lạc Việt vào thuở ấy.
Cũng nên biết rằng chính ngay tại Trung Hoa mà cũng chỉ có Hồ Quảng (tên cũ của hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc) tức tại nước Sở, tại Kinh Việt, tại đất tổ của ta, mới giàu khoáng sản, nhứt là đồng, thì không phải hễ biết chế tạo đồ đồng là tha hồ mà chế.
Nhìn vào bất kỳ bản dư đồ khoáng sản nào của Trung Hoa, ta cũng thấy được có hai nơi tại Trung Hoa lục địa có đồng, Cổ Sở và Vân Nam Sảnh.
Thế nên hiện nay, Vân Nam mới giàu cổ vật đồng thau, và thế nên xưa kia dân Kinh Việt mới tiến đến được nền văn minh đồng khí.
Ông O. Jansé đã đi từ mâu thuẫn nầy đến mâu thuẫn khác. Ông đã nói rằng dân Lạc Việt bỏ đất lại cho Trung Hoa để chạy đi dựng nghiệp lại ở hải ngoại mà chúng tôi đã trình nguyên văn ở một chương khác, khiến sử gia Nguyễn Phương đã phải lầm mà lập ra một thuyết động trời, giờ, ông lại nói đến một cuộc hợp chủng. Thế là thế nào?
Ở lại để hợp chủng, hay bỏ nước chạy đi, hở ông O. Jansé?
Hẳn là không có bỏ nước chạy đi, vì ông bảo là dân Việt rất khoái gả con gái cho bọn phiêu lưu Tàu.
Nhưng về hợp chủng, ông cũng cho nó xảy ra vào cái thời mà không hề có một tài liệu nào cho biết rằng Tàu và ta đã có qua lại với nhau. Quả thật cổ vật trong ngôi mộ ở Việt Khê cho thấy có đồ Tàu đời Đông Chu. Nhưng ta có thể mua đồ vật ấy qua trung gian của ba nước ở trên ta là Tây Âu, Mân Việt và Đông Âu, ba nước ấy chưa hợp chủng với Tàu, sao ta ở dưới họ, lại đã hợp chủng với Tàu?
Tàu đã biết ta vào thời nào?
Một lần nữa xin nhắc to rằng khoa khảo tiền sử cho khắp Á châu mà ông G. Coedès đã tóm lược, có nói rõ rằng đợt Mã Lai I, tức đợt Xy Vưu, có lai giống với một chủng Mông Gô Lích, chớ không bao giờ lai với Tàu, mà ta đã thấy cái chủng tộc đó như sau, nó gồm rất nhiều thứ, mà khoa khảo tiền sử lại có cho biết rằng Cửu Lê không có để dấu vết lại ở Hoa Bắc, tức không có hợp chủng với Tàu.
Danh xưng Nam Giao trong thiên Nghiêu Điển mà các sách đời sau tự ý cãi ra là Giao Chỉ không nên xem là quả thật đó là Giao Chỉ. Nam Giao có nghĩa là đất ở phương Nam mà cái phương Nam đó không có biên giới rõ rệt, và chắc chắn là dưới thời Nghiêu Thuấn thì Trung Hoa chưa biết ta.
Các nhà bác học ở Viện Viễn Đông bác cổ đã phân chất đồng thau ở cổ vật Đông Sơn rồi so sánh với thành phần đồng thau đời Chu bên Tàu. Hai hợp kim ấy, khác nhau quá xa, không hề chứng minh thợ Tàu đã dạy dân Việt nghề đúc đồng.
(Từ bao lâu nay, nghiên cứu cổ thư Trung Hoa, các sử gia ta chỉ chú trọng đến những sách danh tiếng, thí dụ như Sử Ký của Tư Mã Thiên, mà kinh nghiệm đọc sách Tàu, với lại nhận xét của nhà bác học R. A. Stein cho chúng tôi biết rằng không mong tìm gì trong những sách danh tiếng ấy đâu, chẳng hạn muốn biết kỹ thuật canh nông đời Chu, phải tìm đọc các ngoại thư tăm tối, như quyển Thủy Kinh Chú chẳng hạn, chớ Khổng Mạnh đâu có buồn nghiêng mình xuống đời sống dân chúng, Tư Mã Thiên cũng vậy.
Ngày nay sĩ phu Trung Hoa tố cáo Tả Truyện và Chu Lễ là sách đã bị Lưu Hàm, Lưu Hướng đời Hán ngụy tạo. Sau trận đốt sách của Tần Thỉ Hoàng, hai ông ấy tìm được bản chánh thoát khỏi hỏa tai vì nó nằm ở nhà dân, nhưng hai ông ấy sửa lại để tư tưởng của hai ông được lưu truyền nhờ uy tín người cổ.
Nhưng chúng tôi lại nghiên cứu Tả Truyện và Chu Lễ vì nếu quả Lưu Hàm, Lưu Hướng có ngụy tạo, họ cũng chỉ ngụy tạo phần triết và chánh trị mà thôi, còn phần kỹ thuật của dân chúng thì không, mà trong hai sách đó thì cho đến kỹ thuật đúc đồng thau (Bronze) cần bao nhiêu cân lượng đồng nguyên chất, bao nhiêu cân lượng kẽm, cũng được ghi chép, và hẳn họ không hơi sức đâu mà ngụy tạo những chi tiết tầm ruồng không dính líu đến chánh trị và triết học, hai món mà họ quyết phá rối).
*
* *
Vả lại chính sử Tàu mà ông Đào Duy Anh đã tìm được hằng lô quyển, lại thú nhận rằng trống đồng thau là phát minh của chủng Việt hồi họ còn ở bên Tàu. Những sách Tàu đó, ông O. Jansé không hề biết, không hề được đọc.
Tánh cách trang trí trên cổ vật thì theo ông O. Jansé lại là tánh cách Tây phương (mà vài ông Tây đã liều lĩnh cho rằng dân Halstatt ở Hắc Hải đến hợp chủng với Đông Sơn và khai hóa Đông Sơn). Có một điểm chắc chắn là có một vài tánh cách sông Hoài mà các ông Tây cho là của Tàu Hoa Nam. Họ không biết rằng sông Hoài là địa bàn của nước Ngô, tức của một nước của “man di” Việt thuần chủng (Khổng Tử).
Những cái sọ người thuộc chủng Mông Gô Lích tìm thấy trong nền văn minh Bắc Sơn cũng không chứng tỏ được gì. Đó là sự hợp chủng của Cửu Lê với Mông Cổ như đã nói rồi.
Dầu sao cũng có một hợp chủng Việt Hoa, chỉ có điều là ông O. Jansé đã cho nó xảy ra sớm đến 444 năm mà không có bằng chứng nào.
Việt Hoa đã hợp chủng rất lớn lao, nhưng bọn lai giống ấy ở lại bên Tàu hết cả để biến thành người Hoa Nam, còn bọn di cư thì không có hợp chủng bao giờ.
Tại sao bọn Mã Lai đợt II lại di cư? Vì thua trận, mất đất, và chính vì không muốn ở lại hợp tác. Mà không muốn là vì họ không có mang giọt máu Tàu nào cả, văn hóa Tàu làm cho họ bỡ ngỡ, lạc hướng.
Nhưng tưởng cãi lắm lời cũng bằng thừa vì khoa khảo tiền sử đã cho ta biết lúc di cư Bách Việt, tức Mã Lai đợt II, thuần Mã Lai.
Cái điều mà O. Jansé nói, vẫn cứ còn ám ảnh ta, là rồi khi định cư ở Cổ Việt, bọn phiêu lưu Tàu có đi theo họ để làm rể hay không?
Điều đó thì chúng tôi đã nói rồi ở chương Những sai lầm, là Tàu rất sợ khí hậu bán nhiệt đới ở lưu vực sông Hồng, mà cho đến thế kỷ thứ 10 sau Kitô kỷ nguyên mà Lư Tổ Thượng còn chọn chết chém hơn là chọn đi làm quan đầu xứ ở Giao Chỉ thì ba bốn trăm năm trước Kitô kỷ nguyên, hẳn không có chú Tàu nào dám phiêu lưu đi Giao Chỉ cả đâu.
Rể của các tù trưởng Lạc phải là những nhơn vật quan trọng, và nếu có họ, họ đã có để mộ lại, mộ đó không kém gì mộ của quan Tàu cả, và người ta đã lầm với mộ của quan Tàu. Nhưng không hề có mộ của quan Tàu, trước đời Hậu Hán.
Mãi cho đến đời Lộ Bác Đức, mà Tàu cũng chỉ gởi sang xứ ta có hai viên quan điền sứ để kiểm soát các Lạc tướng, chế độ mà Triệu Đà đã bày ra, thì hẳn không có phiêu lưu Tàu nào đến Cổ Việt cả, trước Mã Viện, trừ hai viên điền sứ ấy với lại vài chục tùy viên của y.
Đó là chế độ bảo hộ thứ thật, chớ không phải là thứ trá hình chế độ bảo hộ của Pháp mà cho đến tỉnh trưởng, ông Tây Đoan cũng là người Pháp, bằng chứng là các Lạc tướng cứ còn nguyên vẹn cho đến ngày hai bà Trưng dấy quân.
Nếu có ảnh hưởng của Tàu thì trên trống đồng Đông Sơn đã có chữ Tàu, bằng chứng là người ta đã đào được trống đồng đời Hậu Hán có chữ Tàu. Nhưng trống đồng và hàng ngàn cổ vật thời Đông Sơn, tuyệt đối không có mang chữ nghĩa nào cả, mà hình trang trí cũng lạ lùng cho đến đổi các ông Tây cho là do ảnh hưởng Âu châu, chớ cũng không phải là hình ảnh Tàu nào hết.
Như vậy ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm rằng không hề có hợp chủng Hoa Việt tại Cổ Việt, trước Mã Viện, mà sau Mã Viện thì cũng chỉ là hợp chủng với lính thú Trung Hoa chớ không phải với thợ giỏi đi ở rể nào hết, vì, như đã chứng minh ở chương II, lính bị bắt buộc phải đi và phải ở lại, còn dân thì rất sợ khí hậu Giao Chỉ, không ai bắt buộc thì họ không đi, và không ở để mà kết hôn với người bản xứ.
Pháp đã trực trị ta một trăm năm, mà ta thì đã biết cách ngừa sốt rét, nhưng thử hỏi từ năm ta bị Pháp cai trị cho đến năm họ triệt thối, có bao nhiêu người Việt lai Thượng tại Cao Nguyên? Theo chỗ chúng tôi ước lượng thì không tới 20 người, quanh các thị trấn Kontum, Pleiku, v.v.
Nếu không kể quân đội, thì thường dân Việt lên đó định cư cũng chẳng đáng kể, trừ ở Kontum có một số định cư trước cả khi Pháp trực trị nữa vì vấn đề cấm đạo ở đất Việt.
Tàu không có cấm đạo vào đời Hán, nhưng những lần loạn lạc cũng có quý tộc Tàu sang Giao Chỉ lánh thân, chớ không kết hôn với Lạc Việt, y như những người bên giáo lánh nạn lên Kontum, họ cũng chỉ kết hôn với nhau chớ không có lấy người Thượng.
Nhà Hán lên thì hậu duệ của Thái Tử nhà Tần đã kéo hết dân của 127 huyện chạy sang Nhựt Bổn. Một huyện của Tàu là cái gì to lớn quá nên đến nỗi dân Khu Liên lập ra được ở huyện Tượng Lâm cả một quốc gia Lâm Ấp. Thế thì 127 huyện dân đông như kiến!
Thế mà ngày nay sọ người Nhựt vẫn còn yếu tố Mã Lai, và họ còn giữ được đến 35 phần trăm ngôn ngữ Mã Lai, có lẽ còn nhiều hơn, nhưng vì ta học tiếng Nhựt trong sách, viết theo văn chương, dùng nhiều tiếng Tàu, chứ dân chúng Nhựt, ở ngoài đời, có lẽ dùng đến 60 phần trăm tiếng Mã Lai.
Ở Cổ Việt không có lấy một huyện Tàu sang đây toàn bộ như thế, thì làm sao sọ ta là sọ Tàu, tiếng ta là tiếng Tàu được như sử gia Nguyễn Phương đã nói, và làm sao mà quốc gia Annam là một quốc gia Tàu lai được như ông O. Jansé đã nói.
Trong ba cuộc hợp chủng Việt Hoa trước ở Kinh, Dương, rồi ở Ngũ Lĩnh, tổ tiên ta là Bộc Việt đã thoát được.
Nhưng sau Mã Viện thì đành phải chịu hợp chủng vậy.
Đây là cuộc hợp chủng Việt Nam thứ tư trong lịch sử Việt Hoa, nhưng thật ra, nó chỉ là cuộc hợp chủng thứ nhứt giữa người Trung Hoa và tổ tiên trực tiếp của ta là người Lạc Việt gốc Bộc Việt.
Không có tài liệu trực tiếp nào về cuộc hợp chủng nầy cả nhưng ta cũng có thể biết, chính bằng sự kiểm soát lại thuyết trồng người và di cư vĩ đại của Trung Hoa sang Cổ Việt của sử gia Nguyễn Phương, và bằng cách nghiên cứu một cuộc hợp chủng mà ta thấy được, xảy ra tại Nam Kỳ, giống hệt cuộc hợp chủng tại Giao Chỉ vì số người Trung Hoa di cư sang, cũng xấp xỉ như nhau, ở Giao Chỉ có 4.000 quân trú đóng thì ở Nam Kỳ có 3.000 quân tị nạn chánh trị, còn thường dân Trung Hoa tới Cổ Việt thì chỉ rải rác tới sau đó mà thôi, mà cũng không hề có sử liệu cho biết rằng có nhiều di dân.
Bao nhiêu chứng tích mà sử gia Nguyễn Phương đưa ra đều là chứng tích di cư, và những tiếng hợp chủng không hề được sử gia thốt ra lần nào.
Chứng tích hợp chủng của ông O. Jansé trước đời Tần, thì lại chỉ là một lời khẳng định suông, không được chứng minh, hay được chứng minh không khoa học vì ông O. Jansé cho rằng ta hợp chủng do trung gian người Thái lai căn trước ta tức dân Tây Âu của Trạch Hu Tống, mà không đưa ra được bằng chứng nào hết.
Cuộc hợp chủng thứ tư mà là thứ nhứt, cuộc hợp chủng ở Giao Chỉ, không hề đưa ra yếu tố Hoa vào chủng Việt một cách đáng kể, và sau đây là những chứng minh cho công trình của chúng tôi, những chứng minh nầy bác bỏ toàn loạt công trình của tất cả O. Jansé, Nguyễn Phương và vài vị khác.
Có người hỏi sao nếu ít hợp chủng với Tàu mà dân Đông Sơn Lạc Việt lại biến dạng được? Thứ nhứt, họ không có biến dạng nhiều lắm đâu. Cái anh thổi kèn Việt Khê, trông không khác gì người nông dân Việt Nam ở thôn quê ngày nay. Đó là con người cổ mà hình dáng rõ nhứt trong bao nhiêu con người khác, nên chúng tôi mới lấy anh để làm đối tượng so sánh (người thổi kèn đơn độc chớ không phải là người thổi kèn được cõng đâu, hình người được cõng thì không rõ lắm).
Màu da của dân Việt Nam ngày nay cũng không sáng bằng màu da của người Hoa Nam. Tầm vóc của ta lại bé nhỏ hơn tầm vóc của người Hoa Nam một cách rõ rệt.
Ai có thấy người Mường, mới biết được rằng dân Lạc Việt không có biến dạng đáng kể. Người Mường chỉ sậm màu da hơn dân Hà Nội thôi, chớ không khác dân Hà Nội chút nào hết. Nhưng sự kiện sậm màu da ấy không phải một tánh cách nhân thể, mà chỉ là việc dạn nắng dày gió mà thôi. Thứ nữa, dân Việt Nam đã qua hai ngàn năm rồi kể từ lần hợp chủng thứ tư đó, và cái vốn ba bốn ngàn người Trung Hoa lai của buổi đầu, lai đi lai lại mãi, thì dầu ít, nó cũng đi vào chủng Việt, nhờ tánh cách lâu đời ấy.
Không có tài liệu nào hết về cuộc hợp chủng ở Giao Chỉ, nên ta sẽ lấy cuộc hợp chủng Nam Kỳ năm 1680 để làm chứng tích và ta cũng sẽ thấy rằng người Tàu cứ là thiểu số không đáng kể.
Cuộc hợp chủng năm 1680 là hình ảnh rất trung thành của cuộc hợp chủng ở Giao Chỉ và mặc dầu không biết chuyện xưa ta vẫn phục hồi chuyện xưa ấy lại được một cách huyền diệu.
Chúng tôi nói Việt Hoa mà không nói Hoa Việt không phải vì tự tôn mặc cảm, mà vì yếu tố Hoa quá ít, danh xưng Hoa phải ngồi ở hàng ghế thứ nhì vậy.
Chúng tôi đã theo dõi cuộc hợp chủng nầy vào thế hệ thứ 10, tức vào năm 1931 (theo dõi vì tò mò chớ không phải để ngày sau viết sách nầy).
Cuộc tị nạn chánh trị của hai tướng Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch thì ai cũng đã biết rồi cả, không phải nhắc lại làm gì. Cuộc xin sáp nhập của Mạc Cửu thì không đáng kể về mặt hợp chủng, bởi người Tàu ở Hà Tiên quá ít.
Chỉ cần nói thêm chi tiết nầy là ba ngàn người lưu vong ấy gồm các nhóm sau đây: Hải Nam, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ và Quảng Đông.
Trong chúng ta, không có ai là nhân chứng của những gì xảy ra vào năm 1680 ở Nam Kỳ cũng không có tài liệu nào về cuộc hợp chủng ấy, nhưng ta vẫn biết rằng họ đông suýt soát với người Tàu ở Giao Chỉ thời Đông Hán. Họ là ba ngàn, còn quân trú đóng đời Hán là bốn ngàn, nhưng chỉ kể là hai ngàn thôi, bởi quân lính nhà Hán chỉ ở vài năm rồi được thay thế. Hai ngàn cộng với một ngàn dân cư phỏng đoán vào thuở ấy là ba.
Chúng tôi được thấy, được quen với con cháu 10 đời của những người lưu vong nhà Minh. Chúng tôi xin theo dõi bốn họ, cả bốn đều sinh sống trong tỉnh Biên Hòa nơi độc nhứt mà bọn lưu vong nhà Minh còn để lại nhiều dấu vết hơn hết. Đó là nơi họ thành công nhứt với một thành phố lớn xây bằng đá và ba công nghệ quan trọng mà đến nay vẫn còn: công nghệ đồ gốm, công nghệ tạc đá, và công nghệ đúc lưỡi cày, trong đó hai công nghệ: đồ gốm và tạc đá vẫn còn ở trong tay họ cho đến ngày nay.
Họ thứ nhứt là họ Trầm (không phải Trần). Ông Trầm mà chúng tôi biết, tuyệt tự và qua đời năm 1931. Ông nói rằng tổ ông lấy vợ, năm cụ ấy 45 tuổi, hồi cụ ấy sang đây cụ mới 20 tuổi. Đó là một người đàn bà Tàu mà cụ nhờ đưa từ Phúc Kiến sang.
Suốt 10 đời liên tiếp tức từ đời lưu vong đến đời ông lão mà chúng tôi biết, trong họ đó không có ai lấy vợ Việt hết, vì họ đó thành công lớn, có tiền nhiều để dám xài cái xa xỉ phẩm là rước phụ nữ bên Tàu sang đây, vào cái thuở đường sá, tàu bè khó khăn.
Ông lão nói tiếng Việt rất thạo, vì ông là người thổ sanh, nhưng cứ còn “ắc xăng” (accent) Phúc Kiến y hệt như một người Phúc Kiến mới sang lối 20 năm. Ông giữ phong tục Tàu y hệt như người Tàu sang đây làm ăn không lâu, và không có một dấu hiệu nào cho thấy ông bị đồng hóa đôi phần với người Việt.
Họ Trầm chỉ khác các họ giàu có khác là không có đưa hài cốt tổ tiên về Tàu, một thói quen mà người Tàu có của luôn luôn làm, vì mến yêu đất tổ.
Năm chúng tôi biết ông lão thì ông lão không còn giàu nữa, từ đời ông cố, chỉ đủ ăn mà thôi, nhưng ông lão không có mộng làm người Việt chút nào, mặc dầu ông lão sống lẫn lộn với người mình ở một làng xa thành phố.
Theo dõi họ Trầm, không ai tin được rằng trong dân tộc Việt lại có người Trung Hoa thuần chủng. Họ yêu nước, họ lại hãnh diện là dân văn minh hơn dân ta. Họ của chú Hỏa, nhập Pháp tịch từ bốn đời rồi, vẫn không làm Pháp, mặc dầu văn minh của Pháp cao lắm. Tuy nhiên, sự hãnh diện chỉ góp phần nhỏ mà thôi. Họ cố giữ phong tục và tâm hồn Trung Hoa, không biết vì lẽ gì, nhưng đó là một sự kiện chắc chắn.
250 năm là 10 thế hệ người thì hơn 1.000 năm ta bị trị là bao nhiêu thế hệ người? Bốn lần nhiều hơn, tức 40 đời người. Mười đời thì vậy chưa chắc 40 đời lại khác. Vả lại không thể có 40 đời. Họ Trầm mà chúng tôi biết, có lẽ là một trong những họ hiếm có truyền được 10 đời.
Sử chép các đời vua Trung Hoa truyền 800 năm, 600 năm, 400 năm, nhưng các nhà chép sử không biết, hoặc lờ đi những cuộc lập tự (nuôi con nuôi) của những ông vua không có con. Người cháu của Khổng Tử ngày nay cũng chỉ là dòng con nuôi thôi, vì họ ấy đã lập tự nhiều lần như vậy trải qua lịch sử.
Sự tuyệt tự trong dân tộc Việt Nam diễn tiến như thế nầy. Một họ bỗng dưng hiếm hoi, chỉ sanh được một trai mà thôi, trong lối bốn thế hệ như vậy, rồi đến thế hệ thứ tư thì mới dứt, luôn luôn có một sự báo động trước, chớ không có trường hợp một người sanh ra ba hoặc năm trai mà cả ba hay cả năm đều không con. Trong dân tộc Trung Hoa cũng thế.
Một dòng họ có thể truyền hai, ba, bốn, năm, sáu trăm năm, nhưng nên nhớ rằng những người Tàu sang đây, đã là thế hệ thứ bảy trăm không chừng của một dòng họ bên Tàu, chớ họ không phải là ông tổ ban đầu của một thị tộc.
Thế nên mới có những họ ngày nay không còn nữa, chẳng hạn họ Tư Mã: Tư Mã Thác (đời Tần), Tư Mã Thiên (Hán), Tư Mã Ý (Tần), Tư Mã Trinh, Tư Mã Quang (Tống). Người Tàu không nghe nói ai còn mang họ ấy nữa cả.
Bằng chứng hùng biện hơn hết là Mạc Cửu, một nhơn vật danh tiếng trong lịch sử miền Nam, chỉ truyền được có tám đời rồi thì tuyệt tự.
Quả hiện nay ở miền Nam có nhiều người Việt gốc Hoa con cháu của lưu vong nhà Minh. Nhưng họ đã hợp chủng với ta hơn 10 đời rồi và chính sự pha trộn dòng máu đã cứu vãn được cái họa tuyệt tự chớ nếu họ cứ là Hoa thuần chủng thì họ không có thể còn được.
Theo khoa học thì sự hợp chủng làm trẻ lại dòng máu lâu đời và tránh tuyệt tự. Tuy nhiên, Mạc Cửu đã lấy vợ Việt, nhưng vẫn không tránh được cái họa đó.
Nếu không chứng minh được một cách đích xác, bằng sử liệu không thể chối cãi rằng có những đợt di cư liên tiếp trải qua lịch sử, thì không thể nào mà có người Tàu thuần chủng trong xã hội ta cả. Bốn trăm ngàn người Tàu và người Việt gốc Hoa ở Saigon ngày nay, toàn là con cháu của những người di cư sang đây lối năm 1900, những đợt di cư trước, không còn kẻ thừa tự nào hết.
Những người di cư trước 1880, không còn con cháu vì tuyệt tự chớ không phải là con cháu họ đã biến làm dân Việt đâu. Nếu họ không tuyệt tự thì họ cứ làm Trung Hoa mà không làm Việt Nam. Con cháu của lưu vong nhà Minh mà còn, thì đều là người Minh hương, thoát khỏi họa tuyệt tự nhờ sự lai giống, chớ không hề là người Tàu thuần chủng.
Người Trung Hoa giống hệt người Do Thái ở cái điểm không dễ bị đồng hóa. Có những người Do Thái nhập Pháp tịch 40 đời rồi mà còn cứ nhứt định giữ tâm hồn Do Thái, mặc dầu cũng làm phận sự công dân Pháp như ai.
Sử chép rằng ông tổ 4 đời của vua nhà Trần ta gốc người Mân Việt tức Phúc Kiến, sang đây làm ăn, nhưng sử không hề ghi chép chi tiết về hôn nhơn trong họ đó. Họ gốc là người Phúc Kiến, nhưng họ có lấy vợ Tàu suốt mấy đời liền như ông cụ họ Trầm trên đây hay là không? Nếu đã có hôn nhơn Hoa – Việt trong họ đó, thì đã khác rồi, vì người lai căn có thể làm người Việt được, như ta sẽ thấy lát nữa đây, còn người thuần Hoa thì không.
Chỉ từ ngày đạo luật bắt người Hoa thổ sanh nhập Việt tịch của ông Ngô Đình Diệm ra đời, mới có người Việt gốc Hoa thuần chủng, còn trước đó thì không bao giờ có.
Nhưng đạo luật ấy chỉ thành công về mặt hành chánh mà thôi, chớ không mong những đồng bào Việt ấy làm Việt đúng với ý nghĩa một công dân hoàn toàn. Họ vẫn làm phận sự công dân Việt nhưng luôn luôn nghĩ rằng họ là người Tàu và nhứt định không bỏ tâm hồn Tàu.
Lúc ra đạo luật, không phải ông Diệm nuôi ảo tưởng nào, nhưng khi một ngoại kiều không được chánh quốc của họ nhận lãnh, cả Trung Cộng lẫn Đài Loan đều không nhận, mỗi lần họ phạm tội bị trục xuất, thì cái quốc gia đãi khách đã phải làm thế nào? Chỉ có đạo luật ấy mới giúp hành chánh dễ dàng làm việc mà không gây phiền phức cho tư pháp, hành pháp và ngoại giao.
Hoa Kiều lấy vợ Hoa thì như vậy còn Hoa Kiều lấy vợ Việt thì sao? Xin theo dõi họ TỪ.
Nên nhớ rằng cộng đồng lưu vong nhà Minh tới đây trong mấy mươi năm đầu, ai cũng chỉ có hai bàn tay trắng và đều lấy vợ Việt cả, trừ vài người ở vậy như cụ Trầm nói trên kia, bởi một là lấy vợ Tàu là một xa xỉ phẩm rất tốn tiền, hai là họ chưa kịp bắt liên lạc trở lại với cái chánh quốc mà họ đã rời bỏ. (Ông cụ họ Trầm mà truyện tích vừa được kể ra trên đây, ở vậy cho tới 20 năm sau mới lấy vợ Tàu được).
Ông tổ họ Từ lúc mới sang, buôn bán nho nhỏ (một tiệm tạp hóa con con). Ông lấy vợ Việt ngay, nhưng rồi ông khá lên rất mau, đổi nghề, đi khai thác lâm sản, nói là phó lâm sản thì đúng hơn, ông mua rẽ trái lừ ư mà tiều phu ta lượm trên rừng để xuất cảng về Tàu. Đó là một thứ trái rừng người miền Nam ăn chơi, nhưng người Tàu rất cần và rất quý vì họ xếp loại nó vào y dược hay, để trị bịnh tả lỵ.
Ông Từ giàu to. Con ông lai giống, nhưng được giáo dục để làm một người Trung Hoa chánh hiệu, vợ ông phải học tiếng Tàu để trong gia đình nói với nhau toàn bằng tiếng Tàu.
Ông cưới vợ Trung Hoa cho con ông. Họ giàu có luôn bốn đời, mà ba đời đều cưới vợ Tàu. Dòng máu Việt có lẽ đã biến mất. Nhưng họ suy lần đến đời thứ năm thì nghèo và lấy vợ Việt cho đến thời thứ 10 mà chúng tôi biết.
Đời thứ 5 nghèo, lấy vợ Việt, nhưng cứ giáo dục con cái làm Tàu. Đời thứ 6 quá nghèo và có lẽ nản lòng về ý chí làm Tàu nên theo Việt luôn, nhưng đời thứ 10 còn nhớ tổ của họ là người Tàu và nhớ những lần hưng vong của gia đình họ.
Họ thứ ba là họ HỨA. Ông tổ họ Hứa không thành công. Nghe lại thì ông ấy nghèo ngay trong những năm đầu sang đây vì ông làm thợ đẽo đá thì không sao mà khá được.
Ông lấy vợ Việt, sanh ra ba trai và mười năm sau, ông qua đời. Con cháu ông về sau đều lấy vợ Việt, và cái ông mà chúng tôi biết, là người Việt một trăm phần trăm. Các đời sau đều khá, và phú quý sanh lễ nghĩa, họ ăn học, họ tìm biết tổ tiên nên mới nhận ra rằng tổ họ là người Tàu.
Ở Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhựt Nam xưa, chắc đa số những người Lạc Việt lai giống, cũng chỉ lai có một lần thôi, các đời sau, vì là con cháu của lính, quá nghèo nên mới làm người Việt. Nhưng rồi đám con lai có thể kết hôn với nhau, và chủng Hoa đi vào chủng Việt lần hồi như vậy đó.
Họ thứ tư là họ TẤN. Họ nầy, cả 10 đời đều làm thầy thuốc Bắc. Ông tổ có lẽ là quan văn nho nhỏ của Trần Thắng Tài chớ không phải lính. Họ nầy cũng tuyệt tự vào đời mà chúng tôi biết. Ông tổ lấy vợ Việt. Ông ấy có nhiều con trai và một con gái. Cô gái mê trai Việt mà bị ông ngăn, nên cô ấy cuốn gói theo trai và bị bỏ luôn.
Họ nầy cũng giống họ Từ và qua các đời, khi thì lấy vợ Việt, khi lấy vợ Tàu, tùy khả năng tài chánh, nhưng thế hệ lấy vợ Tàu nhiều hơn thế hệ lấy vợ Việt.
Họ nầy cũng tuyệt tự vào đời thứ 10.
Rất khó mà rút từ các cuộc theo dõi trên, những khoản luật chắc chắn về cuộc hợp chủng Việt Hoa, nhưng xin thử nhận xét:
- Chủng Hoa đi vào chủng Việt có một lần nhưng ở phía ngoại, như trường hợp của cô con gái ông thầy thuốc Bắc họ Tấn.
- Chủng Hoa đi vào chủng Việt có một lần, ở phía nội, như trường hợp ông thợ đẽo đá họ Hứa.
- Những Hoa kiều thuần chủng, hoặc chỉ Tàu nửa chừng vì trong 10 đời mà có 4, 5 đời lấy vợ Tàu, đều tuyệt tự, không như những gia đình Hoa Việt cứ lai giống luôn luôn. Nhận xét nầy phù hợp với một thuyết chủng tộc cho rằng một dân tộc quá lâu đời, phải suy về văn hóa, rồi lại phải tuyệt chủng. Chính nhờ hôn nhơn dị chủng mới đổi mới dòng máu cằn cỗi của họ, họ mới tránh được cái họa diệt vong.
Hiện nay trên thế giới, dân tộc Trung Hoa lâu đời nhứt, nhưng họ không suy về văn hóa, không bị diệt chủng là nhờ những cuộc hợp chủng với Mãn, Mông, Tạng và nhứt là với “Nam Man di Bách Việt” mà họ đã bỏ quên trong sách vở của họ.
*
* *
Nếu không bị tuyệt tự thì Hoa kiều ở Nam Kỳ cũng bị tai trời ách nước tàn phá họ. Hai thí dụ điển hình là Tây Sơn đã tàn sát hết hai phần ba dân của thành Nông Nại Đại Phố ở Biên Hòa và thành Đề Ngạn tức Chợ Lớn, cả hai thành phố ấy đều gồm toàn người Tàu nhà Minh lưu vong, và quân Nam Chiếu đã tàn sát toàn thể dân thành Đại La trước khi Cao Biền đến. Dân thành Đại La chắc chắn là người Tàu chớ không phải người bổn xứ.
Những cuộc tàn sát như vậy không diệt chủng được một dân tộc vì nông dân quanh đó còn nguyên vẹn. Nhưng đối với một cộng đồng di cư chuyên làm thị dân thì đó là một thiệt hại quá to tát, vì sự bổ sung khó làm được, bằng chứng là thành Nông Nại Đại Phố được Trịnh Hoài Đức tả là phồn thịnh hơn Hội An, lại tiêu luôn sau cuộc tàn sát ấy.
Thành phố xưa nào của Trung Hoa cũng thiếu vệ sinh thì qua 7, 8 trăm năm lịch sử đô hộ, thế nào ở Luy Lâu, Tống Bình, Đại La, v.v. cũng đã xảy ra nhiều dịch lớn như dịch thổ tả, dịch hạch chuột, v.v. thì thử hỏi còn gì các nhóm thị dân di cư?
- Không có cuộc theo dõi những kết hôn giữa người lai giống với nhau, vì không thể theo dõi được, thường họ là những người nghèo khó họ chìm mất trong đám đông. Nhưng chắc chắn là có. Và cũng chắc chắn là ít. Họ không có thể đi tìm nhau mà kết hôn. Ngày xưa, đi lại khó khăn, khó kết hôn xa, mà trong một làng, không phải luôn luôn có đồng số gái trai lai căn với nhau, một cô gái lai căn mà dư thì phải lấy chồng Việt vậy (không kể các gia đình giàu có họ tìm nhau được mặc dầu xa cách bao nhiêu, nhưng họ là số ít).
- Có người Việt gốc Hoa mang hai dòng máu trong xã hội Việt Nam. Nhưng họ chỉ là thiểu số, chớ không phải là yếu tố duy nhứt. Dân tộc Việt Nam cứ còn là một nhóm Mã Lai, chớ không phải là một chủng lai căn như dân tộc Trung Hoa = Nhục Chi + Mông Cổ. Một chủng lai căn hoàn toàn quả đang có mặt trên quả địa cầu. Đó là chủng trắng đen ở các quốc gia Nam Mỹ. Nhưng ta không ở trong trường hợp đó. Chủng trắng đen Nam Mỹ là cái gì đang có thật, xảy ra trước mắt ta, nói ra ai cũng tin ngay, còn Hoa chủng là Nhục Chi + Mông Cổ, xưa 6 ngàn năm có người không tin, nên chúng tôi lấy ví dụ Nam Mỹ.
Nhưng chửng lai căn Nam Mỹ cho ta thấy rõ rằng ngôn ngữ cứ là ngôn ngữ của chủng thống trị chớ không phải ngôn ngữ của chủng bị trị, Mỹ châu ở Nam Mỹ, kẻ thống trị bị thiểu số rất lớn, lớn đến tỷ lệ 1/10.
Ở Giao Chỉ, theo sử gia Nguyễn Phương thì kẻ thống trị lại tràn ngập kẻ bị trị. Thế mà sao ngôn ngữ lại là ngôn ngữ Mã Lai?
Chứng tích ngôn ngữ bị chúng tôi đẩy xuống hàng ghế thứ ba, ở đây lại hóa ra chứng tích quan trọng bực nhứt, khi ta so sánh xã hội ta và xã hội Nam Mỹ ngày nay.
Không, không thể chấp nhận rằng người Việt là người Tàu, mà không chứng minh như chúng tôi đã làm trong bốn trăm trang. Nói cái việc so sánh xã hội Việt và các xã hội Nam Mỹ đã cho thấy quá rõ sự thật.
Đa số người Việt không là người Tàu thuần chủng như sử gia Nguyễn Phương đã viết, mà họ cũng không là người lai căn, bằng chứng là nếu họ lai căn thì họ phải dùng ngôn ngữ của dân thống trị như ở Nam Mỹ ngày nay. Nhưng họ lại dùng ngôn ngữ Lạc Việt, tức ngôn ngữ của hai đợt Mã Lai I và II.
Làm người Tàu không có gì xấu xa hết, trái lại còn hãnh diện nữa, vì người Tàu quả là một dân tộc giỏi. Nhưng chúng tôi phủ nhận sự kiện ta là người Tàu, chỉ vì sự thật mà thôi.
Không phải nhờ màu da mà các xã hội Nam Mỹ cho ta biết sự thật mà nhờ nó còn mới ràng ràng, ai cũng biết lịch sử hợp chủng trắng đen ở đó cả, trắng thiểu số, đen đa số nhưng ngôn ngữ lại là ngôn ngữ của người da trắng.
Sử gia Nguyễn Phương đã sai lầm vì không sử dụng ba chứng tích chủ lực của chúng tôi, hai chứng tích đầu ông biết rất sơ sài, chứng tích ngôn ngữ, ông lại lầm lẫn rằng tiếng Việt hiện nay là tiếng Tàu.
Xã hội Việt không phải là xã hội Việt Hoa, thì chủ trương đó là xã hội thuần Hoa, còn sai lầm to hơn nhiều quá.
Nhượng Tống cho rằng có nhiều người nghĩ rằng ta là Tàu lai. Nhưng nghĩ rằng ta là Tàu thuần chủng, không cải biến thì tưởng chỉ có một người độc nhứt là sử gia Nguyễn Phương.
Nhưng cũng nhờ thuyết Nguyễn Phương mà ta phải phanh phui mọi sự kiện từ đời nhà Hạ đến nay, và ta mới thấy được sự thật rằng sự hợp chủng không hề cải biến người Lạc Việt, tức sự hợp chủng ấy quá nhỏ.
Từ năm nhận xét trên, ta có thể kết luận rằng yếu tố Hoa rất ít trong dân tộc ta, những gì thấy trong năm 1931, không khác với những gì xảy ra dưới đời Đông Hán sau Mã Viện.
Khi người Trung Hoa là Trịnh Chiếu giở trò úm ba la để leo lên ngai vàng nước Xiêm xong thì ông ấy vội đưa ngay người Trung Hoa di cư sang nước đó, ồ ạt hàng triệu người, nhưng hai trăm năm đã qua rồi mà đám di cư ấy cứ còn là người Tàu, không có dấu hiệu nào cho thấy họ biến thành một thứ người khác Tàu, hoặc bị đồng hóa với dân tộc Thái ở đó, mặc dầu toàn thể cộng đồng Tàu ở Thái Lan đều phải lấy quốc tịch Thái Lan, phải học tiếng Thái Lan mà không được học tiếng Tàu như ở Saigon.
Đám con lai giống của họ, đều làm Tàu hoặc làm Thái, đâu ra đó cả, chớ không hề có chủng thứ ba xen vào giữa hai chủng ấy, thì tại sao ở xứ ta lại có chủng Việt Nam xen giữa chủng Lạc Việt và chủng Trung Hoa.
Đành rằng 300 năm thì non hơn 1.000 năm, nhưng ít ra cũng có dấu hiệu tiên phong của một thứ người thứ ba ở Thái Lan chớ? Nhưng tuyệt nhiên không.
Trong một cuộc hợp chủng giữa hai dân tộc, một mạnh, một yếu, một văn minh giỏi giang, một kém cỏi, thì người lai luôn đi theo dân tộc mạnh.
Thí dụ cụ thể rõ ràng nhứt là trong 10 ngàn người Việt lai Pháp, chỉ có vài người là làm Việt Nam, mà trường hợp điển hình nhứt là ông chủ cái quán điểm tâm nhỏ bé ở đường Võ Tánh, Saigon, mà ai cũng biết. Đó là một ông già. Vào thời của ông, ông muốn làm Pháp, quá dễ dàng cho đến nỗi người Việt thuần chủng mà chỉ nhờ một anh Tây nhìn nhận làm con là được làm Pháp ngay, huống chi ông ấy lại là Pháp lai trông thấy.
Từ những năm 1943, mới có những người Việt lai Pháp làm Việt, mà đó là vì lý do an ninh. Người Nhựt tàn sát người Pháp, rồi sau đó ta khởi nghĩa, ta cũng chèn ép người Pháp lai, có đôi nơi vài phần tử quá khích còn giết họ nữa, nên kể từ đó mới có cộng đồng đầm lai, Tây lai làm dân Việt mà ta thấy hiện nay, nhưng họ toàn là những người chưa quá 30 tuổi vào năm 1970.
Đó là cái luật, luật đi theo kẻ mạnh, như vậy những người Việt lai Tàu ở Giao Chỉ, không có lý do để không làm Tàu lại làm Giao Chỉ rồi trá hình tự xưng là Việt Nam. Họ vẫn có thể ly khai với Tàu về mặt chánh trị, như Tân Gia Ba, nhưng nhứt định làm Tàu, cũng y như Tân Gia Ba.
Chắc chắn là sử gia Nguyễn Phương không có sống mật thiết trong một gia đình Tàu ngày nào hết nên ông mới quan niệm rằng ta quá giống Tàu, bằng vào sắc diện bên ngoài.
Ông cứ sống chung thử xem, và nên chọn những gia đình không hề chịu ảnh hưởng Tây phương thì ông sẽ rõ. Nên nhớ là cần chọn những gia đình đó, vì các gia đình Tàu có chịu ảnh hưởng Tây phương thì có thể hơi giống ta được.
Nói ta là những đứa con rơi của lính Tàu không được nhìn nhận? Rất có thể. Nhưng không nhìn nhận là các ông bố của họ, chớ chính quyền Trung Hoa vẫn nhìn nhận nếu ta biết tiếng Tàu. Mà biết tiếng Tàu là một chuyện quá dễ đối với dân Giao Chỉ thuần chủng, phương chi là đối với người lai.
Thuở xưa không có sổ quốc tịch gì hết, ai muốn làm Tàu cứ làm, và cộng đồng Tàu ở Giao Chỉ sẽ không đẩy họ ra nếu quả họ biết tiếng Tàu và có vẻ Tàu. Người Tàu chánh hiệu vẫn phân biệt được người Giao Chỉ thuần chủng với người Tàu lai, thì không cần có giấy tờ, cộng đồng Tàu vẫn nhìn nhận người Tàu lai đó.
Chúng tôi không phủ nhận có người lai, bằng chứng là chúng tôi nhìn nhận có một chủng, chủng Cực Nam Mông Gô Lích mà các nhà chủng tộc học Âu Mỹ chưa kịp xác nhận thì chiến tranh đã xảy ra. Nhưng đó là sự lai đi lai lại của một nhóm lai căn ban đầu, nhóm đó phải làm Việt mà không làm Tàu từ ngày Lý Bí, Lê Đại Hành, v.v. khởi nghĩa mà người Tàu bị đánh đuổi. Bằng chứng minh bạch là cái sọ của Patte, cái sọ ấy cho thấy hai sự kiện:
1. Đến đời Đinh Bộ Lĩnh chủng Cực Nam Mông Gô Lích mới thành hình hẳn.
2. Chủng ấy thành hình hẳn, nhưng chủng Mã Lai Việt cứ còn tồn tại vì quanh sọ đó, bao nhiêu sọ khác đều là sọ Anh-Đô-Nê.
Bọn lai căn có khuynh hướng theo kẻ mạnh. Nhưng ở Giao Chỉ, bọn ấy phải lọt vào tay xã hội Việt, chính vì Việt là đa số, còn họ thiểu số, bằng như trái lại, thì cho dẫu ta độc lập, ta vẫn cứ là một xã hội Tàu lai, theo phong tục Tàu và nói tiếng Tàu, tuy không giống Tàu một trăm phần trăm, cũng giống 70 phần trăm về thói quen, về phản ứng sinh lý.
Nhưng trên thực tế thói quen và phản ứng của ta khác Tàu đến mười điều (nói theo văn phạm Tàu).
1. Chủng Cực Nam Mông Gô Lích thành hình dưới thời Đinh Bộ Lĩnh, tức sau cuộc đánh đuổi của Lý Bí, Lê Đại Hành, Ngô Quyền.
2. Nhưng chủng Lạc Việt thì cũng cứ tồn tại vào thời đó, bằng vào việc còn thờ kính trống đồng ở các đời sau, Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Trước đó những người lai làm Tàu toàn loạt và có lẽ đã chạy về Tàu cả, hoặc bị tàn sát cả, kể từ đời Lý Bí.
Bằng chứng lai đi lai lại ấy, thấy quá rõ khi ta so sánh người Quảng Đông, Phúc Kiến với người Việt Nam.
Họ gốc Tây Âu tức Thái và gốc Mân Việt, nên họ nhỏ bé hơn người Hoa Bắc.
Trong khi đó thì họ lại cao lớn hơn người Việt Nam là tại làm sao? Vì họ cứ bị lai hoài với Tàu, từ đời Tần Thỉ Hoàng đến ngày nay, vẫn chưa thôi còn ta thì chỉ lai có một lần rồi lai đi lai lại với người Việt, chớ không với người Tàu nữa.
Yếu tố Hoa trong dân tộc Việt Nam rất là yếu. Vì thế mà ta mới là Việt Nam được, chớ không như Tây Âu và Mân Việt.
Cái sọ của Patte đính chánh mạnh cái thuyết hàm hồ của O. Jansé.
Phải mất một ngàn năm, chủng Cực Nam Mông Gô Lích mới thành hình được với cái sọ Mã Lai và vài yếu tố Mông Gô Lích. Như thế thì thời gian 400 năm mà ông O. Jansé đã đưa ra để cho rằng “quốc gia Annam” thành hình sau một cuộc hợp chủng ngắn hạn như vậy là không đúng sự thật.
Đó là không kể cho đến thời Mã Viện mà hai bà Trưng và các Lạc tướng đều cứ còn là Lạc Việt một trăm phần trăm mà sử Tàu đã xác nhận.
Và không kể sự kiện quanh cái sọ Patte tuy đã thành hình Hoa Việt, các cái sọ khác cứ còn là sọ Mã Lai Lạc Việt, tức một ngàn năm vẫn chưa đủ để cho một chủng lai căn thành hình một cách xong xuôi.
Tại sao hiện trong xã hội Việt Nam ngày nay còn nhiều người tóc dợn sóng? Là vì họ là Mã Lai Lạc Việt không hề lai Tàu bao giờ cả. Câu ca dao:
Tóc quăn chải lược đồi mồi
Chải đứng chải ngồi quăn vẫn còn quăn.
cho thấy quá rõ sự thật. Đó là câu hát mà bọn lai căn có tóc thẳng dùng để chế giễu bọn Lạc Việt thuần chủng thích có tóc thẳng, mà không được toại nguyện.
Mà câu hát đó thì không lâu đời lắm đâu bởi dưới thời Đinh Bộ Lĩnh, thì bọn tóc thẳng còn quá ít đâu dám chế giễu bọn tóc dợn sóng mà ta lầm với tóc quăn.
Tân Gia Ba giống hệt như Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Đài Loan mà người Tàu là dân đa số, nếu họ hợp chủng với thổ dân thì thổ dân cũng bị chìm mất, vì chìm luôn ngôn ngữ, phong tục, tâm hồn. Ngay như Ba Thục là một chủng tộc rất văn minh và rất đông đời nhà Chu, văn minh và đông hơn ta nhiều, vào thuở ấy, thế mà nay họ cũng thành Hoa một trăm phần trăm, không còn gì là Ba Thục nữa hết, vì có chánh sách di dân sang đó của Tần Thỉ Hoàng, mà nhứt là với Hàn Tín, Lưu Bị, Khổng Minh. Hàn Tín và Khổng Minh đã lén bắt hoặc dụ dân Tàu đi theo họ rất đông, để làm nòng cốt hầu về sau đánh trở ra.
Cuộc hợp chủng Việt Hoa ở Việt Nam không sâu đậm nên người Lạc Việt còn là cái vốn chánh của dân tộc, đặt ảnh hưởng của mình lên cuộc hợp chủng đó chớ không bị nó biến khác đi quá xa.
Trong một bàn tiệc 12 người, đặt một người Quảng Đông và một người Mân ngồi chung với 10 người Việt Nam, cả 12 đều cao và bé hay gầy bằng nhau, ăn mặc giống nhau và đều làm thinh cả, chúng tôi sẽ chỉ đúng người Hoa gốc Tây Âu, người Hoa gốc Mân không thể sai chạy.
Những đứa con lai giống ở đất Giao Chỉ ngày xưa thường là những đứa con vô thừa nhận của lính Tàu, y như đám con lính Nhựt, lính pháp, lính Mỹ ngày nay. Những đứa con ấy lớn lên là làm Tàu luôn, hoặc thành người Việt luôn, rồi không bao giờ trở lại với chủng Hoa nữa. Có thể hai đứa con lai kết hôn với nhau, nhưng cũng ít thôi, nhưng rồi cũng thành Việt.
Bọn quan lại chạy sang Giao Chỉ lánh nạn chánh trị vào những dịp hưng phế bên Tàu toàn là quý tộc Trung Hoa, mà quý tộc thì kết hôn y như bọn nhà giàu năm 1680, tức con cháu họ kết hôn với nhau chớ không lấy người bổn xứ.
Trường hợp người Tàu thuần chủng ở xứ ta, đổi phong tục chút ít vì muốn tự lập thì không thấy có. Phong tục của ta trước năm 1680 đã mang một lớp sơn bên ngoài khá dầy rồi, thế mà họ còn nhứt định không theo, sau 10 đời sống ở đây, thì khó mà tưởng tượng rằng ngày xưa họ đã thay đổi cho khác người Trung Hoa chánh gốc để biến ra một dân tộc mới, trá hình là dân tộc Việt Nam như sử gia Nguyễn Phương cố chứng minh.
Trường hợp tuyệt tự thì thường thấy và đó là bằng chứng quyết định không có người Tàu thuần chủng trong dân tộc ta nếu không có những cuộc di cư vĩ đại và liên tục. Mà quả không có những cuộc di cư vĩ đại liên tiếp.
Hồ Quý Ly đã nói láo khi ông ấy tự xưng là hậu duệ của vua Thuấn.
Ông ấy tiếm vị năm 1400, mà vua Thuấn thì, theo sử Tàu, trị vì lối năm 2255 T.K. Sử Tàu có sai, chắc cũng sai chỉ lối 255 năm mà thôi, tức vua Thuấn trị vì năm 2000 T.K, tức cách Hồ Quý Ly đến 3.400 năm.
Không thể có một dòng họ truyền lâu như vậy bao giờ. Sử Tàu và sử ta xưa, cứ quên cái điểm tuyệt tự nên mới thường nói đến những dòng họ quá lâu đời, làm như đó là chuyện có thể có được.
Sử của nước Sở chép rằng vào đời thứ 38 (hay 39?) thì con cháu của họ Hùng, người Tàu đến làm vua Kinh Nam, đã bị tuyệt tự, và một hoặc hai đời vua chót không phải là con chánh trực tiếp của họ Hùng, mà là con đánh tráo.
Mà họ Hùng thì đã có nhờ hợp chủng (cưới gái Việt làm vợ) nhiều lần, mà còn bị tuyệt tự như thế đó, một họ khác không hợp chủng, không thể tồn tại hai ngàn năm được.
Ta đã thấy rằng chủng Trung Mông Gô Lích tức Hoa thị (ở Hoa Bắc) phải để ra ba ngàn năm với những cuộc di cư ồ ạt mới tạo ra được một chủng mới là chủng Nam Mông Gô Lích ở Hoa Nam được khoa học nhìn nhận là một chủng, còn chủng Trung Mông Gô Lích chỉ cai trị ta có một ngàn năm mà không di cư đáng kể như chúng tôi đã chứng minh ở chương “Những sai lầm” thì cái chủng Cực Nam Mông Gô Lích mà chúng tôi nói đến chỉ là một chủng trung gian, mà yếu tố chánh cứ là Mã Lai Bách Việt, chớ không phải là Hoa như biểu đối chiếu chung kết chỉ số sọ đã cho thấy ở một chương trước.
Trong đám con cháu của lưu vong nhà Minh, có một người trở thành danh nhân Việt Nam, đó là Trịnh Hoài Đức, nhưng Trịnh Hoài Đức là người lai căn, ít lắm là một đời.
Thuở Tây Sơn tàn phá thành phố Nông Nại ở Biên Hòa, thành phố lớn đầu tiên ở miền Nam, thì họ Trịnh mới có 10 tuổi. Vì người Tàu ở đó bị tàn sát, trong đó có cả thân phụ của tác giả Gia Định thống chí, nên Trịnh Hoài Đức mới chạy theo mẹ về làng Hòa Hưng thuộc hướng Tây Bắc Saigon.
Hiện người ta biết chỉ có bấy nhiêu đó thôi.
Nhưng tất cả người Tàu ở Biên Hòa đều chạy về hướng Tây Nam Saigon để lập ra một thành phố mới là thành phố Đề Ngạn, thế mà bà cụ ấy lại chạy riêng, bỏ cộng đồng của mình thì có phải chăng bà là người Việt?
Và Trịnh Hoài Đức đã thi đỗ được dưới trào Gia Long thì cứ phải chăng họ Trịnh đã học với thầy Việt, bởi chế độ thi cử của ta dầu sao cũng khác của Tàu, mà một bậc danh nho Tàu không thể sang đây thi mà đổ đạt được. Và như vậy có phải chăng vì là người lai nên ông mới sống và học với người Việt. Lúc Trịnh Hoài Đức sanh ra thì người Tàu đến đây mới được có 105 năm, mà đã có người Tàu thành Việt rồi, nhưng mà họ thành một cách khác hơn sử gia Nguyễn Phương ngộ nhận. Họ lai Việt chớ không là Hoa thuần chủng, không hề có sự “dời chuyển người dân”.
Xem đó thì sự kiện ta hơi giống Tàu, không còn gì là khó hiểu nữa, và nhứt là không nên cưỡng ép chứng minh rằng ta đích thị là Tàu.
Chương VII. Về cái họ của Trung Hoa và Việt Nam
Dân tộc lớn nào cũng thành hình theo lịch trình sau đây:
I. Cá nhân lang thang
II. Gia đình mẫu hệ
III. Gia đình phụ hệ
IV. Thị tộc (Clan)
V. Bộ lạc (Tribu)
VI. Quốc gia
Lối sắp loại như trên không tuyệt đối luôn luôn đúng y như vậy, vì có dân tộc không đi qua chế độ mẫu hệ lần nào cả, trái lại có nhiều dân tộc, như dân tộc Chàm chẳng hạn, đã lập quốc và cường thịnh suốt 13 thế kỷ, vậy mà không hề bước sang giai đoạn phụ hệ được.
Lại có những dân tộc đốt giai đoạn bộ lạc, tức từ gia đình tiến ngay lên đại bộ lạc (Peuplade).
Nơi nhiều quốc gia lớn, đã tiến đến chế độ dân chủ rồi, vậy mà hai tổ chức cổ, thị tộc và bộ lạc, vẫn tồn tại, dưới hình thức nầy hay hình thức nọ.
Trường hợp tổ chức bộ lạc tồn tại là trường hợp những quốc gia đã sáp nhập nhiều chủng lại để làm ra một dân tộc nhân tạo, các chủng ấy xưa kia có vua, hoặc có tù trưởng và tinh thần quốc gia của họ mạnh, cứ còn sống hoài trong các cuộc thống nhứt gượng ép như thế.
Trung Hoa ngày nay cũng ở trong trường hợp nầy, nhưng họ có tài và có điều kiện, nên đã kịp đồng hóa những chủng lạ Hồi, Mãn, Mông, Việt, thành thử hình thức bộ lạc còn, nhưng rất yếu ở xứ họ. Người Mân không ưa người Đông Âu, nhưng không ghét ra mặt. Trong Thất Mân có nhóm Triều Châu không bao giờ gả con cho Phúc Kiến, vì một mối hận ngày xưa nào mà chính họ cũng đã quên mất rồi.
Trường hợp tổ chức thị tộc tồn tại thì rất nhiều trong bất cứ quốc gia nào đã có thời phong kiến rất mạnh và chỉ vừa ra khỏi đó mà thôi.
Có hai giai đoạn mà ta cần định nghĩa lại cho rõ, mặc dầu tự nó, đã rõ nghĩa rồi.
Thị tộc là một nhóm gia đình, nhiều ít cũng tùy, cùng chung tổ, cùng sống gần gũi nhau, binh vực lợi quyền chung cho nhau, trước khi có bộ lạc. Họ có thị tộc trưởng toàn quyền định đoạt trong thị tộc. Tiếng Pháp là Clan. Cổ thư Tàu nói đến những Hữu Hưng Thị, Hoa Thị, v.v. thì đó là thị tộc chớ không phải bộ lạc như nhiều sách đã viết. Cả nước Tàu thời đó, toàn thể cổ Hoa, chỉ là một bộ lạc độc nhứt chớ không phải gồm nhiều bộ lạc hợp thành vì: “Bộ lạc là một nhóm thị tộc đồng chủng, sống chung trên một lãnh thổ chưa lập quốc, chưa có vua, nhưng có tù trưởng. Trong bộ lạc, có nhiều thị tộc”.
Hậu của Trung Hoa cổ thời là thị tộc tức Clan, chớ không phải bộ lạc, hay chư hầu, như nhiều sách đã viết.
Ta thường ngộ nhận về danh từ bộ lạc, cứ tưởng rằng nó nhỏ như một làng, cả trong những quyển sử lớn cũng viết như thế. Trên đây chỉ định nghĩa bộ lạc của chúng tôi. Chúng tôi xin phối hợp định nghĩa bộ lạc của chúng tôi với định nghĩa của ba quyển tự điển Anh, Pháp, Đức như sau đây, và chúng ta sẽ thấy rằng nó không khác định nghĩa của chúng tôi bao nhiêu, nhưng khác hẳn ngộ nhận của đa số người mình.
“Bộ lạc là cuộc sinh tụ, dưới quyền lãnh đạo của một người, trên một địa bàn liên tục, của những người đồng gốc tổ, tuy chưa được tổ chức chu đáo, nhưng vẫn có tổ chức”.
Như vậy một bộ lạc có thể đông năm triệu người, chớ không phải chỉ đông có vài chục gia đình, mà địa bàn của họ có thể lớn bằng 10 nước Việt Nam ngày nay chớ không phải hạn chế trong một làng.
ĐÓ LÀ MỘT GIAI ĐOẠN TỔ CHỨC XÃ HỘI CHỚ KHÔNG PHẢI LÀ MỘT VÙNG NHỎ NÀO HAY MỘT NHÓM NGƯỜI NHỎ NÀO. Thế nên định nghĩa mà chúng tôi phối hợp mới dùng lối nói “CUỘC SINH TỤ”, chớ không hề nói một xóm, một làng, một vùng bao giờ.
Như vậy, một bộ lạc, quá giống một quốc gia, chỉ có khác là nó chưa biết tổ chức như một quốc gia.
Thế nên khi một bộ lạc quá lớn, người ta không gọi nó là bộ lạc nữa, mà dùng một từ hơi giống dân tộc, đó là từ peuplade.
Danh từ peuplade cho biết rằng bộ lạc đó đông hàng triệu người nhưng chưa thành dân tộc (peuple) vì chưa biết tổ chức như một quốc gia. Nhưng lại không thể gọi nó là bộ lạc (tribu) vì sợ lầm lẫn với các bộ lạc còn quá nhỏ.
Người ta hiểu thêm rằng peuplade ngụ ý kém mở mang, nhưng đó chỉ là nghĩa phụ, nghĩa chính là: dân tộc chưa thành dân tộc, dĩ nhiên là vì nó kém mở mang nên nó chưa thành dân tộc, hai tánh cách đó đi đôi với nhau, nhưng gọi một cộng đồng, người ta bằng vào lượng chớ không bằng vào phẩm, mà sự hiểu thêm đó lại chỉ hàm ý phẩm, tức ý nghĩa phụ thuộc.
Dĩ nhiên là từ thời kỳ bộ lạc nhỏ (tribu) tiến tới bộ lạc lớn (peuplade) phải qua một thời gian mà bộ lạc nhỏ nầy còn độc lập đối với bộ lạc nhỏ khác, và để thống nhứt, thường có chủng tộc, nhưng không phải luôn luôn có.
Tại sao Trung Hoa cổ thời không có nhiều bộ lạc, mà các dân tộc khác thì có? Là vì địa bàn cổ thời của họ là một địa bàn vô cùng lợi thế, là đồng bằng mênh mông, không bị núi non hiểm trở chia thành nhiều ô như ở Trung Việt, ở Ấn Độ, dân ở nơi nầy liên lạc với dân khác quá dễ nên phong tục, ngôn ngữ không bị địa phương hóa, hơn thế, điều kiện chánh yếu có lẽ là khí hậu giống hệt nhau nên điều kiện sống của tất cả mọi người đều giống hệt nhau.
Đọc sử Tàu và truyện Tàu, có ai để ý đến sự kiện nầy chăng? Dưới đời Chu, thiên hạ đi xe, đánh giặc bằng xe. Nhưng tới đời Hán thì xe biến mất trong sử và trong truyện.
Đó là vì dưới đời Chu, người Tàu chỉ hoạt động ở đại bình nguyên Hoa Bắc, ở đó đất bằng phẳng, chưa biết làm đường vẫn dùng xe được. Nhưng tới đời nhà Hán thì họ hoạt động dưới sông Hoàng Hà, có quá nhiều núi non và sông ngòi, mà họ thì chưa có đường sá, cầu cống, thành thử xe phải dẹp luôn.
Họ không có bộ lạc chính là nhờ đại bình nguyên Hoa Bắc lớn như biển ấy nó diệt địa phương tính từ trong trứng nước.
Thế nên gia đình cứ nở lớn ra thành thị tộc, thị tộc nở lớn ra thành đại thị tộc (peuplade), địa phương tính quá yếu, bộ lạc xuất hiện không được.
Sự kiện Trung Hoa cổ thời không có nhiều bộ lạc, không được ai chú ý đến cả, kể cả các nhà bác học Trung Hoa về dân tộc học cũng không biết.
Về sau, cuối đời Chu khi các chư hầu cát cứ, biệt lập, tánh cách bộ lạc cũng không có vì đó là sự biệt lập giả tạo, biệt lập chánh trị mà dân thì đã giống nhau từ lâu đời rồi.
Trương Nghi, Tô Tần chạy từ nước nầy sang nước nọ để du thuyết, vẫn ăn nói lưu loát bất kỳ ở nước nào, và được họ coi như người của nước họ, sự kiện ấy cho thấy quá rõ là họ gần giống hệt nhau, người ở đâu cũng giống người ở đâu, chớ không như ở Ấn mà hai tiểu bang giáp ranh với nhau nói chuyện với nhau không được vì ngôn ngữ bất đồng.
Nếu không có Trương Nghị, Tô Tần như có người đã nói thì hẳn phải có các nhà du thuyết khác, và các nhà đó đều hoạt động được như Tô Tần, tức ở Triệu ăn nói cũng lưu loát mà sang Tần ăn nói cũng lưu loát.
Ta cứ xem Đào Duy Từ của ta thì hình dung ra được các nhà du thuyết Tàu thuở đó. Đào Duy Từ sở dĩ phục vụ chúa Nguyễn được ngay là nhờ ông đồng ngôn, đồng phong tục với chúa Nguyễn, có khác nhau đôi chút, cũng không vì thế mà thấy rằng khác nhau. Chúa Nguyễn dùng Đào Duy Từ được, nhưng chưa chắc đã dùng Dương Ngạn Địch được.
Dĩ nhiên là vẫn có chiến tranh giữa các thị tộc (hậu) để thống nhứt, như chiến tranh giữa các bộ lạc, ở các quốc gia khác, nhưng hậu nầy vẫn giống hậu kia, chớ không quá khác nhau như bộ lạc nầy khác bộ lạc kia.
Ấn Độ ngày nay còn hơn một trăm phương ngữ chính vì họ có qua giai đoạn bộ lạc, còn Tàu thì chỉ có phương âm (prononciation régionale) mà không có phương ngữ bao giờ. Các quốc gia gọi là man di bị thôn tính, đáng lý gì có phương ngữ, nhưng vẫn không có được vì nỗ lực đồng hóa và thống nhứt của các trào đại Trung Hoa quá thẳng tay và khe khắt, nên đã thành công.
Lợi thế đó, tưởng trên thế giới, chỉ có độc dân tộc Trung Hoa là được hưởng mà thôi.
Thời Chiến quốc bên Tàu chỉ diễn ra có mấy trăm năm là họ thống nhứt được xứ sở. Sách ta cứ than là cốt nhục tương tàn lâu quá, mà không dè rằng chính là quá nhanh, vì ở các quốc gia khác, nhỏ hơn nhiều mà muốn thống nhứt, phải tốn một ngàn năm, còn ở Ấn thì tốn 4.500 năm rồi mà vẫn chưa thống nhứt.
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng Chàm là Lạc Việt, thế mà ta cũng mất một ngàn năm mới thống nhứt Lạc Chàm được, mặc dầu nước ta và nước Chàm chỉ nhỏ bằng bàn tay.
Không, dân tộc Trung Hoa không có qua chế độ bộ lạc ngày nào cả như các sử gia thường tưởng tượng, kể cả sử gia Tàu nữa.
Ta cứ thử hình dung ra tình hình xã hội Trung Hoa cổ thời thì rõ hết mọi việc, sự hình dung nầy không phải là tưởng tượng mà dựa vào các cổ thư của họ.
Họ sống dưới chế độ đại gia đình, sau khi qua khỏi tình trạng lang thang và gia đình nhỏ.
Đại gia đình ấy lớn đến đông hàng ngàn người. Đó là gia tộc, bốn năm thế hệ sống chung, lại có chế độ đa thê nữa thì biết là số người trong đó đông bao nhiêu.
Khi một gia tộc nở ra quá to, chiếm đất quá rộng thì nó phải có tên, có tổ chức, để tự vệ, và để phân biệt với các gia tộc khác.
Người ta bày ra cái Thị tức là cái tên của gia tộc lớn đó. Và Thị tộc là tên của gia tộc chớ không phải là danh từ chỉ cộng đồng, lớn hơn là gia tộc đâu như nhiều người hiểu lầm. Thị tộc cứ là gia tộc, nhưng bấy giờ nó đã có Thị, tức có tên riêng, Thị = Tên.
Thị tộc bị ta hiểu sai, ngỡ nó là Clan, chứ thật ra nó chỉ cứ là Famille, nhưng nó là famille ayant un nom. Ce nom est le Thị.
Thế thì đáng lý Thị tộc không thành danh từ để chỉ Clan. Clan phải được hiểu là Super-Famille. Còn Thị chỉ là tên của gia tộc lớn (Nom de la super-famille). Nhưng chính người Tàu cũng lầm lẫn xem Thị tộc là danh từ có nghĩa là Clan, thì ta cũng đành phải hiểu như họ.
Ta ngộ nhận về Thị tộc y như ngộ nhận về Quan Lang. Thị tộc không phải là danh từ chỉ một đơn vị lớn nhỏ nào cả, mà Thị có nghĩa là Tên. Thị tộc là tên của cái tộc.
Quan Lang cũng không phải là một chức vị, mà là nói tắt câu sau đây: Quan viên có trọng trách cai trị một lang.
Vị quan đó hẳn có tước hồi cổ thời, nhưng vì người Mường sống biệt lập, còn ta thì chế độ bị Tàu phá tan, thành thử không còn ai biết tên của cái tước đó nên mới dùng một đoạn câu (périphrase) để chỉ cái tước ấy, mà lại nói tắt nữa, khiến về sau ta ngỡ đó là tên của cái tước.
Đọc Đại Việt của Ngô Sĩ Liên, ta thấy Tàu kể chuyện Lữ Gia bị một quan Lang Việt bắt nạp cho Lộ Bác Đức, khi y chạy trốn. Rõ ràng là vì là ngoại nhân, nên Tàu không biết cái tước của ông ấy nên chỉ gọi là quan Lang thôi, y như đã gọi Hùng Vương là Lạc Vương.
Ta thì biết, nhưng chế độ bị diệt lâu đời quá, ta quên đi, nên ta dùng lối gọi y như người ngoại quốc, tức lối gọi của kẻ không biết sự thật.
(Danh từ quan mà ta dùng, chưa chắc là Hán Việt, vì tiếng Mã Lai nó là Tuan đấy. Có phải chăng quan Lang là Tuan T’lang bị đọc trại đi, chớ không chắc lắm là ta đã quên, và Tuan không có nghĩa là Quan mà có nghĩa là nhà lãnh đạo).
Và khi cái Thị tộc nở ra quá lớn thì được gọi là Hậu. Giờ thì Hậu mới đích thực là một danh từ, chỉ một gia đình khổng lồ, có tổ chức hẳn hòi để đánh giặc nữa, chớ không phải tổ chức luân lý, trật tự, kinh tế, tôn giáo mà thôi.
Hậu mới đích thực là Clan.
Còn Thị tộc phải được dịch ra là Nom de la grande famille (Tên riêng của một siêu gia đình) chớ không phải là Clan.
Đã bảo Thị tộc không phải là danh từ mà là một đoạn câu (périphrase) nó chỉ có thể dịch ra là Nom d’une grande famille thì nó không hề là một đơn vị, một tổ chức nào hết như Gia đình và Hậu.
Thế thì Thị đích thị là Họ chớ không có gì lạ. Thị tộc là Họ của một gia tộc.
Xin tóm lược:
Gia Tộc = Famille
Hậu tức Siêu gia tộc = Clan
Thị hoặc Thị tộc = Nom du Clan
Hữu Hùng Thị là Siêu gia tộc, có cái Thị gọi là Hữu Hùng để phân biệt với Hoa Thị là Siêu gia tộc, có cái Thị là Hoa.
Tàng tích Thị tộc lớn, tức Hậu, cứ tồn tại hoài hoài trong xã hội Trung Hoa cho tới về sau nầy mà ta nghe nói đến những Trần gia trang, Lý gia trang, v.v.
Trang ở đây chỉ là trang trại, trong đó có thể có nhiều cá nhân khác tộc, nhưng thường thì đó là trang trại của một người giàu có, họ quy tụ tất cả bà con lại để giúp lẫn nhau, đông bằng hai ba trăm người, y hệt như tộc lớn tức hậu hồi cổ thời, chỉ có khác một chút xíu là họ chấp nhận luật của chánh phủ phần nào chớ không có độc lập như hồi họ còn là hậu.
Hình thức đại tộc ấy ở xứ ta không có kéo dài tại Cổ Việt nhưng lại được phục sinh tại đất Chàm dưới các trào đại Trần, Lê, mà các gia đình Việt Nam di cư xuống đó tự động lập làng, và lấy Họ của mình làm tên của làng, thí dụ Trương Xá, Vũ Xá, v.v. trong làng gồm toàn người một họ, y như các trang trại bên Tàu đời nhà Minh, đời Thanh và y như các hậu bên Tàu thời cổ.
Đại tộc Hữu Hùng thống nhứt các đại tộc khác rồi, dưới quyền lãnh đạo của Hiên Viên, mà dân Trung Hoa chưa thành dân tộc vì chỉ có Cộng chủ chớ chưa có vua.
Đó là một grand peuplade chớ chưa là một peuple, vì sự tổ chức chưa được chu đáo, chặt chặt chẽ.
Nếu thuở ấy, cạnh đó có một dân tộc khác thật văn minh, họ đã gọi Tàu là một peuplade chớ không gọi là dân tộc. Và chính người Tàu cũng biết vậy, nên họ chỉ tôn nhà lãnh đạo làm cộng chủ mà thôi, chớ chưa nghĩ ra chế độ vương quốc, mặc dầu họ đông đảo lắm, và khá rộng đất đai đủ khả năng về số lượng để lập vương quốc và xưng Vương.
Nhưng rồi không lâu sau đó, họ trở thành dân tộc một cách mau lẹ không tưởng tượng được và đặt chế độ vua chúa.
Sự biến chuyển quá nhanh chóng đó xảy ra được nhờ họ không có nhiều bộ lạc, không phải chiến tranh để diệt địa phương đồng chủng.
Chiến tranh với Xy Vưu chỉ là chiến tranh với ngoại chủng chớ không phải là nội chiến.
Biết những điều trên đây rồi, ta xét qua cái HỌ của người Tàu được, vì THỊ là HỌ chớ không có gì lạ.
Hồi thượng cổ, người Tàu đặt tên cho tộc như thế nào, tức lấy gì để chỉ cái Thị của tộc nào đó?
Không có sách nào nói thật rõ nét, các tự điển nói khác nhau nhưng đọc các sách rồi suy luận, ta biết thật rõ là họ đã làm cách nào.
Thoạt tiên, họ lấy tên đất để làm Thị, tức làm tên của dòng tộc. Một gia đình đi lập nghiệp ở đất Kỳ thì tự ban cho mình cái thị là Kỳ. Sáng kiến đó rất giản dị và hay nên thiên hạ đều làm như vậy, rồi sau nhà vua công nhận cái hay đó và bắt chước dân trong các việc kiến phong.
Vua phong cho một bề tôi ở đất Sài thì bề tôi ấy được và phải lấy họ Sài mặc dầu trước đó, ông ấy đã có họ rồi, họ Bi chẳng hạn.
Sau, nhà vua còn chế ra nhiều biến thể khác nữa, chẳng hạn chúa của chư hầu Tần, vì giỏi dinh điền và có công dinh điền nên được ban cho họ Dinh. Tên đất, tên sông, tên núi không còn giữ vai trò quan trọng trong việc dùng làm tên dòng tộc nữa.
Có một người giỏi tài nuôi bò cho nhà vua, được ban cho họ Ngưu thì nghĩa là dựa vào chuyên môn, chớ không phải chỉ căn cứ vào đất lập nghiệp nữa.
Tiên tổ của Mã Viện họ gì không ai biết, nhưng có một ông tổ dưới thời Chiến quốc làm tướng cho vua nước Triệu, nên được cho lấy họ Triệu. Triệu là tên của dòng tộc của chúa nước Triệu, công thần mới được mang tên dòng tộc Triệu để làm Họ, còn quan nhỏ và thường dân thì không.
Vậy ông tổ ấy tên họ là Triệu Xa.
Triệu Xa rất giỏi tài trị những con ngựa bất kham (ngựa chứng) của quân đội, thế nên rồi lại được phong chức là Mã Phục Quân.
Từ đó con cháu y lại lấy chữ Mã để làm cái họ, vì dòng họ ấy được hiển vinh nhờ ngựa (lại cũng vì lý do chuyên môn nữa).
Họ Mã, về sau không bao giờ thay đổi nữa, bởi vua đã hết đất để phong kiến rồi. Hàng vạn cái Thị ấy rồi sẽ diệt nhau để đi lần đến chế độ chư hầu to tát. Khi số hậu từ 10 ngàn, xuống còn có 800 thì số họ cũng sụt y như vậy, vì khi hậu nầy diệt hậu nọ, thì diệt hết cấp lãnh đạo, dân còn sống sót, tức bọn con cháu xa xôi của hậu trưởng, được thu nhận, và phải đổi họ theo cái tộc vừa thắng trận.
Nhưng nếu thế thì hóa ra dưới thời Chiến quốc chỉ còn có bảy họ thôi sao, vì chỉ còn có bảy chư hầu? Không, còn hàng trăm họ, vì những họ nhỏ sống riêng rẽ nên thoát được. Tại sao có những họ nhỏ sống riêng rẽ thì ta sẽ thấy ở một trang tới, khi nói về sự xuất hiện của danh từ tánh, thay cho danh từ Thị.
Bây giờ xin trở lại tiếp tục xét về lối lấy cái Thị của người Tàu cổ thời.
Vua Vũ sáng lập nhà Hạ, là hậu duệ của vua Xuyên Húc, nhưng lại lấy họ Tỷ vì trước khi lên làm vua, ông ấy lập nghiệp ở bờ sông Tỷ tại tỉnh Sơn Tây.
Lại còn nhiều cách lấy họ kỳ dị nữa. Có một ông họ Trùng, vốn làm thầy dạy con vua nhà Hạ học chữ. Ông ấy sanh ra sáu người con trai, đều ở với ông ấy tại trào, nhưng ông ấy cho sáu người con đó sáu họ khác nhau, tùy khả năng và đặc thù của mỗi con ông. Một ông lấy họ Kỹ, một ông lấy họ Đổng, một người lấy họ Bành, một lấy họ Mị, một ông lấy họ Vân, một người lấy họ Tào.
Lạ lùng nữa là chắt của ông họ Mị không là họ Mi. Con của ông ấy mang họ Mị thêm một thế hệ, rồi cháu nội của ông mang thêm một thế hệ nữa thì đời chắt lại cải ra là họ Hùng vì một lý do rất kỳ cục. Nguyên cha của ông họ Hùng tên họ là Mị Giục Hùng, ông ấy sanh con trai, lấy tên của mình làm họ cho con. Thật là kỳ dị. Ông mang họ Hùng đầu tiên ấy được phong làm chúa nước Sở.
Người Tàu cứ hãnh diện với cái họ mà họ ngỡ chỉ có một mình họ là có mà thôi, họ không dè rằng dân tộc nào cũng có cả, chỉ khác là tên thị tộc nơi các dân tộc khác biến thành họ, theo một lối khác hơn trong xã hội của Tàu.
Tuy nhiên, rợ Khương tức Khel (theo Quan Thoại) tức Khơ Me ngày nay, cũng lấy họ y hệt như họ Mị biến thành họ Hùng mà Tàu không biết rằng thuở xưa họ cũng đã làm như thế, nên gọi rợ Khương lấy họ dị kỳ.
Vua ta thuở cai trị người Cao Miên cứ bảo rằng họ không có họ và ban cho họ những cái họ Việt là Thạch, Sơn, Lâm, Danh, v.v. Đó là vì vua không thạo đời sống của dân tộc Khơ Me chớ họ vẫn có Họ.
Đã bảo Họ là tên của thị tộc mà Cao Miên đã tiến tới quốc gia rồi, làm thế nào không đi qua chế độ thị tộc, mà hễ có đi qua chế độ ấy thì họ phải lấy tên thị tộc của họ để làm Họ chớ.
Nhưng vua ta hiểu lầm vì dân Khơ Me, giống hệt thổ dân ở tỉnh Tây Khương ngày nay bên Tàu, đất tổ của dân Khơ Me, dân ấy biến cái Họ theo lối Trung Hoa đời nhà Chu.
Thí dụ họ thuộc thị tộc Dom Chúp Nhay nhưng con họ thì không là Dom Chúp Sang, hay Dom Chúp Ria, thế nên cái Họ ban đầu mất đi, vô phương nhận nhau, khác hẳn với các dân tộc khác như Hoa, Pháp.
Các nhà bác học Trung Hoa cho biết rằng ngày nay người Khương được đồng hóa hẳn với Tàu rồi, mà người Tây Khương cứ giữ tục lấy họ theo lối xưa ấy, chỉ có một số gia đình nhỏ mới chịu theo hẳn Trung Hoa mà thôi.
Họ cho rằng như vậy là dã man, là vô luân thường, bởi vì cái họ, sau một thế hệ đã biến mất và bà con có thể lấy nhau mà không hay biết, nhưng chính họ cũng dã man y hệt như vậy dưới đời nhà Chu, như trường hợp họ Trùng biến thành họ Mị, họ Mị biến thành họ Hùng trên đây đã cho thấy rõ.
Thế thì vào đời Chu, Trung Hoa vẫn không hơn và không khác Cao Miên ngày nay, hoặc dân của tỉnh Tây Khương ngày nay, con không mang họ cha, mà lấy tên cha làm họ.
(Lấy họ theo lối Trung Hoa Tây Chu và Cao Miên, Tây Khương ngày nay thì bà con cật ruột có thể lấy nhau, nếu có tai biến phá vỡ đại gia đình của họ).
Quả thật thế, ông Hùng họ đầu tiên là anh nhà chú nhà bác với con gái của ông họ Tào, vì ông họ Tào không có chơi cái trò kỳ cục của ông họ Mị và con gái của ông có thể cũng mang họ Tào. Nho giáo đã phôi thai từ thời đó và anh em đồng họ không được lấy nhau nữa. Nhưng cô họ Tào đâu còn là anh em đồng họ với ông Hùng, trên giấy tờ. Nhưng về huyết thống thì là đồng họ với nhau về phía bên nội.
Gia tộc của Hùng Dịch không bị tan vỡ nên tránh được cái nạn loạn luân ấy chớ có biết bao nhiêu là gia tộc tan vỡ vào cái thời mà hậu nuốt hậu, nhứt là với cái trò bắt tù binh lấy họ của kẻ thắng trận.
Những cuộc kết hôn nội tộc có loạn luân hay không thì còn tùy luân lý của mỗi dân tộc, nhưng về mặt y học thì thật là tai hại, vì những đứa con sanh ra dễ mắc bịnh máu lỏng và dễ tuyệt tự lắm.
Dầu sao cái họ của Trung Hoa, ban đầu có tiêu chuẩn là tên đất, tên sông, tên núi, tên nghề nghiệp, nhưng sau rồi thì biến đổi lung tung không theo nguyên tắc nào rõ rệt, ông Khúc Lương Ngột lại có con mang họ Khổng (Khổng Tử). Nhưng tới đời Tần thì hết thay đổi.
Có người nói rằng nhà Tần cấm thay đổi Họ vì lý do cảnh sát, nhưng sự thật thì cái Thị, tự nó đã bị tiêu diệt giữa thời Chiến quốc vì lý do thị tộc lớn nuốt thị tộc nhỏ.
Khi một chư hầu nhỏ bị một chư hầu lớn diệt, thì bao nhiêu họ hàng của chư hầu nhỏ đều bị giết hết.
Cả những dòng họ nông dân to tát, giàu có, tuy không có địa vị chánh trị vẫn bị diệt vì họ là một mối nguy, là những kẻ có điều kiện để khởi nghĩa.
Hễ một dân tộc muốn thống nhứt thì phải diệt tất cả mọi lực lượng chỉ chừa lại gia đình và cá nhân mà thôi, mà vào thời cổ, không có đảng phái thì lực lượng duy nhứt đáng sợ là các tộc lớn, từ nhà giàu địa phương, chủ trang trại, đến chúa của các hậu.
Nhà Tần chỉ cấm thay đổi Thị chớ không có ý tiêu diệt Thị, chính thời đại Chiến quốc mới là tiêu diệt Thị.
Nhưng cũng chính vào thời Chiến quốc, danh từ Tánh xuất hiện, đồng nghĩa với Thị, tức đó là tên của các dòng tộc, cái mà tiếng Việt gọi là Họ.
Cái Họ ấy, ngày nay Trung Hoa gọi nó là Tánh, nhưng xưa họ gọi là Thị. Danh từ Tánh chỉ mới xuất hiện lần đầu trong Xuân Thu của Khổng Tử mà thôi, chớ trước đó, thư tịch Trung Hoa chỉ có Thị chớ chưa có Tánh.
Tánh xuất hiện, nhưng Thị chưa mất, bằng chứng là còn Lã Thị Xuân Thu, của Lã Bất Vi, một nhơn vật có Tánh là Lã.
Tại sao cả hai đều đồng nghĩa, mà khi từ mới xuất hiện từ cũ không mất?
Là vì tuy đồng nghĩa, nhưng có khác nhau đôi chút.
Khi một Thị phát triển ra quá lớn thì hết đất, một số người tách rời đi kiếm ăn ở một địa bàn mới, không liên lạc với địa bàn cũ nữa, nên lấy tên của Thị khác đi, nhưng còn vọng tưởng Thị cũ, gọi tên nhóm mình là Tánh nhưng còn cho Thị một chỗ ngồi.
Nói rõ hơn là những nhóm tách rời thị tộc quá lớn để đi lập nghiệp riêng mang đến hai cái họ, cái Thị và cái Tánh. Thí dụ một nhóm của Thị tộc Uất tách ra đi lập nghiệp xa, lấy Thị khác là Đào, nhưng cứ giữ Uất. Thế nên cái Họ là Uất Đào, chớ không phải là Uất mà cũng chẳng là Đào, gọn lỏn.
Nhưng không phải những gia đình tách rời đều luôn luôn vọng tưởng bằng cách lấy hai từ, mà có gia đình chỉ sáng tác một từ đơn giản, miễn khác với đại tộc cũ mà thôi.
Chính những thị tách rời mà không đèo bồng Thị cũ, đã thoát chết vì cái Tánh của họ chỉ là một tên tân tạo, không dính líu với Thị lớn nào cả để có thể bị diệt vì bị truy nguyên là mang dòng máu của cái Thị cần phải diệt. Họ được xem là một gia đình nhỏ, riêng biệt, không có gì đáng sợ mà phải giết chết họ. Diệt là diệt các dòng tộc lớn, chớ người ta phải tha gia đình riêng rẽ và cá nhân, như thế trong nước mới còn dân. Chúng tôi hẹn giải thích tại sao khi chỉ còn có 7 chư hầu mà cứ còn nhiều trăm họ, là như thế đó.
Hơn thế cái trò bắt tù binh đem về, cho lấy họ của kẻ thắng trận, không xảy ra nữa vì khi mà các hậu đông năm trăm người bị diệt hết rồi, tất cả đều biến thành chư hầu tương đối lớn, to hơn cả huyện thì không có vấn đề bắt hết kẻ sống sót nữa, cứ để họ ở yên chỗ cũ làm thần dân, và họ tự do giữ họ cũ của họ.
Thị và Tánh sống chung như vậy một thời gian khá dài và cứ có nghĩa là cái Họ.
Thật đúng ra thì Tánh có trước Khổng Tử nữa kia, chớ không phải chỉ vào thời Khổng Tử. Nhưng vào thời Khổng Tử thì Thị bắt đầu lui bước thật sự, để rốt cuộc còn Tánh không mà thôi.
Và có một thời, thời chuyển tiếp mà Thị và Tánh bị lẫn lộn với nhau, đó là cuối đời Chu. Thí dụ: Lã Thị (Xuân Thu), Thị, trong trường hợp đó là Tánh rõ ràng.
Ta cần tóm tắt lại những gì có vẻ hơi lộn xộn, vừa được trình bày.
1. Hậu là tổ hợp những gia đình đồng tông, lấy tên chung làm danh xưng và cái danh xưng ấy được chỉ bằng danh từ Thị. Thí dụ Thị tộc Dư. Danh xưng của nhóm đó là Dư, Thị tộc là danh từ chỉ cái danh xưng của dòng tộc ấy.
2. Hậu chỉ là đại tộc có tầm vóc khác thường, to bằng cả một tổng của ta.
3. Gọi cả thảy các thứ ấy là bộ lạc thì tạm được nhưng bảo rằng Hậu là chư hầu là sai. Chư hầu của ai kia chớ? Vì chưa có vua.
4. Khi bao nhiêu Hậu tổ hợp lại mà chưa có quy củ như dưới thời Hiên Viên thì mặc dầu có thống nhứt, cũng chưa có nước, chưa có dân tộc. Đó là giai đoạn mà Tây phương gọi là Peuplade.
Cả Hoa Bắc thuở đó chỉ là một Peuplade, một bộ lạc khổng lồ gồm nhiều đại tộc.
5. Thị tộc không bao giờ là một Đơn Vị Người nào hết mà có nghĩa là tên của một tộc nào đó. Cái tên ấy đích thị là cái họ của cộng đồng đó. Vậy Thị tộc = Nom du Clan, chớ không phải là Clan.
Trở lại Thị và Tánh. Khi Thị quá lớn, thiếu đất thì một nhóm trong Thị tách riêng, tìm đất trống để khẩn hoang. Số phận của họ đã không còn dính líu với số phận của Thị gốc. Nhưng vì luyến tiếc nên mặc dầu tự xưng khác, lối tự xưng ấy là Tánh, nhưng cứ giữ Thị. Họ vừa mang Thị lại vừa mang Tánh trong một thời gian.
Và đến khi kia, có khuynh hướng diệt Thị thì họ bỏ Thị để khỏi lâm nguy, chỉ còn mang Tánh mà thôi.
Thị chỉ gốc tổ, Tánh là thị tân tạo. Cái gốc tổ đó quá lớn mới bị kẻ có quyền xem là mối nguy, tìm cách diệt, còn Tánh thì quá nhỏ, được để yên.
Nhưng Cố Viêm Vũ, cho rằng Tánh là Thị tộc, tức Clan, còn Thị mới là Họ. Về sau, Thị tộc mất lần, chỉ còn gia đình và bộ lạc, rồi bộ lạc biến thành quốc gia.
Rồi Cố Viêm Vũ đưa thí dụ:
Vua Viêm Đế, Thị (tức Họ) là Thần Nông, Tánh (tức Clan) là Khương, Cố Viêm Vũ lầm, Khương rõ ràng là một Họ Trung Hoa, không còn chối cãi được nữa, vậy nói Tánh là Clan là không đúng.
Còn Thần Nông thì rõ ràng là một tộc quá lớn, biết trồng trọt trước các đại tộc khác trong đám người du mục lai Nhục Chi và Mông Cổ, tràn vào Hoa Bắc (xin xem chương Hoa chủng), chớ không phải là Họ.
Tưởng một lần nữa, nên dịch ra tiếng Pháp:
Gia tộc = Famille
Đại gia tộc = Clan
Hậu = Grand Clan
Thị tộc = Nom du Clan (giữa thị và tộc, không có gạch nối liền và nếu viết Thị Chi Tộc thì chắc sự ngộ nhận đã không xảy ra).
Không nên lầm lẫn Tánh Khương nầy với một dân tộc tự xưng là Khơ Me và được Tàu phiên âm là rợ Khương. Khương (Khơ Me) là một chi của Đại Chủng Mã Lai nó gồm bốn chi: Lê, Lạc, Khương, và Khuyển Nhung, tức Môn về sau nầy.
(Chính Cố Viêm Vũ đã lầm mà tưởng Thị tộc là danh từ chỉ một cộng đồng. Thị tộc là một đoạn câu có nghĩa là Nom du Clan, chớ không phải là Clan).
Thật ra thì Thị và Tánh chỉ là một, và tại sao Tánh ra đời, Thị biến mất thì chúng tôi đã vừa giải thích, cả hai đều có nghĩa là Họ.
Vua Thần Nông, đã thấy là huyền thoại, nó chỉ là một nhóm người chớ không phải một nhơn vật có thật, thì những gì phụ thuộc với cá nhân huyền hoặc ấy đều là chuyện bịa, có thể có Thần Nông thị, nhưng không có Tánh Khương. Thị và Tánh chỉ tồn tại song song nhau dưới đời Chu, chớ trước đời Chu, chưa có Tánh, bằng chứng thấy rõ trong Xuân Thu. Còn sau đời Chu thì đã hết Thị.
*
* *
Sử Tàu chép rằng vào cổ thời họ có hàng vạn hậu, khiến không ai tin cả, kể cả người Tàu. Nhưng họ không tin vì họ hiểu lầm rằng hậu là chư hầu, chớ nếu họ biết hậu chỉ là Đại Tộc thì họ phải tin, vì một nước nhỏ hơn vẫn có hàng ngàn tộc kia mà.
Và hễ có bao nhiêu tộc là có bấy nhiêu Thị tộc, tức tên của bấy nhiêu tộc ấy. Và Thị là danh từ mà Việt Nam nói là Họ.
Và xin nhấn mạnh một lần nữa là Thị tộc không phải là Clan mà là Nom du Clan.
Cũng xin nhấn mạnh nữa về một vấn đề Việt Nam là Quan Lang không phải là tên một chức quan nào mà là cả một câu nói tắt (périphrase), có nghĩa là Viên quan cầm đầu một cái Lang. Cái Lang đó do T’lang mà ra và biến thành làng về sau trong xã hội Việt Nam. Ban đầu nó có nghĩa là thái ấp nhỏ tự trị.
*
* *
Nhưng tại sao ngày nay ở Trung Hoa chỉ còn có mấy trăm họ mà thôi? (Chữ Bá trong Bá tánh của Tàu, không phải luôn luôn có nghĩa là một trăm. Nó có thể ít hơn một trăm như Bách Việt, nó cũng có thể nhiều hơn một trăm như bá tánh).
Đây là một câu hỏi quan trọng và câu trả lời còn quan trọng hơn, nó cho ta biết ngay rằng ta không làm sao mà là người Tàu được hết.
Sở dĩ số họ giảm đi là vì sự kiện tuyệt tự của các họ.
Các Họ cứ kế tiếp nhau mà tàn lụn mà không ai cần sáng tác thêm Họ mới, bởi không còn cần thiết nữa vì ba lẽ:
1.- Đất đai đã được khẩn hoang hết cả rồi, không còn nhóm nào có thể tách riêng ra được để lấy Tánh khác. Họ đành chen chúc với nhau ở vùng đất cũ với tánh cũ.
Hơn thế các thị trấn lớn đã bắt đầu thành hình dưới thời Chiến quốc khi mà các chư hầu lớn mạnh hơn, xây thành to. Ở đó sự chen chúc còn kinh khủng hơn là ở nông thôn nữa.
2.- Nếu thay đổi họ vì lý do chánh trị, người ta cũng lấy họ sẵn có chớ không sáng tác, bởi lấy tên đất không được vì đã hết đất trồng rồi, mà lấy tên chuyên môn mới cũng không xong vì tên chuyên môn mới lạ, dễ bị tình nghi hơn là tên chuyên cũ là Mã của dòng Mã Viện chẳng hạn. Vả lại, xem đi xem lại thì cũng chẳng có nghề nào khác hơn là những nghề cũ.
3. Bài toán tránh kết hôn đồng tộc cũng càng ngày càng được giải quyết dễ dàng, trong làng không có con gái khác họ thì sang làng khác cưới vợ, làng khác không có thì sang huyện khác, tỉnh khác, sang tận Tân Gia Ga và Da Kạc Ta được quá dễ dàng thì vài trăm họ là đủ lắm rồi và một ngàn năm nữa chỉ sẽ còn có vài mươi họ mà thôi.
*
* *
Dân Lạc Việt có họ hay không?
Theo nghiên cứu của ông Chéon thì người Mường, đồng bào cổ sơ của ta, còn giữ được vài họ tối cổ là họ Ai, họ Kem, họ Khói, họ Sa, họ Xa, v.v. hoàn toàn không phải là họ Trung Hoa.
Chắc xưa kia phải có nhiều họ hơn, nhưng vì chịu ảnh hưởng Việt, nên đa số lấy họ Việt, mà họ Việt đích thị là họ của Tàu, vì chịu ảnh hưởng Tàu.
Cái họ Sa trên đây thấy rất thường trong xã hội Chàm và Mã Lai Nam Dương mà ta đã phiên âm khác, nhưng nó là Sa đấy. Thí dụ Sa Đẩu, châu Sa Lý, bãi Sa Hoàng. Sa là tiếng mà Mã Lai đợt II có nghĩa là Một, lại có nghĩa bóng là “Số Dzách”, “Năm Bờ Oanh”, Vang danh. Có lẽ đó là họ của cấp lãnh đạo của người Mường và của nhiều xã hội Mã Lai đợt II khác.
Nhưng ta là Mã Lai đợt I, chắc họ của ta phải khác, nhưng không còn dấu vết vì ta đã hợp tác với Tàu, toàn dân lấy họ Trung Hoa hết cả rồi, không như người Mường họ còn giữ được cái gì, bởi họ bất hợp tác, không chịu ảnh hưởng Tàu như ta.
Theo Tscheppe thì Phu Sai, Hạp Lư, Câu Tiễn, toàn là họ Việt phiên âm chớ không phải họ Tàu. Đó là Việt Mã Lai đợt II, đồng nhóm với họ Sa, họ Khói, vì như đã nói, ta là Mã Lai đợt I, ở Hoa Bắc, có thể mang họ khác hơn.
Nghiên cứu của ông Chéon, được bằng chứng nầy xác nhận là danh từ Họ của ta là danh từ Việt thuần túy, chớ không phải là danh từ Hán Việt. Nếu ta không có Họ, sao ta lại có danh từ ấy?
Và sự kiện Lạc Việt có Họ đính chánh mạnh mẽ sự xuyên tạc của sử Tàu cho rằng ta không có luân thường, đợi họ dạy cho mới biết. Nhưng thật ra là tại ta ngộ nhận chớ chưa chắc họ đã xuyên tạc. Họ chỉ không xem luân thường của ta là luân thường, còn ta thì hiểu lầm rằng ta hoàn toàn không có gì hết.
Với lại ta đọc sử Tàu không kỹ, Mã Viện có nói rõ ràng rằng pháp luật của ta khác với pháp luật của Tàu 10 điều (thành ngữ Tàu: khác 10 điều có nghĩa cái gì cũng khác hết). Câu đó phải cho ta hiểu rằng ta đã có pháp luật, mà một dân tộc đã có pháp luật là một dân tộc không còn man di nữa.
*
* *
Trong “V.N.V.M.S.C.” ông Lê Văn Siêu viết rằng sau cuộc tàn sát của Mã Viện thì ở xứ ta không còn những họ Trưng, họ Thi, họ Chữ, họ Hùng, họ Thục.
Những cái mà ông Lê Văn Siêu gọi là Họ, thật ra không phải là Họ. Chử Đồng Tử có nghĩa là “Thằng bé ở bãi sông Chử”, chớ không phải là người ấy họ Chử.
Còn họ Thi thì sử gia Nguyễn Phương đã đưa tài liệu cổ chứng minh rằng cổ sử chép thiếu họ của ông ấy, và Thi chỉ là tên, còn Sách có nghĩa là cưới vợ. Vả lại họ Thi cũng chỉ là họ của Tàu. Bà vợ giữa của ông Khúc Lương Ngột mang họ Thi đấy, trước khi ông Khúc lấy mẹ của Khổng Tử mang họ Nhan. Còn họ Thục thì chỉ là lầm lẫn của sử gia ta (xin xem chương Cổ Thục), chớ không có họ Thục bao giờ.
Họ Hùng thì còn khả nghi hơn. Nếu quả có Hùng Vương thì đó là Vương hiệu. Trên đền Hùng, có bia đề “Đột ngột cao sơn cổ Việt Hùng thị”. Nhưng bia chữ nho nên khó hiểu cho rõ được cái gì. Nếu là Cổ Việt Hùng Thị nghĩa là Thị tộc Việt Hùng đời xưa. Bằng như là Cổ Việt Hùng Thị thì mới là Họ Hùng của nước Việt thời cổ. Không chắc gì hết về cái họ Hùng ấy, Hùng Vương chỉ có thể là Vương hiệu.
Còn họ Trưng? Có sách chép mẹ của Khổng Tử họ Nhan, có sách chép bà ấy họ Trưng. Dầu sao, chúng tôi cũng có thấy một người Tàu họ Trưng. Nhưng nếu Trưng Trắc mang họ Trung Hoa, cũng không có gì lạ. Trưng Trắc là con quan Lạc tướng một cấp cán bộ Lạc Việt đã hợp tác với Tàu từ thời Triệu Đà, thì rất có thể tổ tiên của bà chịu ảnh hưởng Trung Hoa, lấy họ Trung Hoa cho sang, cho vui vậy thôi.
Họ của ta nay, toàn là Họ của Trung Hoa, nhưng không biết ta tự ý theo phong tục của họ về phương diện lấy Họ, hay bị bắt ép. Có lẽ là bị bắt ép, nhưng chắc không phải vì nỗ lực đồng hóa của họ, mà vì muốn tiện lợi việc kiểm tra dân số mà Mã Viện đã thực hiện sau khi diệt hai bà Trưng. Người Tây Khương thành Tàu rồi mà còn được phép lấy họ theo phương pháp Cao Miên thì chắc là Tàu bắt ta lấy họ Trung Hoa vì mục đích khác hơn là mục đích đồng hóa. Đành rằng họ cũng có đồng hóa nhưng với các phương pháp khác.
Với người Cao Miên, vua chúa ta chỉ ngộ nhận, chớ cũng không phải muốn đồng hóa bằng phương pháp đó. Còn với người Chàm thì vua chúa ta có mục đích nào, thật khó mà biết.
Nỗ lực đồng hóa “man di” rất cần thiết dưới các trào Hạ, Thương, Chu nhưng lại bị chê dưới trào Hán. Xưa, dân số ít, mà các chư hầu cần người để thôn tính lẫn nhau thì họ mới ráng đồng hóa cho có người để dùng. Vả thuở ấy Trung Hoa chưa hơn “Man di” bao nhiêu về mặt văn minh.
Tới đời Hán, ta thấy Giả Quyên Chi tâu xin vua Hán bỏ ý định chinh phục man di vì cái lẽ man di không xứng đáng làm người Tàu (?)
Dân họ đã đông rồi, họ lại thống nhứt rồi, không cần người cho lắm nữa. Hơn thế văn hóa họ đã lên quá cao, khiến họ ngao ngán cho sự cách biệt, khó lòng mà thành công trong sự đồng hóa.
Dưới đời Tự Đức, thấy có chiếu bãi bỏ sự bắt người Chàm lấy họ Việt, tức xưa kia đã có luật ấy, nhưng không rõ thâm ý của luật đó thế nào.
Nhưng có một sự thật nầy mà không ai biết là người Chàm đã tự động lấy họ Trung Hoa trước khi ta bị xâm lăng. Mà như thế thì cái họ Trung Hoa mà họ mang ngày nay, chưa chắc đã do vua chúa ta bắt ép.
Những họ Tàu mà người Chàm Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay đang mang, toàn là họ Tàu mà Việt Nam rất ít theo, như họ Từ, họ Đồng, họ Bá, họ Bảo, họ Đàng, v.v.
Ta cũng lấy họ Tàu, nhưng lấy những họ khác hơn. Đành rằng cũng có người Việt họ Từ, nhưng rất hiếm.
Về cái Họ của người Chàm, cũng cần biết thật rõ.
Vài nhà học giả ta và Tàu cho rằng những Phạm Văn, Phạm Dương Mại của Chàm buổi đầu mà họ còn lấy tên nước là Lâm Ấp thật ra không phải là Phạm, mà chỉ là Brahma của Ấn Độ phiên âm ra như vậy. Đó là một lối hiểu độc đáo để nghe cho có vẻ uy tín vì biết nhiều, nhưng không đúng. Phạn ngữ có ba danh từ như sau:
1. Brahman, có nghĩa là Thái Cực, Vô Vi, y hệt như của Tàu.
2. Brahma, mà Tàu dịch là Phạm Thiên, tức là trời của Ấn.
3. Brahmane, tức là người của giai cấp giáo sĩ Bà La Môn.
Hai danh từ đầu thì loài người không được chạm đến. Danh từ thứ ba thì chỉ có giai cấp giáo sĩ đó mới được lấy, còn nhà vua (kể cả vua Ấn Độ) cũng không được lấy. Vua Ấn Độ chỉ thuộc giai cấp hạng nhì trong nước Ấn, là giai cấp Kshatriays mà thôi và vua Phù Nam, vua Lâm Ấp là vua học trò của họ mà làm gì trèo đèo lấy danh từ thứ ba đó để làm Vương hiệu?
Vả lại đọc cổ thạch bia của họ, cũng chỉ thấy họ tự xưng là Varman, chớ không hề có ông nào dám tự xưng là Brahma bao giờ hết, bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào, mà vua Ấn Độ cũng không có ông nào dám tự xưng là Brahma hết. Mà Varman thì không hề được Tàu phiên âm là Phạm.
Thế thì những họ Phạm ấy là họ Tàu thực sự, nhưng chính các ông Tàu lại giải thích rằng Phạm đó là Brahmane vì các ông không biết gì hết về cổ thời của Hoa Nam và của Chàm: dưới các đời Hán, Tần, người Tàu Hoa Nam vốn là Mã Lai đợt II, còn biết tiếng Mã Lai, và chính bọn ấy đưa văn hóa và các họ Tàu xuống hai nước Chiêm Thành và Phù Nam mà dân cũng nói tiếng Mã Lai đợt II.
Như đã nói, cho đến đời nhà Nguyên mà Hoa Bắc còn gọi Hoa Nam là man di, thì biết dưới các trào trước, Hoa Nam còn biết tiếng Mã Lai hay không.
Họ Phạm của Chàm là họ Phạm thật sự mượn của Tàu qua trung gian của tên gia nô Phạm Văn. Rồi Phù Nam, vì đồng chủng, đồng văn hóa với Chàm, cũng bắt chước theo, chớ Phù Nam không làm gì mà dám phạm thượng tự xưng như giai cấp Bà La Môn được.
Suy luận trên đây chỉ là suy luận, nhưng chúng tôi tin chắc rằng không ai mà bác nổi suy luận đó được hết.
Phải biết rằng Chàm là Mã Lai đợt II, mà vào đầu Tây lịch người Hoa Nam còn nguyên vẹn là Mã Lai đợt II chưa bị Hoa hóa. Giữa Chàm và Hoa Nam có sự liên lạc thường xuyên mật thiết, Mã Lai Hoa Nam, bị Hoa hóa, còn Chàm thì tự bắt chước theo là sự thường, không có gì là vô lý hết đâu vì họ đang kém, cần bắt chước một dân tộc văn minh.
Tài liệu chắc chắn là vào thế kỷ thứ III và IV của nước Chàm còn do dự giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ.
Rốt cuộc họ chọn văn hóa Ấn Độ, vì lẽ gì chúng tôi đã giải thích rồi.
Sử Tàu chép rằng tên gia nô Phạm Văn nầy là người Tô Châu, tức người Mã Lai Hoa Nam vừa bị Hoa hóa, nhưng chưa xong, vì là dân Hoa Nam, tức Mã Lai đợt II chưa bị Hoa hóa nên y mới làm cố vấn cho vua Chàm được, sử Tàu gọi y là gia nô, nhưng sự thật thì y là cố vấn.
Sư Thích Đại Sán trong quyển Hải ngoại kỷ sự có kể một câu chuyện xưa xảy ra ở Quảng Nam, câu chuyện một người phụ nữ Trung Hoa lấy chồng Chàm họ Từ.
Người ấy là chiến sĩ, đánh giặc với Việt Nam, tử trận trong một cuộc hải chiến.
Thế nghĩa là câu chuyện xảy ra thuở Quảng Nam còn là đất Đại Chiêm, tức mới lắm cũng vào khoảng năm 1000.
Hiện nay (1970) tại Bình Thuận và Ninh Thuận có rất đông người Chàm mang họ Từ. Ta cứ ngỡ là họ bắt chước ta, nhưng bằng vào câu chuyện của Thích Đại Sán thì họ đã lấy họ Từ từ thuở họ còn độc lập.
Lại còn Ông Ích Khiêm nữa. Ông Ích Khiêm là người Chàm phục vụ cho vua Lê chúa Trịnh. Nhưng họ ÔNG là một họ rất hiếm có của Tàu mà Việt Nam không có mượn. Thế nghĩa là dòng họ Ông Ích Khiêm đã mượn thẳng cái họ ÔNG của Tàu.
Thế thì mặc dầu chọn văn hóa Ấn Độ, họ vẫn lấy phần nào văn hóa Tàu.
Về cái Họ thì không chắc là họ chỉ vay mượn suông, mà có lẽ do hôn nhơn.
Câu chuyện của nhà sư Thích Đại Sán là câu chuyện hôn nhơn giữa một người đàn ông Chàm và một người đàn bà Tàu. Đây là một sự lạ, vì phụ nữ Trung Hoa chê ta man di, không lấy ta làm chồng, nhưng lại không chê đàn ông Chàm. Chuyện đó có thể đúng sự thật vì người Chàm theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ có nhiều quyền, thì họ lấy chồng Chàm vì quyền lợi.
Hơn thế trong xã hội Chàm có giai cấp mà giai cấp chiến sĩ là giai cấp hạng nhì, ngang hàng với giai cấp của nhà vua, chỉ kém giai cấp Bà La Môn có một bực. Thế thì lấy chồng chiến sĩ Chàm là lấy quý tộc Chàm vậy.
Và vì theo mẫu hệ, con cái lấy họ mẹ là họ Trung Hoa. Không có vay mượn ở toàn quốc vì còn người Chàm mang họ Chàm, nhưng vẫn có người mang họ Tàu là vì bà mẹ là người Tàu, sự kiện đó xảy ra trước khi họ bị ta xâm lăng.
Còn một lý do nữa khiến phụ nữ Tàu lấy chồng Chàm rất dễ, mà chúng tôi đã nói rồi, lại phải nói nữa ở đây, và sẽ nói nữa ở một chương khác. Đó là một sự kiện không ai biết cả: Họ đồng ngôn ngữ với nhau, vào thuở đó. Đây là một tiết lộ làm ngẩn ngơ người đọc sử vì ai cũng biết Chàm là Mã Lai, sao lại đồng ngôn với Tàu. Nhưng sự thật là thế.
Trước hết người đàn bà mà Thích Đại Sán nói đến là người Mân, mà người Mân là Lạc bộ Mã cho đến đời Tống, còn bị Hoa Bắc gọi là Man di.
Chính bọn Lạc bộ Mã là Mã Lai đợt II đấy và là Chàm đấy.
Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên, tả thổ trước Hải Nam giống hệt dân Nhựt Nam. Nay chúng tôi học ngôn ngữ của người Lê Hải Nam thì thấy họ nói giống hệt người Mân. Mặt khác, chúng tôi còn chứng minh rằng vào cổ thời Nhật Nam tuy là đất của ta, nhưng dân thì khác, đó là dân Lạc Lồi, Mã Lai đợt II.
Vậy hồi cổ thời thì Thất Mân và Chàm đồng ngôn ngữ với nhau, và hẳn cuộc hợp chủng giữa Mân đang bị Hoa hóa và Chàm phải lớn lao lắm.
Danh từ Con người của Chàm và Mã Lai Nam Dương là Orang, và của Thất Mân là Nang, Náng và Nàng, tùy theo nhóm Mân. Chịu ảnh hưởng Tàu, họ bỏ mất âm R và độc âm hóa danh từ Orang, và của Thất Mân là Nang, Náng và Nàng. Nhưng chỉ mới đây thôi chớ xưa, họ vẫn nói Orang y hệt như Chàm.
Thế nên người Tàu di cư đi các xứ Mã Lai, đa số là người Phúc Kiến. Có thể nói Tân Gia Ba là một quốc gia Phúc Kiến.
Người Chàm tuy theo văn minh Ấn, nhưng lại thân thuộc với người Tàu hơn. Sử của họ và sử của ta đều chép rằng năm 981 một người Việt kiều ở đất Chàm tên là Lưu Kỳ Tông, nổi loạn cướp ngôi vua Chàm rồi cai trị rất hà khắc, vì thế mà có rất đông người Chàm bỏ nước di cư sang Quảng Đông và Hải Nam.
Đành rằng Quảng Đông gần hơn Ấn Độ, nhưng kẻ di cư đâu có ngán đường xa mà chỉ tìm sự gần gũi về tình cảm hoặc về thói ăn nếp ở mà thôi.
Chúng tôi nói Quảng Đông là Âu chớ không phải Lạc. Nhưng có một vùng Quảng Đông, vùng Hợp Phố, Đông Hưng, Móng Cái thì dân là Lạc Lê nói y như Hải Nam, tức y như Chàm. Thế thì Chàm chạy sang Quảng Đông và Hải Nam là chạy đúng đường.
Ngay trong huyền thoại về nguồn gốc dân tộc Chiêm cũng đã có chuyện bà chúa tổ của họ, PôNưgar, lấy chồng Tàu có con với ông chồng ấy rồi, thì chuyện Ông Ích Khiêm và câu chuyện của Thích Đại Sán kể, là chuyện về sau, hô đã làm như vậy rồi từ hàng ngàn năm trước đó nữa.
Cái thứ Tàu mà huyền thoại Chàm nói đến là dân Hoa Nam tức Mã Lai đợt II bị đồng hóa chưa xong, chớ không phải là Tàu thật.
Vậy chiếu của vua Tự Đức, e là một sự ngộ nhận của nhà vua chăng, thấy người Chàm lấy cái Họ giống ta, ngỡ các tiên vương có bắt ép, chớ không dè rằng chính họ đã tự động làm như thế trước khi ta chiếm đất của họ, trước hàng ngàn năm.
Một nhà trí thức Chàm có cho chúng tôi biết rằng ông Ngô Đình Nhu đã bắt ép ông ấy lấy họ Việt. Chúng tôi tin nhà trí thức đó, nhưng không tin rằng đời xưa có sự bắt ép nói trên vì không ai thấy cái chiếu bắt ép bao giờ cả, chỉ thấy chiếu bãi bỏ. Mà đừng tưởng rằng chiếu bắt ép, vì lâu đời, nên không được ghi. Cái chiếu cấm đàn ông ta lấy vợ Chàm có từ đời nhà Trần mà còn được ghi chép kia mà.
Nhưng nếu quả tiên vương của Tự Đức có bắt ép thì ông tiên vương đó cũng làm một chuyện thừa, vì chính người Chàm đã tự động lấy họ Tàu hàng ngàn năm trước đó.
Và đây cũng là một vấn đề cần không ngộ nhận. Có chiếu cấm đàn ông Việt lấy vợ Chàm, nhưng không bao giờ có chiếu cấm đàn bà Việt lấy chồng Chàm.
Người Chàm theo mẫu hệ, hễ đàn ông ta lấy vợ Chàm là con cái mất họ luôn không tế tự tổ tiên được, mà đó là sự kiện đụng chạm mạnh vào tôn giáo chánh của ta. Còn đàn bà Việt lấy chồng Chàm thì không sao cả, nên không có chiếu cấm.
Thấy rõ là vua chúa ta xưa không đến nỗi làm việc vô lý lắm, cái nào cần mới phải săn sóc đến còn không thì thôi, chớ không có kỳ thị chủng tộc.
Và nội cái sự kiện đàn bà Việt được phép lấy chồng Chàm cũng đủ đưa họ Việt vào xã hội Chàm rồi, không cần phải có chiếu bắt ép lấy họ nào nữa cả.
Quả thật thế, dân Việt thuở ấy đang thủ vai thống trị thì lấy vợ Việt rất có lợi. Những cuộc hôn nhơn Việt Chàm hẳn phải xảy ra rất đông đảo không thể tưởng tượng được. Ta thừa gái còn họ thì không có tục đa thê vào thời cổ thì lấy chồng Chàm, phụ nữ ta cũng có lợi. Cả hai bên đều được lợi thì lẽ dĩ nhiên là họ Việt đi vào xã hội Chàm rất mạnh mẽ, vì con lai theo họ Việt.
Việc cấm đoán đàn ông Việt lấy vợ Chàm là có lý do tôn giáo chớ hoàn toàn không vì tinh thần kỳ thị chủng tộc, bằng chứng là phụ nữ ta được phép lấy chồng Chàm.
Có một điều nầy khiến ta bối rối lắm là tại sao đa số dân Việt Nam lại mang họ Nguyễn, Trần, Lê, Phan, Phạm, còn những người mang họ Nghiêm, họ Vi, họ Hạ, họ Cù, họ Tô, họ Ông, họ Hứa, họ Ung, v.v. thì quá ít?
Có người nói rằng năm họ trên vốn là họ vua, nên dân ta cải họ theo, vì cái lẽ thấy sang, bắt quàng làm họ. Nhưng họ Phan và họ Phạm có làm vua bao giờ đâu? Còn họ vua Nguyễn thì rất bị người Bắc Hà không ưa, thế mà ở Bắc cũng quá đông họ Nguyễn.
Có lẽ đó là năm họ của đa số bần cố nông Trung Hoa mà người Tàu đô hộ đã bố thí cho toàn dân Lạc Việt, còn những họ kia, gốc trưởng giả hay quý tộc nên họ không ban cho ta. Ai mang những họ trưởng giả hoặc quý tộc đó là Tàu lai hồi đời xưa chăng? Ức thuyết trên đây, chắc không làm mích lòng những ông mang họ Nguyễn, họ Trần đâu, bởi nếu ức thuyết ấy đúng thì chính họ mới là người Việt thuần chủng đấy, bị bắt ép lấy họ của nông nô Trung Hoa, nhưng nạn nhân của sự cưỡng bách đó, không phải là người hèn. Họ là dân Lạc Việt chính gốc, chỉ có thế thôi.
Giả thuyết trên đây không hoàn toàn vô căn cứ, quả người Tàu đã phân biệt giai cấp ngay trong xã hội. Sử ta chép rằng Lý Bôn có tướng tên là Tinh Thiều. Tinh Thiều là người Tàu, học rất giỏi đã thi đậu cao nhưng không được làm quan to (ở bên Tàu) vì họ Tinh là họ bần cố nông chưa hề làm trí thức Trung Hoa bao giờ. Vì thế mà Tinh Thiều bất mãn đi đầu Lý Bôn ở Giao Chỉ để nổi loạn chống Tàu. Quả thật thế, qua lịch sử Trung Hoa ta không hề thấy họ Tinh, Nguyễn, Trần, Phan, Phạm trở thành danh nhân của Tàu bao giờ như các họ khác: Lý Thái Bạch, Đỗ Phủ, Triệu Khuôn Dẫn, Hồng Tú Toàn, Tô Đông Pha, v.v.
Hiện nay, trong lãnh thổ Việt Nam, người mình mang gần hai trăm Họ. Họ nào cũng là họ của Trung Hoa cả. Tuy nhiên, những họ thường thấy thì không trên 20.
A. Những họ quá phổ cập:
Trần – Lê – Nguyễn
B. Những họ thường thấy:
Bùi, Chu (Châu), Cao, Dương, Đào, Đặng, Đình, Đỗ, Hà, Hồ, Huỳnh (Hoàng), Lý, Lưu, Lương, Lâm, Mai, Ngô, Phạm, Phan, Tạ, Tô, Thái, Trịnh, Triệu, Trương, Võ (Vũ).
C. Những họ ít thấy nhưng vẫn có trong xã hội ta:
An, Ấn, Âu, Bàng, Bành, Bì, Bồ, Cam, Cô, Cố, Cổ, Công, Cù, Cung, Chim, Du, Dư, Doãn, Diệp, Đái (Đói), Đàm, Đàn, Đan (Đơn), Đặng, Đình, Điền, Điều, Đường, Đồng, Đổng, Độ, Giang, Giảng, Giới, Hạ, Hàm, Hàn, Hồng, Hoa, Hứa, Hầu, Kha, Khổng, Khưu, Khúc, Khương, La, Lạc, Lai, Lại, Lao, Liêu, Liễu, Linh, Lư, Lữ, Lục, Lôi, Lỗ, Mã, Mạc, Mao, Mạch, Mạnh, Mịch, Mông, Nùng , Nhan, Nghiêm, Ngụy, Nhâm, Ông, Ôn, Phàn, Phó, Phụ, Phù, Phục, Phương, Quách, Quang, Quảng, Sa, Sài, Sái, Sầm, Sinh, Song, Sùng, Sơn, Tân, Tăng, Tôn, Tống, Từ, Tự, Thạch, Thẩm, Thân, Thì, Thôi, Thống, Thượng, Trang, Trầm, Trâu, Tri, Trịnh, Trinh, Trung, Ưng, Vương, Vi, Yên.
*
* *
Và xin nhắc lại rằng sự kiện ta mang họ Trung Hoa không hề có nghĩa rằng ta là người Trung Hoa thuần chủng hoặc lai căn.
Ta cũng nên hiểu rõ hơn, câu sử của Tư Mã Thiên. Họ Tư Mã cho rằng dân nước Sở và dân nước Việt đều là dân Việt cả, chỉ khác là dân nước Việt họ Tự, dân nước Sở họ Mị.
Đó chỉ là một lối nói của người Tàu đời xưa mà thôi. Ý của soạn giả Sử Ký muốn nói rằng cấp lãnh đạo của họ, mang cái Họ đó, chớ không phải là toàn dân. Chúng tôi đã kể chuyện ông tổ của họ Hùng nước Sở, xưa kia mang họ Mị, ở đầu chương nầy. Nếu dân Việt ở Kinh Nam không có Họ mà chỉ theo họ của Trung Hoa vẫn không thể có việc cả toàn dân mấy chục triệu người đều chỉ vay mượn một họ độc nhứt, rồi làm sao mà kết hôn với nhau, với nền luân lý chặt chẽ của Tàu?
Hồi cổ thời thì quả có như thế trong một thái ấp nhỏ, thái ấp đó đặt ra chỉ là một Thị tộc được phát triển ra, và dĩ nhiên bao nhiêu người trong thái ấp đều lấy họ chung. Nhưng thái ấp chỉ đông tối đa là một ngàn người, còn nước Sở thì đông đến mười triệu, không thể toàn quốc đều mang một họ được.
*
* *
Về cái chữ Thị mà giáo sư Kim Định bảo là tàng tích của Mẫu hệ và đó là đàn bà thì hoàn toàn sai. Ta chỉ mới dùng Thị để làm chữ lót đặt tên cho con gái về sau nầy mà thôi, chớ Tàu không có làm như vậy bao giờ, mà thuở xưa, hơn nhiều trăm năm bị Tàu đô hộ, ta cũng chưa làm thế bao giờ.
Thị của Tàu hồi xưa chỉ có nghĩa là Tánh là Họ, chớ không bao giờ chỉ đàn bà, không bao giờ là dấu hiệu của mẫu hệ.
Đọc sách Tàu xưa, ta thấy toàn những Muội Hỷ, những Tô Đắc Kỷ, những Phàn Lê Huê, những Lưu Kim Đính, chớ không bao giờ thấy Dư Thị Liên, Hứa Thị Nguyệt bao giờ.
Đã bảo Thị là tên của một tộc (nom du clan) thì mẫu hệ, phụ hệ gì cũng là thị cả, như Lã Thị Xuân Thu, đâu phải là sách của cô Lã thị mà là của ông họ Lã đấy chứ.
Theo văn hóa Trung Hoa rồi, lâu lắm, về sau thì chính riêng ta mới dùng chữ Thị để làm chữ lót cho phụ nữ, mà cũng chỉ trong các gia đình ít chữ nghĩa, hoặc tánh tình quá khiêm nhượng mà thôi, chớ phần đông đã cũng làm y hệt như Tàu.
Về phụ nữ thì cũng Lưu Lê Ngọc, Lý Vân Mộng, hoặc đặc biệt hơn nữa thì bao nhiêu con gái đều trùng tên cả, chỉ phân biệt nhau bằng chữ lót y hệt như Tàu.
Thí dụ ở Saigon có một gia đình Việt Hoa đẻ ba cô con gái mang tên như thế nầy:
Hà Kim Liên
Hà Bích Liên
Hà Phượng Liên
Về con trai thì ta có làm khác Tàu đôi chút. Ta lấy chữ lót để làm họ ghép, thí dụ họ Ngô Định chớ không phải họ Ngô, trong khi đó thì con trai của ông Tưởng Giới Thạch không mang tên họ là Tưởng Giới Quốc mà là Tưởng Kinh Quốc.
*
* *
Ở Âu châu không có thời kỳ lãnh chúa khủng bố và tiêu diệt Thị tộc, nên cái họ của họ quá nhiều. Họ có hàng mười vạn họ trong một quốc gia nhỏ bé như nước Pháp chẳng hạn.
Vì thế mà họ mới lập ra cái luật hễ con không cha, thì không có họ nào hết vì ông ngoại đứa bé họ Dufresne không chấp nhận đứa bé ấy vào gia đình, vì họ của ông ta đặc biệt quá, nhận vào là người ta thấy ngay.
Bên ta, phía ngoại có muốn thế cũng không được bởi có hàng triệu người họ Nguyễn thì coi bộ người đời không làm sao kiểm soát được, thành thử luật chúng ta thì con không cha, phải mang họ mẹ.
Ở Âu châu, gái chửa hoang là cả một thảm kịch, vì đứa bé không có họ ấy lớn lên, bị xã hội khinh rẻ. Có những anh lính thủy chỉ tên là André mà thôi, không có họ gì cả.
Nhưng sau, có con, anh ta đặt tên là André Paul, xem tên anh như là cái họ. Nên ta mới thấy những nhà bác học tên là Maurice Jacques, tuy là có cha, có họ, nhưng cũng chỉ là hai tên ghép lại với nhau mà thôi.
Bên Tàu thì còn khác Tây và ta nữa. Người cha nhìn nhận hay không, bà mẹ cứ cho nó mang họ cha như thường, vì bên ấy không có bộ đời, ai muốn làm gì mặc ý.
*
* *
Ta đã thấy là một họ không thể tồn tại mãi, vì cái nạn tuyệt tự. Vậy vài ngàn năm sau, thì một vấn đề lớn sẽ được đặt ra cho các nước theo họ Trung Hoa, khi mà số họ sụt xuống còn có vài chục, việc kết hôn hóa ra khó khăn. Tuy nhiên, riêng trong xã hội ta thì người ta xí xóa cho cả từ lâu rồi. Đọc báo ta thường thấy tin mừng cậu Lê Văn Hai kết duyên cùng cô Lê Thị Ba, v.v. mà dư luận và luật pháp không hề cho đó là trái đạo, vì thật sự họ chẳng có bà con gì với nhau hết, ít lắm cũng từ 20 thế hệ rồi. Chỉ có những họ quá hiếm hoi, mới thấy là coi không được và cố tránh né mà thôi, chẳng hạn cậu Cù Thanh Xuân không dám cưới cô Cù Tuyết Lan, còn các họ khác thì thả cửa.
Sách tham khảo riêng cho chương nầy
Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thông chí
Dr. Huard Saurin, Nguyễn X. Huyên, Nguyễn Văn Đức : État actuel de la crâniologie Indochinoise, Hà Nội, 1931
M. Granet: La civilisation chinoise, Paris, 1920
H. Maspéro: La Chine antique, Paris, 1951
O. Jansé: Archaeological Rescarch in Indochina
P. Souron: Les noms de famille ou “Họ” chez les Annamites du delta Tonkinois, BEFEO, 1932
Phạm Việp: Hậu Hán Thư, Đài Loan
J. Cuisinier: Les Mương, géographie humaine et sociologie, Paris 1946
Nguyễn Bá Trác: Hoàng Việt Giáp Tý niên hiệu, Saigon
M.T.: Synchronisme chinois, Changhai, 1905
Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, bản dịch Nguyễn Phương
Ở Trung Hoa ngày nay họ Nguyễn rất hiếm
Họ Nùng hình như là họ mà ta bày ra cho người Nùng, chớ Trung Hoa không có họ đó.
Chương VIII. Thượng Việt, người Mường và Tô-tem Lạc Việt
Trong lãnh thổ ta có hai dân tộc chưa được khoa học biết đích xác, đó là Thượng Việt và người Mường, trong khi Lôlô, Mán Tiền, Mán Đại bản gì cũng được biết chắc họ thuộc chủng nào.
Ta cứ tưởng Thượng Việt gồm nhiều dân tộc: Sơ Đăng, Bà Na, Ra Đê, v.v. nhưng sự thật thì họ chỉ là các bộ lạc của một dân tộc độc nhứt, thế nên chúng tôi mới nói là có 2 dân tộc chưa được biết, mà trong đó có người Thượng. Không giải thích dài dòng, e sẽ bị cho là sai vì ai cũng tưởng trên Cao nguyên có hai ba chục dân tộc.
Ai cũng nóng lòng muốn biết hai dân tộc ấy thuộc chủng nào và đợt nào của chủng nào, nhưng chúng tôi phải đợi tới chương nầy mới đếm xỉa đến hai thứ đồng bào ấy được.
Chúng tôi gọi họ là đồng bào là gọi đúng 100% chớ không phải là mị dân đâu, vì khoa học đã nhìn nhận rằng đồng bào Thượng là Indonésien từ nửa thế kỷ nay, tại thiên hạ cứ ngỡ Anh Đô Nê là Mọi. Nay biết rằng Anh Đô Nê là Mã Lai, mà chúng tôi vừa chứng minh rằng Việt Nam là Mã Lai thì họ với ta là đồng bào rồi vậy.
Ta cần biết Thượng Việt ngày nay, xem họ là ai, có phải là Cao Miên như các ông Tây đã nói hay không?
Các ông Tây thấy danh từ của ai mà giống Cao Miên, đều cứ nhắm mắt nói càn là họ vay mượn của Cao Miên (như khi nói về ngôn ngữ Việt) hoặc họ là phụ chi của Cao Miên, chỉ vì các ông không biết chủng Mã Lai ở Đông Nam Á có 2 đợt, mà đợt I có ngôn ngữ giống nhau hết thảy. Các ông chỉ biết có Cao Miên và tôn Cao Miên làm bực thầy vì thấy Cao Miên có đền Angkor. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng không phải người Cao Miên đã xây cất đền Angkor đâu mà tưởng họ là thầy của tất cả.
Ngay trong các biểu đối chiếu, quý vị đã thấy rằng có rất nhiều danh từ mà Thượng và ta đều có, trong khi đó thì Cao Miên không có. Nhưng các biểu đối chiếu ấy không nói lên được gì cho nhiều. Phải biết trọn ngôn ngữ Cao Miên và Thượng, mới thấy rằng quả thật họ gần Việt Nam hơn Cao Miên, mà gần một cách lớn lao, to tát, trong khi giữa họ và Cao Miên không có núi cao, còn giữa họ và ta có Trường Sơn, thì họ là ai, đã rõ rồi.
Trên thế giới, chỉ có hai người Pháp là biết rằng Thượng Việt là Mã Lai chớ không phải Cao Miên (mặc dầu Cao Miên cũng là Mã Lai). Đó là hai ông Antoine Cabaton, giáo sư Mã ngữ tại Trường Ngôn ngữ Á Đông ở Ba Lê, và ông Louis Charles Damais, một nhà bác học về Mã Lai học. Nhưng ông thứ nhứt không được ai nghe, ông thứ nhì chưa kịp viết gì hết về người Thượng rồi qua đời năm 1966.
Ông A. Cabaton đã thấy rằng căn bản ngôn ngữ của người Thượng là Mã Lai ngữ, đã sắp loại nhóm Thượng nào bị Cao Miên hóa ít hay nhiều, bằng vào sự xâm nhập của danh từ Cao Miên vào ngôn ngữ của họ. Như vậy thì quá rõ, không hiểu sao mà ai cũng bất kể đến tác giả quyển tự điển Pháp - Chàm ấy hết.
Nhưng biết Thượng Việt là Mã Lai cũng chưa đủ, còn phải biết rằng họ là Mã Lai đợt I hay đợt II mới là chính xác hơn. Điều nầy thì ai cũng có thể biết bằng cách dựa vào ngôn ngữ. Người Gia Rai và người Ra Đê nhứt định là Mã Lai đợt II. Tất cả các nhóm khác là Mã Lai đợt I vì họ dùng danh từ Mã Lai đợt I mà có hai nhóm rất gần ta, gần khít nút là Khả Lá Vàng vì ta hiểu được một câu nói của họ, kế đó là người Mạ mà chúng tôi đã nghiên cứu loại từ Con và Cái được, nhờ ngôn ngữ của họ. Và điều thứ ba mà ta cần biết là bọn đợt I từ Trung Việt lên Cao nguyên, hay từ Cao Miên sang Cao nguyên.
Nếu chứng minh được điều đó thì các thuyết của Tây về Thượng Việt sai hết, các ông Tây cho rằng Thượng Việt là một phụ chủng Cao Miên, mà như vậy, họ phải từ Cao Miên sang Cao nguyên.
Chứng minh được điều đó thì cổ sử Chiêm Thành sẽ rõ ràng hơn. Người Chiêm Thành, cứ bằng vào ngôn ngữ của họ, là Mã Lai hỗn hợp y hệt như Việt Nam. Nhưng yếu tố Mã Lai đợt I do đâu mà có, phải chăng là họ đến sau, đánh đuổi người Thượng lên Cao nguyên, nhưng đánh đuổi không hết, vì thế nên vốn là Mã Lai đợt II, họ lại dùng đến 30 phần trăm danh từ của Mã Lai đợt I, chính vì chủ của đất cũ là Thượng Việt không đi hết mà có ở lại để sống chung với họ, biến thành Chàm.
Cổ sử Chiêm Thành không được các ông Tây biết rõ, họ nói rất sai là người Chàm từ vùng Đa Đảo di cư tới Trung Việt trong khi người Chàm chỉ ở Hoa Nam, tới Trung Việt một lượt với người Mường tới Bắc Việt.
Bằng chứng mà chúng tôi đưa ra là danh từ Đàn Bà.
Đa Đảo: Wahinê
Mã Lai: Wanita
Chàm: Càmay
Việt: Mái, Cái :
Nếu Chàm là Đa Đảo, họ đã nói Wanita hoặc Whinê, chớ không làm sao mà nói Càmay được. Ngôn ngữ Đa Đảo chỉ là Mã Lai đợt II + ngôn ngữ Mê-la-nê, trong khi đó thì Chàm ngữ là một phụ ngữ của Mã Lai đợt II, không có yếu tố Đa Đảo nào hết.
Khi viết sử cho Chiêm Thành thì các ông Tây chưa hay biết rằng có Mã Lai đợt I, đợt II gì cả, nên các ông rất mù mờ về buổi đầu của dân Chàm, không biết họ từ đâu đến Trung Việt, và đến vào thời nào.
Các ông nói đến thổ trước bị Chàm đánh đuổi chạy lên rừng, mà không biết thổ trước ấy là ai, tức là đoán mò rồi đây.
Chứng tích dưới đây cho thấy Thượng Việt là Mã Lai, chớ không phải Cao Miên, mặc dầu Cao Miên cũng là Mã Lai, nhưng Mã Lai loại khác, không thuộc loại di cư bằng đường biển.
Năm 1949, phu Công chánh đã đào gặp tại một công trường ở Darlac những cổ vật bằng đá mài đồng tuổi với cổ vật Bắc Sơn. Nhà tiền sử học A. Schaeffaer nhận diện được đó là một nhạc khí bằng đá mà âm thanh giống nhạc khí đồng của Mã Lai, và khác với nhạc khí bằng ngọc thạch của Tàu.
Đó là một bằng chứng Thượng Việt là Mã Lai đợt I vì Mã Lai đợt II chỉ mới tới khoảng 500 năm trước Tây lịch thì không sao mà có cổ vật 5.000 năm được.
Có thể nào mà họ từ Đông Ấn Độ sang Cao nguyên Việt Nam, trước Cao Miên chăng? Không. Cái bọn Mã Lai Lạc bộ Chuy không có chế tạo nhạc khí bằng đá. Và nếu người Thượng đã từ Đông Ấn Độ sang thì họ ở lại đất Cao Miên nay là đất phì nhiêu chớ không dại mà lên Cao nguyên ta là nơi khí hậu xấu, đất lại cũng không tốt gì. Đất của người Sơ Đăng, toàn đá núi, năm nào họ cũng đói kém nhiều tháng, họ không có điên dại mà không định cư ở Cao Miên nầy, đi tìm một sự khốn khổ như vậy. Họ cũng không thể bị Phù Nam hay Cao Miên đánh đuổi về sau vì họ rất giỏi và hiếu chiến, hai thứ dân kia, vào thuở ấy có bị họ đàn áp thì có chớ không thể bị họ đánh đuổi.
Đất Cao Miên xưa, tức Trung Lào, hay Cao Miên nay gì cũng phì nhiêu và có khí hậu tốt hơn đất Cao nguyên cả.
Vậy nếu họ là Cao Miên thì họ đã không sang Cao nguyên vì Cao Miên xưa hay nay gì cũng thừa đất chớ không thiếu đất tốt.
Bằng như họ cũng là bạn cùng đường với Cao Miên, chớ không là Cao Miên, họ cũng ở lại xứ Cao Miên với người Cao Miên vì người Cao Miên không có đánh đuổi họ, bằng chứng là người Pnong vẫn ở lại được trong lãnh thổ Cao Miên mà không bị đánh đuổi.
Tưởng lối suy luận của chúng tôi, khó lòng mà bác được, vì dân Cao Miên thuở xưa rất ít, họ chỉ van lạy người đồng chủng ở lại với họ để lập quốc, chớ không thể đánh đuổi ai hết.
Và ta cứ ngắm một người Thượng, bất cứ nhóm nào. Sơ Đăng, Ra Đê, Mạ mà xem, thì ta thấy rõ ràng là người Thượng rừng rú lại xinh đẹp hơn Cao Miên thị thành nhiều lắm. Sao phụ chi lại bảnh hơn chánh chi?
Ta chỉ có thể hiểu rằng người Thượng là Mã Lai đợt I di cư bằng đường biển, cùng lúc với ta và chiếm địa bàn Trung Việt vì địa bàn Bắc Việt đã bị ta chiếm rồi.
Sử Chiêm Thành nói rằng Chàm đã đánh đuổi thổ dân ở Trung Việt rồi lập quốc ở đó. Nhưng không có một ai mà biết thổ dân đó là ai cả, và rồi họ đi đâu.
Khi mà ta biết được rằng người Chàm là Mã Lai đợt II thì ta phải hiểu rằng thổ dân ấy là Thượng Việt, chớ không còn ai vào đó nữa cả.
Dựa vào nhạc khí thời Bắc Sơn ở Darlac, ta kết luận được rằng Thượng Việt làm chủ Trung Việt và Cao nguyên rất lâu đời, chớ không phải chỉ làm chủ Trung Việt mà thôi. Sở dĩ chưa tìm được dấu vết của Mã Lai đợt I ở Trung Việt vì các nhà đào bới Pháp, bận say mê đất Chiêm Thành, không có đào bới gì hết ở Trung Việt một cách đáng kể. Tuy nhiên, họ đã có gặp dấu vết Mã Lai đợt I ở lộ thiên mà không dè.
Đó là dấu vết Tam Tòa. Trạm Tam Tòa không thể là dấu tích của đợt II vì chỉ có đồ đá mài mà không có dụng cụ canh nông, cũng không thể là dấu tích của hai chủng Mê-la-nê và Nêgrito vì hai chủng đó một quá kém cỏi, trên thế giới, nơi nào họ cũng không tiến lên đá mài được, đó là chủng Négrito, còn chủng Mê-la-nê thì riêng ở Việt Nam, chưa tiến lên thời đại đá mài.
Chỉ có một nhóm người mới có thể là tác giả của những cổ vật Tam Tòa, đó là Mã Lai đợt I. Nhạc khí Darlac và đồ đá mài Tam Tòa, tuy chỉ là hai dấu vết nghèo nàn, nhưng đủ sức vẽ ra được lộ trình của Mã Lai đợt I.
Darlac là địa bàn của Mã Lai đợt I, nhưng ngày nay nó lại là địa bàn của người Ra Đê tức Mã Lai đợt II. Thấy quá rõ rằng Chàm, chẳng những đánh đuổi Mã Lai đợt I lên núi rừng, lại còn rượt theo họ nữa, và hai nhóm Ra Đê và Gia Rai là hai nhóm Mã Lai đợt II không lập quốc được như Chiêm Thành, vì ở núi rừng họ thiếu điều kiện hơn Chàm, nhưng thuở mới di cư đến Trung Việt thì Chàm, Ra Đê, Gia Rai đều có một nền văn minh giống nhau, đó là nền văn minh của Mã Lai đợt II vào buổi ấy mà có lẽ Ra Đê và Gia Rai còn giữ cho đến ngày nay, không thay đổi gì hết, đại khái biết nuôi gia súc, biết kim khí, biết trồng trọt, nhưng không giỏi lắm.
Ta có thể tưởng tượng rằng người Sơ Đăng bị Chàm đánh đuổi chạy lên Kontum qua nẻo Trà Mi, Ngọc Lĩnh. Đó là đường núi khó đi nên Mã Lai đợt II không có rượt theo họ. Bà Na thì chạy lên Cao nguyên, qua đèo An Khê mà hiện nay họ còn giữ đất, quanh An Khê.
Mã Lai đợt II rượt theo họ qua ngã Ninh Hòa, Cheo Reo, chiếm Phú Bổn, tràn qua Pleiku, lấn xuống Darlac.
Các nhóm Mã Lai đợt I khác như Mạ, Xi Tiêng, Kô Hô thì xem ra không phải là Trung Việt lên, mà từ Phù Nam lên, theo nghiên cứu về người Mạ của ông Bourotte và của riêng của chúng tôi: Nam Kỳ và Cao Miên nay cũng là đất của Mã Lai đợt I (với lưỡi rìu tay cầm) nhưng cũng bị bọn đợt II cướp lấy để dựng lên nước Phù Nam, dân Phù Nam có ngôn ngữ của Mã Lai đợt II, có trống đồng, như đã thấy và sẽ thấy, vì thế mà Mạ, Xi Tiêng, Kô Hô, Pnong mới phải chạy lên núi rừng, nhưng không đi ngay như Bà Na và Sơ Đăng mà chỉ mới chạy đi khi đế quốc Phù Nam tan rã, vì dân Phù Nam quá thưa, họ cần những hợp tác mà không đánh đuổi bọn đợt I.
Dân Sơ Đăng có lẽ chạy rất ít vì đường khó đi, và Bắc Chiêm Thành có ngôn ngữ gồm nhiều yếu tố Mã Lai đợt I hơn Nam Chiêm Thành. Trung tâm của nước Lâm Ấp, sau khi họ dựng nước chừng một trăm năm thì từ Thừa Thiên được xê dịch xuống Quảng Nam, vì ở đó dân chúng sinh tụ đông đảo, mà đông đảo là nhờ thổ trước còn ở lại rất đông.
Đây là chương mà chúng tôi có chứng tích rất ít ngoài nhạc khí Darlac và ngôn ngữ tỷ hiệu, một chứng tích mà khoa học chê. Nhưng thử hỏi tại sao họ cách biệt với ta bằng Trường Sơn mà danh từ của họ lại giống ta nhiều hơn là giống Cao Miên, trong khi đó giữa họ và Cao Miên không có núi cao đáng kể.
Nên biết đất Cao nguyên là đất dốc, phía cao ở chơn Trường Sơn, phía thấp ở bờ Cửu Long. Con người đi xuống đồng bằng chớ không từ đồng bằng lên núi rừng.
Họ không đi xuống mãi được vì họ không phải là Cao Miên nên bị Cao Miên không cho nhập cảnh.
Khoa học chê ngôn ngữ tỷ hiệu cũng có lý do vì có người sử dụng khoa đó không phải để kiểm soát lại những điều đã được biết chắc nhờ các khoa quan trọng hơn, mà để kết luận về những điều chưa được nghiên cứu, như trường hợp người Thượng Việt đây là một.
Khoa học chê là chê lối sử dụng, chớ nếu chỉ dùng để bổ túc cho những thiếu sót của khoa khảo tiền sử và chủng tộc học thì đã khác rồi.
Ông G. Coedès là người đã biết Thượng Việt và Cổ Mã Lai, lại đủ can đảm gọi họ là Dravidien, thế mà lại viết to rằng Thượng Việt là phụ chi của Cao Miên.
Nếu họ là phụ chi của ai thì họ phải là phụ chi của Lạc bộ Trãi, chớ không thể của Khơ Me. Cứ bằng vào lộ trình di cư của họ, không thể nào mà ta quan niệm được rằng họ là bạn đường của Munda và Môn, mà phải là bạn đường của Lạc Việt.
Lịch sử của Thượng Việt, trừ hai nhóm Ra Đê và Gia Rai, có thể viết được ở đại cương. Bằng vào nhạc khí Darlac, ta biết rằng họ có mặt ở Cao nguyên cả trước khi Mã Lai đợt I ở Trung Việt bị đánh đuổi lên đó, tức từ 5.000 năm rồi. Như vậy thì Lạc bộ Trãi không chỉ có ghé Cổ Việt như tiền sử học cho biết, mà có ghé khắm nơi ở Đông Pháp, mà chứng tích thấy được ở Darlac, ở Cao Miên hiện nay, ở Ai Lao, ở Biên Hòa, còn ở Trung Việt thì chưa thấy. Nhưng chưa thấy không có nghĩa là không có.
Ở Đông Pháp, họ gặp Lạc bộ Chuy (Môn) tại bắc Thái Lan và Cao Miên nay (người Thái Lan, mà cả người Khơ Me cũng chưa di cư tới). Nhưng ở đó họ không dựng nước được thì thật là khó hiểu vì đất Cao Miên nay là đất đủ điều kiện cho họ dựng nước. Nhưng chưa chắc họ đã không có nước, chỉ vì nước của họ xuất hiện trước khi Trung Hoa xuống đó, tức trước đời Hán, nên không ai biết đó thôi, còn bọn Mã Lai đợt II tới cướp đất của họ thì lại quá kém, không có sử để cho đời sau biết là họ đã diệt nước cũ nào. Nhưng bằng vào ngôn ngữ của họ ta bắt gặp được danh từ vua, chúa, thì ta suy đoán được là họ đã có nước.
Ta chỉ biết có bấy nhiêu đó thôi về họ, nhưng cũng đã là một cuộc khai quang Đông Nam Á mà trước đây ta hoàn toàn mù tịt về những gì xảy ra trước năm 1.
Nhưng về người Mường, ta biết rõ và chắc hơn nhiều, và xã hội Mường đã soi sáng thượng cổ sử ta, đó là cái may hy hữu mà một nhơn chứng của thời Hùng Vương còn sống sót, để cho ta biết Hùng Vương là ai, liên hệ thế nào với người Mường.
Cho đến nay, không ai biết người Mường đích xác là thứ người nào, một thứ dân nào đó còn kém mở mang, đã chịu ảnh hưởng của Việt rất nhiều, hoặc đó là dân Việt cổ thời, vì ở núi rừng, không bị Hoa hóa, nên còn giữ được nếp sống của thời Mã Viện?
Nhưng khoa ngôn ngữ tỷ hiệu cho ta biết thật đúng họ là ai.
Họ là bọn bổ sung cho dân của vua Hùng Vương, tức bọn Mã Lai đợt II, chớ không còn gì bí mật nữa hết.
Sống chung với nhau từ 2.500 năm nay, dĩ nhiên là cả hai đợt đều giống nhau, tuy nhiên người Mường còn giữ được thật đúng một số danh từ mà người Mã Lai Nam Dương đang nói.
Xin nói thật rõ về chỗ nầy. Chính người Việt Nam cũng đã dùng ít lắm là 40 phần trăm danh từ riêng của Mã Lai Nam Dương, cộng vào đó 40 phần trăm danh từ chung của hai đợt như Lá chẳng hạn.
Nhưng họ vẫn có 20 phần trăm danh từ riêng của đợt I mà Mã Lai Nam Dương tuyệt đối không biết.
Người Mường cũng giữ được lối 20 phần trăm danh từ của đợt II, tức của Mã Lai Nam Dương, mà Việt Nam tuyệt đối không biết.
Chúng tôi xin đơn cử ra hai danh từ Mường mà người Việt tuyệt đối không biết, mặc dầu một trong hai danh từ đó đã trở thành địa danh của ta.
Danh từ thứ nhứt là danh từ Tô của người Mường, Tô, trong ngôn ngữ của Mường là cây dâu tằm, mà Mã Lai Nam Dương thì nói là Pảtô.
Danh từ thứ nhì là danh từ Đuống, là lúa gạo.
Mã Lai Nam Dương: Pa-đi
Ra Đê: Pơ-đai
Gia Rai: Pơ-đai
Chàm: Pơ-đai
Mường: Pơ-đuông
Ngày nay thì người Mường nói Đuống, vì chịu ảnh hưởng đa thanh của đợt I, và bỏ Pơ, vì chịu ảnh hưởng độc âm của đợt I, chớ xưa họ nói Pơ-đuông.
Đuống trở thành tên của một con sông nhỏ ở Bắc Việt, có lẽ vào cổ thời là địa bàn định cư của bọn đợt II, nơi đó họ sản xuất Pơ-đuông.
(Danh từ nầy, Âu châu mượn của thổ dân châu Mỹ và biến thành Paddy. Và thổ dân châu Mỹ đích thị là Mã Lai Nam Dương di cư sang Mỹ).
Không bao giờ mà dân Việt Nam có dùng hai danh từ ấy trong ngôn ngữ của ta, chỉ trừ tên con sông mà ta không hiểu nghĩa.
Dĩ nhiên là người Mường cũng dùng danh từ Lúa gạo của đợt I mà họ đọc theo xưa là Ló, nhưng đó là vay mượn vì sống chung, nhưng họ thích dùng danh từ đuống hơn, vì đó là danh từ của họ.
Bằng vào hai danh từ đó và vào vài yếu tố quan trọng khác, sẽ kể ra, ta biết chắc một trăm phần trăm rằng người Mường là mọn Mã Lai đợt II mà khoa khảo tiền sử nói đến, tức bọn Austronesien, tức dân chánh quần đảo Nam Dương ngày nay.
Ta, tức Mã Lai đợt I, đã mượn rất nhiều danh từ riêng của Mả Lai đợi II, chỉ trừ hai danh từ đó. Đó là sự may mắn lớn nó giúp ta biết người Mường là Mã Lai đợt II.
Thế thì người Mường mới tới xứ ta có 2.500 năm, khác hẳn dân của vua Hùng Vương đã đến đây từ 5.000 năm rồi.
Họ cũng là đòng chủng đồng bào với ta, nhưng chỉ là kẻ đến sau mà thôi.
Hiện nay, ai là con cháu Hùng Vương, ai là con cháu người Mường, hẳn không ai biết được hết, vì khi tới đây, họ không sống riêng rẽ như bây giờ mà định cư lẫn lộn với ta, cưới gả với ta, thế nên trong Việt ngữ mới có đến 40 phần trăm danh từ Mã Lai Nam Dương.
Cuộc sống chung đó không phải là hợp chủng vì đợt I hay đợt II gì cũng đồng chủng Mã Lai với nhau cả. Nhưng rồi họ sống riêng, có lẽ vì họ không ưa Tàu nên bất hợp tác.
Họ bất hợp tác với Tàu, không phải là vì họ yêu nước hơn ta mà vì họ chỉ mới bị Tàu đánh đuổi cách đó có 500 năm, khiến họ phải bỏ nước ở Hoa Nam, hận cũ chưa phai trong ký ức của dân tộc, còn ta thì đã quên mất cái thù Hiên Viên, nó quá lâu đời rồi.
Từ 2.000 năm nay, tức từ ngày Mã Viện đặt ách trực trị lên cổ của ta và họ, họ không tiến, không phải vì thiếu ảnh hưởng Tàu, Mã Lai ở Mỹ châu, ở Ấn Độ không cần ảnh hưởng nào cả mà vẫn tiến bằng cổ Ai Cập. Sở dĩ họ không tiến vì địa bàn trú ẩn của họ xấu, và vì họ đã mất dân rất nhiều, lúc đi trú ẩn. Không phải người Mường nào cũng căm thù dai như người Mường nào và vẫn có người Mường ở lại hợp tác, y hệt như dân Lạc Việt đợt I.
Không phải người Mường nào cũng bất hợp tác cả đâu, mà chỉ có nhóm Mường còn để lại con cháu ngày nay thôi, con số khác cũng như toàn thể Lạc Việt đều hợp tác, vì cái thế không được đừng, bởi không còn đất để mà chạy đi. Ông O. Jansé cho rằng họ có chạy xuống Phi Luật Tân, nhưng không có bằng chứng. Ông ấy cũng cho rằng họ có chạy xuống đất Chàm, nhưng chắc là không được mấy mươi người vì đất Chàm cũng đã có chủ rồi, hơn thế ta sẽ thấy, khi chúng tôi viết thật đúng về thượng cổ sử Chàm, thì người Chàm đã lập quốc rồi, nước Lâm Ấp chỉ là quốc gia thứ nhì của họ, chớ không phải quốc gia thứ nhứt như các ông Tây đã viết sai trước đấy.
Khoa ngôn ngữ tỷ hiệu bị khoa học chê, nhưng nó lại là chương dài nhứt của quyển sách nầy vì nó cho ta biết rất nhiều bí mật thời cổ mà không khoa nào biết được cả.
Ngô Sĩ Liên đưa truyền thuyết Mường vào sử Việt, đã bị Nhượng Tống mắng một cách bất công là nịnh vua Lê (Lê Lợi là người Mường). Sử gia Nguyễn Phương cũng phụ họa để mắng theo.
Cả hai ông đều không biết rằng trước Mã Viện, Mường và ta sống lẫn lộn, không phải là hai dân tộc, mà là một và mãi cho đến thời Nguyễn - Trịnh, ta còn nói tiếng Mã Lai đợt II, như đã thấy ở các biểu đối chiếu, thì Ngô Sĩ Liên làm thế là đúng, bởi tổ tiên người Mường cũng là tổ tiên của ta, vì như đã nói, hiện nay có ai biết rõ rằng họ là con cháu của đợt I hay đợt II chăng?
Ta sẽ nghiên cứu người Mường tỉ mỉ hơn bao giờ cả và ta sẽ biết được nhiều việc rất hay, vì chính người Mường là nhơn chứng, cho ta biết có vua Hùng Vương, một đề tài tranh luận chưa ngã ngũ. Người Mường còn cho ta biết hàng trăm thứ khác rất là quan trọng, chẳng hạn, các ông Tây nói Chim là Tôtem của ta, là nói sai.
*
* *
Ở đây, chúng tôi dùng quyển “Les Mường, Géographie humaine, Sociologie” của nhà nữ bác học J. Cuisinier để làm tài liệu tham khảo chủ lực, vì chỉ có J. Cuisinier thường nhấn mạnh về yếu tố chủng tộc, mặc dầu theo cái nhan sách, thì cô chỉ nghiên cứu về khoa học nhân văn mà thôi.
Yếu tố chủng tộc cho ta biết rõ nguồn gốc của người Mường hơn là ngôn ngữ, mặc dầu họ cũng nói tiếng Việt, một thứ tiếng Việt trung cổ.
Và đây là lần đầu tiên mà ta nhìn thấy rõ người Mường hơn, qua bao tài liệu và giả thuyết từ trước tới nay không cho người ta tin lắm là người Mường đồng chủng với ta vì bao nhiêu chứng tích trước là tài liệu văn hóa (ngôn ngữ, phong tục) tức cái gì mà người Mường có thể vay mượn được của ta, chớ họ có thể thuộc chủng khác, còn đây là chứng tích chủng tộc học có tánh cách quyết định về cái chủng của họ.
Mường là gì?
Trước hết, đó là một danh từ Thái, đúng thật ra là có nghĩa là xứ, vùng hay một nhóm người, một thị trấn. Ta đọc là Mường.
Nhưng Mường mà ta xét đến ở đây là một danh xưng, dùng để chỉ một dân tộc kia, hơn thế, đó là một danh tự xưng. Họ tự xưng là Mwan (Hòa Bình, Thanh Hóa), Mwon (Phú Thọ) và Mwai (Cổ Nam). Ta biến Mwan thành Mường để chỉ họ, và gây rắc rối vô cùng vì nó trùng với Mường của Thái, có nghĩa khác.
Mwan, chỉ có nghĩa khiêm tốn là Người. Họ tự xưng là họ Người chỉ có thế thôi. (Chữ W đọc như chữ U Việt Nam), nhưng Mwai biến thành Người, chớ không phải Mwan.
Biến đến hai lần. Vào cổ thời, nó biến thành, nhưng về sau, có lẽ vào đời Trần mà ta đã tiến nhiều thì nó biến thành Mọi , bởi họ không tiến, và Mọi có nghĩa là dân kém cỏi lạc hậu.
Tuy nhiên cả Muang của Thái, Mwai của Mường gì cũng chỉ là gốc Mã Lai mà ra cả. Danh từ ấy có nghĩa là Người, nhưng các nhóm Mã Lai đọc hơi khác nhau đôi chút đó thôi và nhóm Thái hiểu hơi khác các nhóm khác một chút, họ hiểu là Nhóm Người, chớ không là Người.
Việt Nam: Người
Gia Rai: B’ngoài
Bà Na: B’ngài
Sơ Đăng: B’ngaài
Mường: Mwài (Mường châu Cổ Nam)
Gia Rai: Mnùi
Cao Miên: M'nư
Khả: P’nùi
Thái: Muang
Mã Lai Phi Luật Tân: Mnuy
Trong xã hội Việt Nam và xã hội Thái, lại còn một lối biến rất kỳ dị.
Việt Nam thêm Con trước Người. Danh từ Con Người của Việt Nam, trong xã hội Thái bị nuốt mất cái về sau là Người, chỉ còn lại Con mà thôi.
Ngày nay người Thái nói Kon, Kòn, Cần để chỉ người, còn Người thì biến thành Nhóm người và Thị trấn (Muang).
Người Mường tự xưng rất là khiêm tốn, họ tự xưng là Người. Có lẽ xưa kia họ có tên riêng để chỉ dân họ, nhưng nay tên riêng ấy bị đánh mất rồi chăng? Và ta sẽ tìm lại được danh tự xưng ủa họ.
Nhưng không có sự đánh mất ấy, vì thật ra họ không tự xưng là Mwai gọn lỏn (Mwai tout court) đâu, mà tự xưng là Mwai tlong, tức Người trong, tức người ở trong rừng, còn gọi Việt Nam là Mwai Ngwai, tức Người ngoài, tức người ở ngoài đồng bằng.
Như thế là họ tự nhận là người Việt rồi vậy, hoặc người gì, tùy theo lối tự xưng của chính ta vào thời cổ, và ta sẽ biết ở đoạn sau là ta tự xưng là gì vào cái cổ thời đó.
Ta biến Mwan thành Mường để chỉ họ, sự rắc rối đã xảy ra rồi vì nó trùng với một sự biến dạng khác của danh từ Muang của Thái, nhưng rồi ta lại làm rắc rối thêm vì rồi ta lại tổng-quát-hóa danh từ Mường đó để chỉ bất kỳ dân tộc kém mở mang nào ở Bắc Việt, y như Trung Hoa và Nam Việt dùng danh từ Mọi vậy.
Nhiễm thói Trung Hoa, bất kỳ dân tộc nào không phải là Trung Hoa đều bị gọi là man di tuốt hết, hai cụ Nhượng Tống và Ngô Mạnh Nghinh, cũng gọi bất kỳ dân tộc nào không phải Việt Nam là Mường tuốt hết. Thí dụ, dịch Phương Đình Dư địa chí của Nguyễn Siêu, vốn viết bằng chữ nho, không thể viết được chữ Mường, cụ nghè Ngô Mạnh Nghinh dịch chữ Man mà Nguyễn Siêu dùng để chỉ Cao Man thành ra Mường. Nhiều nhà viết sách khác cũng dùng danh từ Mường, y như danh từ Mọi.
Một danh tự xưng tốt đẹp, bỗng biến thành một danh từ có nghĩa là man di, khiến ta càng ít muốn tìm biết người Mường hơn.
Sách vở ta quá lộn xộn về danh từ và danh xưng.
Thí dụ chúng tôi đọc quyển Lĩnh Nam Dật Sử rồi thì không còn biết tác giả của nó thuộc dân tộc nào, và sách ấy viết bằng văn tự nào nữa cả.
Cứ theo lời giới thiệu của bực danh nho thời nay là cụ Nguyễn Tạo thì tác giả của sách ấy là người Mường và viết bằng Man ngữ.
Nhưng viết bằng Man ngữ là cái gì mới được chớ? Man ở đây, có thể hiểu là man di và man di đó là người Mường. Nhưng người Mường lại nói tiếng Việt, tuy có cổ nhưng vẫn cứ là tiếng Việt, chớ không thể là tiếng của man di nào hết.
Và sách phải được viết bằng văn tự nào đó để diễn ngôn ngữ nào đó, chớ không thể viết bằng ngôn ngữ được.
Thắc mắc của chúng tôi có vẻ vạch lá tìm sâu, nhưng không phải thế đâu. Phần lớn các dân thiểu số ở Bắc Việt đều có văn tự riêng như người Mường, người Thái, v.v. thì thắc mắc trên là chánh đáng. Chúng ta muốn biết sách Lĩnh Nam Dật Sử được viết bằng chữ Mường hay chữ Thái để mà phục tài của dịch giả đầu tiên là Trần Nhật Duật, và để biết phong tục nói trong sách là của dân nào, chớ không phải là bắt bẻ từng chữ để làm gì.
Tới chừng đọc qua bài tựa của Trần Nhật Duật, người tự xưng là dã dịch sách thì mới hay sách đó do một động trưởng vùng sông Đà sáng tác (Động là một làng của man di).
Nhưng ở vùng sông Đà có đến hai thứ người, người Thái Đen và người Mường. Vậy tác giả là người Mường hay người Thái Đen? Cả hai thứ người đó đều có văn tự hết.
Đọc tới bài Phạm Lệ không có ký tên, thì chúng tôi lại biết được thêm một chuyện lạ lùng nữa là sách ấy viết bằng chữ Tàu, có đoạn lại viết bằng thứ chữ Nôm của một dân tộc nào đó không rõ, họ dùng chữ Tàu để Nôm ngôn ngữ của họ.
Còn ông Trần Nhật Duật thì lại không là dịch giả.
Tất cả những đoạn viết bằng văn Tàu thì ông để nguyên. Những đoạn viết bằng văn Nôm của dân tộc đó mà ta còn hiểu được ông cũng để nguyên, ông chỉ có chuyển ra văn Tàu những đoạn Nôm khó hiểu đối với dân Việt Nam mà thôi.
Nhưng cái thổ ngữ ấy, được để nguyên mà ngày nay cụ Bùi Đàn đọc thì hiểu được để dịch ra tiếng Việt, thì đích thị đó là tiếng Mường.
Ta đã phải suy nghĩ và suy luận hàng giờ mới hiểu được như vậy. Có lẽ cụ Nguyễn Tạo cũng đã suy luận như vậy nên mới giới thiệu như thế kia.
Lối hiểu rất khoa học đó, thế mà lại không đúng. Sách được Trần Nhật Duật tìm thấy năm 1280 do một ông tổ 5 đời của một người sống đồng thời với Trần Nhật Duật viết, tức sách được sáng tác vào khoảng năm 1180.
Các nhà ngôn ngữ học lại chứng minh được rằng vào thuở ấy, tiếng Mường và tiếng Việt chưa tách rời xa nhau như ngày nay.
Như thế Trần Nhật Duật không có lý do gọi tác giả là man di, vì hẳn họ Trần biết rằng người Mường là người Việt Nam.
Tới đây thì ta đã điên đầu rồi, vì ta chỉ mới biết tác giả dùng văn tự của dân tộc nào, chớ vẫn chưa biết ông ấy thuộc dân tộc nào, mà ta đã phải mệt óc quá lắm rồi.
Tra cứu thử các sách khác, thí dụ quyển Hoàng Việt Giáp tý niên biểu thì lại thấy sách ấy chép rằng sách đó là do người Mân viết ra.
Ta tra lại sách chủng tộc học về Đông Dương thì các nhà chủng tộc học cho ta biết rằng người Mân không có dính dáng gì tới Việt tộc hết.
Mán là danh xưng Việt Nam do danh từ Man của Tàu mà ra, xã hội Việt Nam đã Việt hóa danh từ đó, nhưng không dùng nó để chỉ man di một cách tổng quát như Tàu đã làm, mà lại biến Mán thành danh xưng trỏ đích xác một dân tộc kia, và chỉ dân tộc đó mà thôi, ngoài ra các nhóm thiểu số kém mở mang khác không có nhóm nào được ta gọi là Mán hết. Theo lối dùng danh xưng của Việt và theo khảo cứu của Pháp thì Mán là một chi của Miêu chủng. Ở bên Tàu họ được Tàu gọi là Dao, họ di cư sang xứ ta thì được ta gọi là Mán, và ngôn ngữ của họ khác hẳn Việt ngữ cổ hay kim, họ không hề biết chữ Tàu bao giờ, kể cả ở bên Tàu, sọ của họ cũng khác sọ của ta.
Như vậy sao họ sáng tác được bằng chữ Tàu? Nhứt là những câu văn Nôm của họ. Trần Nhật Duật để nguyên mà cụ Bùi Đàn lại hiểu được để dịch ra tiếng Việt? Người Mân ở với ta chia ra thành những tiểu chi: Mán Tiền, Mán Cốc, Mán Đại Bảng, Mán Bảo Lạc, Mèo Cao Bằng, Mèo Đông Quang, không có chi nào nói mà ta hiểu được cả, khác hẳn với người Mường.
Như vậy, ta lại phải chạy đi kiểm soát H.V.G.T.N.B. Quyển sách ấy đã viết sai. Vào thuở Lĩnh Nam Dật Sử được sáng tác thì Miêu tộc chưa di cư vào xứ ta. Đó là điểm sử chắc một trăm phần trăm.
Nhưng một người bạn lại cho chúng tôi biết rằng H.V.G.T.N.B. không có viết sai, cụ Nguyễn Bá Trác soạn sách bằng chữ Hán và đã dùng danh xưng man (không có hoa), và chỉ có nghĩa là man di, y như Trần Nhật Duật. Đối với cụ Nguyễn Bá Trác thì người thiểu số nào cũng là man di hết.
Nhưng các cụ dịch Hoàng Việt ra quốc ngữ lại tự tiện dịch man (không hoa) thành Mán (với M hoa) khiến ta hiểu rằng đó là Miêu tộc.
Thật là điên cả cái đầu!
Man không hề là Mán. Man là tất cả mọi dân tộc kém mở mang nhứt là các “rợ” phương Nam của Tàu, đó là tiếng Tàu. Còn Mán là tiếng Tàu bị Việt hóa chỉ đích xác một dân tộc kia, đó là một chi của Miêu tộc đã di cư xuống thượng du Bắc Việt. Cái chi ấy còn ở lại bên Tàu, được người Tàu gọi là Dao chớ không gọi là Mán như ta, vì như đã nói, mán là tiếng Việt, tuy cũng do gốc Tàu mà ra, nhưng nó đã mang một nghĩa khác hẳn từ ba trăm năm nay, tức là ngày chi Miêu tộc ấy di cư vào nước ta.
Ngày nay trong Việt ngữ, Mán không còn dùng để dịch Man của Tàu nữa, mà để chỉ đích xác một chi của Miêu chủng đã di cư đến thượng du Bắc Việt.
Chúng tôi đành phải suy luận một cách phiêu lưu mạo hiểm, bằng vào bài phàm lệ không có ký tên, được ám chỉ trên kia.
Cứ theo bài ấy thì thổ ngữ của tác giả đó như thế nầy: chữ Vô không viết là Vô mà viết là Mạo.
Chúng tôi đoán rằng tác giả là người Nùng vì người Nùng nói tiếng Tàu sai một cách trung gian giữa Quảng Đông và Việt Nam.
Thí dụ:
Việt Nam: Nhân (người ta)
Nùng: Nhành
Quảng Đông: Dzành
Trung Hoa chánh gốc: Dỉl
Tiếng Vô, người Quảng Đông đọc là Mụ, người Nùng đọc là Mạo, ta đọc là Vô nhưng Trung Hoa chánh gốc đọc là Mỹ.
Nhưng lối suy luận đó tuy khoa học nhưng không chắc đúng vì người Nùng không bao giờ có mặt ở vùng sông Đà cả, vào thuở ấy.
Nhưng giả thuyết của chúng tôi có may mắn đúng sự thật vì cho tới nay chưa ai chứng minh được rằng vào năm 1280 người Nùng không có mặt ở vùng sông Đà. Không có mặt cũng chỉ là nói theo giả thuyết mà thôi, nhưng thổ ngữ “Mạo” lại có thể bác bỏ giả thuyết ấy để tái lập sự thật.
Tới đây thì một lọ thuốc an thần cũng không đủ giúp chúng ta đỡ nhức đầu, mặc dầu chúng ta chỉ mới đọc có 5 trang đầu của quyển Lĩnh Nam Dật Sử mà thôi.
Chúng tôi được đọc một bài trong đó có một câu như thế nầy: “Ở bên Tàu, cái thứ người Mường sống cạnh người Thái, tên là người Mèo”.
Chúng tôi đã nhức đầu hơn một tiếng đồng hồ mới hiểu được câu văn đó. Người Mường là một dân tộc, một chi của dân tộc Việt Nam không bao giờ có mặt ở bên Tàu cả, mà như có thì tại sao người Mường không tên là người Mường mà lại tên là người Mèo?
Thì ra, tác giả ấy đã dùng danh xưng Mường như là một danh từ, mà cái danh từ đó lại có nghĩa là man di, y hệt như cụ nghè Ngô Mạnh Nghinh đã dùng để chỉ người Cao Miên.
Dựa theo truyện Mã Tổng của Đường Thư, Khâm Định Việt Sử viết: “Mã Tổng sang làm Đô hộ Annam, thanh liêm, không quấy dân. Chính sự tốt đẹp dân Mường Mán đều yên nghiệp”.
Người Tàu không bao giờ gọi người Mán là Mán. Họ gọi là Dao. Còn người Mường thì họ không biết rằng có.
Có lẽ Đường Thư chỉ viết là man di là để chỉ dân Việt Nam thuở ấy, chớ sao đi cai trị Giao Chỉ mà chỉ nói chuyện Mường Mán mà không nói tới dân Giao Chỉ.
Vậy chắc chắn là Đường Thư đã dùng danh từ Man di để chỉ dân ta.
Nhưng Khâm Định Việt Sử viết bằng chữ Nho, không thể viết ra hai chữ Mường Mán được. Chắc chắn sách ấy cũng chỉ viết là Man di theo Đường Thư mà thôi. Chính ông dịch giả là Nhượng Tống đã dịch ra như thế đó.
May là Nhượng Tống khá khoa học trong đám nho học đấy. Nếu ông khoa học thêm chút nữa có lẽ ông đã dịch là Man di rồi thêm rằng: Người Tàu thuở đó gọi dân ta là Man di. Câu dịch sai của Nhượng Tống không gây ngộ nhận quá nhiều, vì một độc giả thông minh, thế nào cũng điên đầu và đặt ra ba câu hỏi dưới đây, và sẽ trả lời được và hiểu được sự thật bí ẩn là Nhượng Tống đã dịch sai.
1. Tại sao đề cao một quan đầu xứ Giao Chỉ mà chỉ nói chuyện Mán, Mường, không thấy nói tới dân Giao Chỉ lần nào?
2. Tại sao lại có người Mán ở xứ ta vào thuở đó trong khi sự thật thì cuộc di cư của người Mán chỉ mới xảy ra có ba trăm năm nay thôi.
3. Tại sao người Tàu không biết có người Mường mà sử Tàu lại viết về người Mường?
*
* *
Gọi người ta là man di, đã không đẹp đẽ gì rồi, phương chi lại không dùng danh từ mà ai cũng đã hiểu là danh từ man di, lại đi lấy danh xưng chỉ đích xác hai dân tộc kia để thay vào đó thì chỉ có trời mới hiểu.
Câu văn của tác giả trên, nếu viết như thế nầy thì vừa khoa học, vừa tránh kỳ thị chủng tộc, vừa được mọi người hiểu ngay tức khắc: “Ở bên Tàu, có hai thứ người thiểu số sống cạnh nhau, người Thái và người Mèo”. Còn câu văn của Nhượng Tống thì phải sửa như thế nào, thì đã nói rồi.
Nếu ta tránh danh từ man di mà rồi lại cho danh xưng Mường có nghĩa là man di, ta vẫn không thoát tội kỳ thị chủng tộc lại còn làm điên đầu những kẻ đã biết Mường là một dân tộc nhứt định, chỉ có mặt ở Bắc Việt mà thôi. Sự tránh né ấy không đem ích lợi nào tới cho ta hết mà chỉ gây thêm phiền toái.
Nhưng sự thật, những người dùng danh xưng Mường, Mán như là danh từ, không có tránh né cái gì hết. Họ chỉ là những người không thạo khoa chủng tộc học và dân tộc học, chỉ có thế.
Tất cả những hỗn loạn về danh xưng trong sách vở ta, đều luôn luôn do sự không biết khoa nầy hay khoa nọ, chớ không hề do tránh né cái gì hết, và hỗn loạn nhứt là những danh xưng và danh từ địa lý cổ thời, chủng tộc học và dân tộc học, ba khoa đó không phải là khoa khó học nhưng nó không được ai chú ý tới hết, bị khinh thường vì người ta quan niệm rằng Man hay Mán gì cũng đều là thứ người kém mở mang thì gọi sao cũng được.
Nhưng trường hợp Lĩnh Nam Dật Sử vừa cho ta thấy rằng không thể gọi sao cũng được mà là cần gọi đích xác.
Vả lại trong phạm vi khoa học, bất kỳ cái gì cũng phải chính xác hết, kể cả giả thuyết. Giả thuyết chỉ được phép mơ hồ ở đại cương, nhưng chi tiết thì phải đúng y sự thật đã được công nhận.
Không riêng gì ta mới lẫn lộn danh từ, danh xưng mà ngay cả vài nhà bác học Âu Châu cũng bê bối về vấn đề ấy.
Ba tờ tạp chí khoa học nhứt B.E.F.E.O, B.A.V.H, B.S.E.I. vẫn nhận đăng những bài dùng danh từ và danh xưng hỗn loạn như vậy, khiến ta càng rối trí hơn. Nhưng ta phải biết rằng một bài có giá trị lớn về một mặt nào đó, có sai chút ít, vẫn được đăng, và ta phải tự tìm học, để tự bổ chính mà hiểu cho đúng, chớ không nên rối trí trong cái loạn đó, hoặc xem cái loạn đó là sự thật.
Đó là bài của những nhà ngôn ngữ học, những nhà dân tộc học lỗi lạc trong bộ môn của họ, nhưng họ dốt khoa chủng tộc học chẳng hạn, họ quan niệm Indonésien là chủng riêng của những người “Mọi cao nguyên”, chớ còn các nhà chủng tộc học thì đều biết rằng Indonésien là Cổ Mã Lai và bao gồm cả Thái, Việt, Chàm, Cao Miên, Miến Điện, v.v.
Chính người Mường ngày nay cũng biết cái nghĩa kỳ thị của danh từ Mường và họ rất mích lòng khi nghe ta dùng danh từ đó.
Trên Cao nguyên cũng y hệt như thế, người Thượng ở đó rất bất bình mà nghe bình dân Trung Việt và Nam Việt gọi họ là Mọi.
Ta cần thận trọng trong việc dùng danh từ nầy.
(Sử gia Phạm Văn Sơn, cho rằng ta biến danh từ Man của Tàu thành ra Mọi. Nhưng cô J. Cuisinier, người đã nghiên cứu người Mường nhiều hơn hết lại cho rằng ta biến danh tự xưng thứ ba của họ là Mwai thành ra Mọi và danh tự xưng thứ nhứt bị biến ra Mường, danh tự xưng thứ nhì không có bị biến. Thuyết của cô J. Cuisinierr nghe hữu lý hơn vì Mwai giống Mọi chớ Man thì không).
*
* *
Người Mường tự thấy rằng họ là người Việt, không phải là họ thấy sang bắt quàng làm họ, mà trái lại, còn có bằng chứng ngược hẳn. Họ rất biết tự trọng, theo nhận xét của cô J. Cuisinier.
Dầu sao cũng chắc chắn rằng họ là hậu duệ của người Cổ Đông Sơn vì họ còn dùng trống đồng cho mãi đến ngày nay và họ còn đánh trống y hệt như hình khắc trong trống, những cái hình đã làm cho các nhà bác học Tây phương ngẩn ngơ. Họ lấy gậy chọc vào trống, chớ không phải đánh như ta. Các ông Tây cứ bảo đó là giã gạo.
Đó là sợi dây nối kết họ với người Đông Sơn, còn sợi dây nối kết ta với họ là ngôn ngữ của họ đích thị là ngôn ngữ Việt buổi trung diệp, mà cho cả đến thế kỷ 17, ta vẫn còn nói như họ, thí dụ Trời, họ nói Blời hoặc Tlời, mà theo các sách cố đạo thì vào thế kỷ 17 Việt Nam cũng nói Blời, Tlời.
Người Mường là cái khoen trung gian mà khoa học đòi hỏi. Tuy nhiên chúng tôi đã tìm được nhiều khoen khác chớ khoen Mường thì quá mới.
Địa bàn của đồng bào Mường chạy dài từ Hòa Bình, Hà Đông xuống tới đèo Mụ Già. Ở trên là địa bàn của Thái, điều ấy chứng tỏ họ không có gần gũi với Trung Hoa, không có chịu ảnh hưởng Trung Hoa như Thái. Đó là một điều vô cùng quan trọng để thấy rằng nếu có ảnh hưởng Trung Hoa đi vào xã hội của họ thì là đều qua trần gian Việt Nam mà thôi, còn cái gì cố hữu của họ là của họ, từ lúc sơ khai.
Ở Yên Bái và Nghĩa Lộ có một số ít người Mường nhưng đó là những nhóm lẻ tẻ, địa bàn chánh của họ được người Việt và người Thái bảo vệ, nên họ thoát được ảnh hưởng Trung Hoa.
Ngày nay, người Trung Hoa đã lọt được vào tất cả các cộng đồng thiểu số sơn cước Bắc Việt, nhưng tuyệt nhiên không lọt được vào cộng đồng Mường.
Trong bài tựa của quyển “Hành trình vào dân tộc học” của giáo sư Nguyễn Bạt Tụy nói rằng người Mường là người Giao, và phân biệt Giao Chợ (Việt Nam) và Giao Mường (Mường). Sự thật thì không phải thế. Người Giao búi tóc ở sông Dương Tử, không cho ta sợi dây nối kết nào với ta cả. Ông Lê Chí Thiệp chỉ đưa ra được có cái búi tóc mà chúng tôi thấy rằng nhiều dân khác có. Còn về tự dạng thì Giao đó viết người với bộ Trùng còn Giao Chỉ thì không bao giờ viết với bộ Trùng cả.
Cho tới năm 1946 thì dân số Mường được phân bố như sau:
Yên Bái: 2.854
Sơn Lê: 10.591
Sơn Tây: 20.139
Phú Thọ: 30.383
Hòa Bình: 136.000
Ninh Bình: 9.888
Thanh Hóa: 86.000
Nghệ An: 2.300
-------------------------
Tổng cộng: 298.165
Đó là những con số tối thiểu vì nhiều nơi xa xôi không kiểm tra được. Nhưng chắc không thể nào mà hơn 300 ngàn người, tức họ đông bằng lối phân nửa người Lạc Việt thời Mã Viện.
Tại Vĩnh Yên có một cộng đồng người Sơn cước mà ta cũng gọi là Mường, nhưng đại tá Bonifacy đã lên đó khảo sát và thấy là không phải: họ là người Mán tức Dao, thuộc Miêu chủng.
Vậy người Mường ở Bắc Việt là 2/3, Trung Việt là 1/3 và địa bàn chánh của họ tức trung tâm văn hóa cổ thời của họ là khu Sơn La, Yên Bái, Sơn Tây, Phú Thọ, Hòa Bình, chớ không phải Thanh Hóa như người ta thường ngỡ, và điều đó cũng phù hợp với kết quả khai quật từ năm 1945 đến nay: Trung tâm văn hóa gọi là Đông Sơn là ở Bắc Việt chớ không phải ở Đông Sơn.
Ta đã học qua cổ huyện Tây Vu trung tâm văn hóa Lạc Việt ở chương III. Nhìn vào một bức dư đồ, ta sẽ thấy Hòa Bình, tuy không nằm trong cổ huyện Tây Vu, vẫn không xa với Tây Vu, mà hiện nay thì người Mường lại sống đông đảo nhứt ở Hòa Bình. Xưa kia, chắc cũng thế, chỉ khác về tỷ lệ mà thôi. Như vậy trung tâm Lạc Việt là ở Tây Vu và vùng phụ cận Tây Vu, không còn ngờ gì nữa.
Từ lâu, người Âu Châu khảo sát về các dân tộc ở miền sơn cước Bắc Việt có thoáng nghĩ rằng người Mường chính là người Việt, nhưng số phận khác, vì hoàn cảnh sống khác. Họ thoáng nghĩ như vậy vì họ thấy giữa hai dân tộc đó có rất nhiều điểm tương đồng với nhau.
Cho đến V. Goloubew, không nhận người Đông Sơn là tổ tiên của ta, cũng khuyên các nhà bác học nên tìm tòi coi họ có phải là tổ tiên của người Mường hay không, vì cái lẽ một dân tộc đông hàng triệu, không thể biến mất được sau hai ngàn năm, bằng chứng là các thứ thổ trước ở Trung Hoa đời nhà Chu vẫn tồn tại ở đó mãi cho tới ngày nay, trừ Lạc bộ Trãi, mà sự biến mất của Lạc bộ Trãi có duyên cớ mà chúng tôi đã nói đến rồi ở một chương khác.
Các nhà khảo cứu ở Âu Châu mà nhứt là Pháp đã làm việc nhiều theo chiều hướng đó, nhiều hơn ta nữa, mặc dầu ta chung đụng với người Mường nhiều hơn họ.
Tới nay thì tài liệu của bốn năm mươi năm tìm tòi học hỏi của họ và của ta đã khá đầy đủ để chúng ta thử tìm một kết luận về người Mường.
Về người Mường, tài liệu chủ lực của chúng tôi là quyển sách đầy đủ nhứt về dân tộc đó, quyển “Les Mường, Géographie humaine et Sociologie” của cô J. Cuisinier do “Viện Dân tộc học, Bảo tàng viện về con người”, Bá Lê xuất bản năm 1946, mặc dầu các tài liệu khác cũng được chúng tôi dùng đến.
Quyển sách nầy dầy 600 trang khổ lớn và soạn giả của nó đã nằm tại đất Mường để khảo sát và phải đọc tới 200 quyển sách của người Âu không kể bài đăng ở các tạp chí, và đã đọc cả những sách xưa của Việt Nam mà cả ta cũng chưa đọc hết như là Tam Bình thực lục, Hưng Hóa phong thổ ký, Quãng binh chi, Thanh Hóa tỉnh cương giới phân hiệp danh hiệu duyên cách, Tinh xuyên sơn cảnh thắng lạp ký, Hồng Đức thiên nam dư hạ tập, v.v.
Nói thế để cho thấy rằng tài liệu tạm đủ để mà kết luận cái gì.
Trước hết ta nên theo quan niệm của nữ tác giả trên về nguồn gốc một dân tộc. Phải tìm được ba bằng chứng: nhơn thể tính, ngôn ngữ và dân tộc tính, sự nghiên cứu riêng rẽ, không cho phép ta kết luận điều gì cả. Thế mà các nhà khảo cứu Pháp khác mỗi người chỉ đứng ở một bình diện để kết luận thì không thể tin được.
Chẳng hạn Madrolle chỉ đo sọ mà lại đo sai lầm rồi kết luận rằng người Mường thuộc chủng Cổ Mã Lai, Diguet đã theo dõi kỹ thuật rồi cho rằng người Mường gốc Thái, còn Przyluski và Maspéro thì bằng vào ngôn ngữ để bảo rằng họ với người Việt đồng chủng.
Phải phối hợp cả ba chứng tích đó lại như cô J. Cuisinier đã làm, với lại nhiều chứng tích khác nữa mới mong đi tới một cái gì có giá trị khoa học.
Trước hết, xin nói về việc đo sọ, cô J. Cuisinier nói rằng người Mường khác nhau từng vùng, đôi khi hai làng khít ranh nhau mà con người cũng đã khác nhau quá xa. Có lẽ đó là di tích các bộ lạc xưa, nên rất khó khảo sát họ về mặt chủng tộc học.
Người Việt Nam đã rời khỏi chế độ bộ lạc và chế độ tiền-phong-kiến từ lâu, sống pha trộn nhau, con gái Sơn Tây lấy con trai Ninh Bình, còn người Mường chỉ cưới vợ, lấy chồng quanh quẩn trong làng, nên bao nhiêu bộ lạc xưa, nay cứ còn chường mặt ra, không có được bộ mặt thống nhứt như trong xã hội Việt Nam.
Thế thì việc đo sọ của Madrolle kể như công dã tràng rồi vậy.
Về mặt chủng tộc học, đành rằng khoa nhân thể trắc là yếu tố chánh yếu và quyết định, nhưng cái mẫu người (type d’homme) cũng rất có giá trị đáng kể.
Cô J. Cuisinier cho biết rằng quý tộc Mường, gia đình và họ hàng của các quan Lang, các thổ đạo, các hương chức hội tề thì xinh đẹp như người Việt, còn bần dân thì quá xấu và quá bé nhỏ. Có phải chăng bần dân ấy chính là người thổ trước Mê-la-nê bị bắt làm nô lệ, sau được phóng nô, họ thành tá điền nông nô, hay thành đa số dân nghèo trong đất Mường?
Và kỳ lạ lắm là toàn thể phụ nữ kể cả phụ nữ quý phái cũng xấu xí và bé nhỏ y hệt như bần dân.
Ghi chép của cô J. Cuisinier phù hợp vơi công việc khảo tiền sử bởi trong các hang động, người ta thấy sọ Ma-la-nê-diêng nằm chung với sọ Anh-đô-nê-diêng, và có sọ lai giữa hai thứ sọ đó.
Chúng tôi tạm kết luận rằng người Mường là quý tộc Lạc Việt từ Hoa Nam nam thiên không mang đàn bà theo kịp, họ tới đó hợp chủng với Mê-la-nê da đen xấu xí và lãnh đạo Mê-la-nê cho tới ngày nay, thế nên bần dân vốn là Mê-la-nê nô lệ cũ và phụ nữ quý phái thì giống nhau, còn quý tộc Mường thì giống Việt Nam.
Ai cũng quên mất điều nầy cả là vào cổ thời, khi mà một cuộc di cư lớn lao xảy ra thì đa số phụ nữ bị bỏ rơi, hoặc chết đường hết. Họ chết đường vì họ yếu đuối. Còn họ bị bỏ rơi là vì con gái ít có chí phiêu lưu mạo hiểm. Thành thử đàn ông góa vợ dọc đường, và con trai chưa vợ, đến địa bàn định cư thì phải lấy thổ dân trước làm vợ. Đó là trường hợp người Mường, Mã Lai đợt II, tức Lạc bộ Mã Hoa Nam. Thế nên phụ nữ của họ mới không đồng chủng với họ. Mà đó cũng là trường hợp Hoa Bắc di cư xuống Hoa Nam, không có đàn bà, còn đàn bà Việt Hoa Nam thì ở lại. Thế nên chủng Nam Mông Gô Lích mới thành hình với cái sọ nửa Việt nửa Hoa.
Nhưng bần dân và phụ nữ tuy khác chủng tộc với quý tộc nam phái, nhưng tóc lại thẳng, loại da khá trắng và thật trắng nhiều hơn da sậm màu. Mà chủng Mê-la-nê-diêng lại là chủng da đen, tóc quắn quíu, tức không còn dấu vết da đen nào nơi bần dân và phụ nữ cả. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi họ đã lai giống với Lạc Việt từ nhiều ngàn năm rồi, còn gì nữa!
Bần dân với phụ nữ cho thấy rõ có một mẩu người Mường nhứt định nào đó, còn đàn ông quý tộc thì lại rất khác nhau, trong một nhóm mười người có tới bốn người giống Thái, bốn người giống Việt, hai người vừa giống Thái và giống Việt.
Cô J. Cuisinier đã ngạc nhiên, vì cô không thông Việt sử, chớ ta là người Việt, ta giải thích được sự kiện ấy dễ dàng.
Người Thái xưa luôn luôn sống sát cánh với ta, từ thuở chủng Việt tức chủng Mã Lai, làm chủ đất Hoa Bắc cách đây năm ngàn năm. Và ngay ở Cổ Việt cũng thế, bởi tên Phán là người Thục (mà chúng tôi đã chứng minh rằng Thục Phán là người nước Thục, mà nước Thục là một nước của chi Thái, nước Tây Âu. Thục là Thái di cư tới Tây Âu) đánh nước Văn Lang bằng quân lính mộ ở nước Tây Âu, tức nhà xâm lược đó là người Thái, mà lính của ông ta cũng là người Thái).
Như vậy khi bị Triệu Đà, rồi Lộ Bác Đức rồi Mã Viện đánh đuổi thì quý tộc Lạc Việt và quý tộc Thái cùng chạy trốn một lúc với nhau và đi theo một nẻo với nhau, có lẽ qua đồng bằng Nghĩa Lộ và đất của người Thái Đen ngày nay.
Quan sát của cô J. Cuisinier cho thấy rằng qua hàng ngàn năm hợp chủng, dấu vết xưa cũng còn, và ta có thể kết luận riêng về dân tộc Việt Nam rằng khi có một mẫu người Việt Nam nhứt định thì người Việt Nam là người Việt Nam, chớ họ không phải là Trung Hoa trá hình ra làm Việt Nam như sử gia Nguyễn Phương đã nói.
Trung tá M. Abadie, tác giả quyển “Những chủng tộc ở Thượng du Bắc Việt” viết: Trong cuộc hợp chủng nào, sau hàng ngàn năm, các chủng gốc xuất hiện trở lại, chớ không mất hẳn bao giờ, mà ta lại không hề thấy một người Việt Nam nào giống người Hoa bao giờ cả…
Như đã nói, trong một bàn ăn gồm 12 thực khách Việt và 1 thực khách Hoa, ăn mặc như nhau, đồng vóc dáng, đều làm thinh, chúng tôi có thể chỉ đúng ai là Việt, ai là Hoa. Chúng tôi lại đi tới được cái chỗ chỉ thật đúng ai là người Phúc Kiến ai là người Quảng Đông, vì biệt sắc Mân Việt và Tây Âu sau hơn hai ngàn năm lai giống với Trung Hoa, cứ còn là Mân Việt và Tây Âu.
Ta không giống Tàu như sử gia Nguyễn Phương đã nói. Màu da vàng và tóc thẳng không hề là dấu hiệu giống họ.
Quả có người Hoa biến thành Việt và giống Việt, nhưng có lẽ gì cái luật đại đa số nuốt thiểu số, còn thuyết của ông Nguyễn Phương thì không phải thế. Thuyết ấy cho rằng người Tàu di cư nhiều, thành đa số tuyệt đối rồi tự xưng là Việt, nhưng gốc Hoa không bao giờ cải biến.
Nếu quả đúng như vậy thì tại sao chúng tôi lại nhận diện được người Hoa trong một bữa ăn nói trên, chẳng những thế, giữa người Tàu với nhau, chúng tôi lại còn nhận diện được người Tàu tỉnh nầy với người Tàu tỉnh nọ?
Nếu quả đúng như thế thì người Việt giống người Tàu, không còn làm sao mà phân biệt được ai với ai nữa, vì họ không hề bị đa số nào nuốt họ hết bởi họ là Tàu đa số kia mà.
Về luật đại đa số nuốt thiểu số, một cái luật dĩ nhiên, Trung tá M. Abadie đã đưa ra một thí dụ cụ thể rất hay: Bao nhiêu quan thổ ty của vua chúa ta gởi lên các xứ Thổ, Thái, Mán, bắt họ lấy vợ bổn xứ để hòa mình với các dân đó hầu dễ cai trị họ, bao nhiêu người ấy đều biến thành Thổ, thành Thái, thành Mán hết ráo, qua vài đời hợp chủng. Nhưng quý tộc Thái, Mán, Thổ đều cứ còn vẻ Việt Nam hoài hoài, mặc dầu họ theo phong tục Thổ, Mán, Thái, nghĩa là trông họ thì biết ngay là họ gốc người Việt, khác xa những người chung quanh họ. Tóm lại nếu người ngoài đến xứ ta, mà thiểu số thì bị ta nuốt mất, còn như họ là đa số tuyệt đối, thì chính họ biến thiểu số chung quanh theo họ, còn họ thì cứ còn là họ mãi mãi, về vóc dáng và về mẫu người. Nhưng dân Việt Nam thì thấy là biết ngay tức khắc là không phải người Tàu, trừ những người mới lai căn một đời.
Cũng nên biết rằng Madrolle đã đo sọ người Mường trước khi cô J. Cuisinier khảo cứu người Mường, nhưng cô J. Cuisinier không dùng tài liệu của Madrolle vì thấy rằng Madrolle làm việc sai nguyên tắc. Trong một xã hội gồm hai chủng quá rõ rệt, không thể đo hồ lốn mà có được một chỉ số có giá trị nào.
Và quả chỉ số sọ của người Mường khác xa chỉ số sọ của người Việt như ta đã thấy ở chương chỉ số sọ, vì bần dân và phụ nữ của họ, thuộc chủng khác. Chúng tôi nói rằng chỉ số sọ là chứng tích quyết định, nhưng phải biết sử dụng nó, và trường hợp từ chối sử dụng của cô J. Cuisinier thật là hùng biện. Madrolle đã đo sái nguyên tắc, nên không dùng được. Thế nên ở Hoa Bắc chúng tôi mới tự ý bỏ sọ Đông Sơn ra và có giải thích tại sao. Để sọ Sơn Đông vào là sẽ sai tất cả như Madrolle đã làm sai về người Mường.
Thế nên cô J. Cuisinier đành chỉ dùng mẫu người và vóc dáng mà thôi, y như là không có Madrolle bao giờ, nhưng chính trong sự thiếu sót của cô, mà cô thấy sự thật rõ hơn và ta cũng được biết sự thật rõ hơn về vấn đề chủng tộc ở xứ Mường.
Chỉ số sọ là chứng tích quyết định nhứt, nhưng khi làm việc theo lối Madrolle thì nó lại hóa ra gạt gẫm nhứt.
Trong xã hội Việt Nam thì khác, dân ta đã bị xáo trộn quá sức vì giặc giã, vì phong tục đổi thay, nên sự pha giống diễn ra sâu đậm lắm, chủng Mê-la-nê-diêng đã bị nuốt mất rồi, và chủng Anh-đô-nê-diêng “lấn sân”, toàn Bắc Việt đều là Anh-đô-nê-diêng từ nam đến nữ, từ quý tộc đến bần dân, mặc dầu đây đó cũng còn sót vài cá nhân bé nhỏ và xấu người.
*
* *
Giờ chúng ta theo dõi cô J. Cuisinier ở các mặt khác.
Trước hết ta xét về qua ngôn ngữ. Văn phạm của hai dân tộc Mường và Việt giống hệt nhau thì không thành vấn đề. Ta chỉ còn đối chiếu danh từ mà kết luận thôi.
Rất tiếc rằng ông H. Maspéro đã có một tập tự vựng danh từ của 15 thổ âm Mường khác nhau, nhưng chưa được xuất bản thì ông đã bị Đức Quốc Xã bắt tại Bá Lê, và chết vì bị đày sang bên Đức, bản thảo thất lạc đi đâu, không ai tìm ra. Nay ta tạm bằng lòng với biểu đối chiếu nghèo nầy ở đây vậy.
Ba hồn bảy vía đứa (con trai), con gái, đâu đi về cùng bố, cùng mẹ ăn cơm, ăn cá. *** Bố ơi chết bỏ ta làm sao vậy, thân mình ăn đâu ở đâu bơi! *** Ăn ra khói, nói ra lửa *** Để cho quỷ xa ma sợ *** Vía lúa ơi, về đụn về nhà mà ở!
|
Pa hôn pải plái on tứa, on kai, no tì vên kung pô kung mê, ăn kơm ăn ka. *** Pô ơi kết bô ta la no pò, thân hò ăn no ở no pô ơi! *** Ăn za khoê nói za lứa *** Tê co kwi sa ma đượi *** Plái ló ơi vên tun vên nhà ma ở! |
Còn một bản đối chiếu nữa rất là quan trọng ở chương sau, và xin xem lại trên 100 bản đối chiếu ở chương ngôn ngữ tỷ hiệu.
Thoạt nhìn vào bản đối chiếu, ta không dám kết luận cái gì cả. Người Pháp học tiếng Việt cũng nói lơ lớ như vậy thì người Mường cũng có thể là ngoại chủng đã chịu ảnh hưởng ngôn ngữ nặng của Việt Nam, chỉ có thế thôi. Nhưng mà không. Hăm bảy, họ nói Ba chín. Nếu họ học ta, sao họ lại không nói hăm bảy như ta? Chắc chắn đó là lối nói của Cổ Việt và người Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa nên biến khác đi, còn họ thì còn giữ được lối cổ.
Vua, họ nói là Bua, mà các sách của các cố đạo xưa tại Việt Nam cũng viết là Bua, thì hẳn xưa kia, Việt và Mường là một. Các cố đạo cũng viết Blời thay cho Trời, không phải là các cố đạo không biết âm Tr, mà dân ta xưa không có âm Tr. Người Mường cũng không có âm Tr, trái cây họ đọc là Tlai Kây. Trái ngang cho họ nói là Plái ngang, Trâu họ nói là Tlu. Họ thay âm V bằng âm Bi, y như người Chàm, mà chúng tôi chứng minh được rằng người Chàm cũng là Mã Lai đợt II.
Nếu họ học với ta thì họ nói Đâu, nhưng họ lại nói No là tiếng Việt rất cổ mà ta đã bỏ từ lâu, vì ta biến theo đà tiến bộ, còn họ thì không, vì họ không tiến nên không biến.
Trong văn thơ hiện đại của ta, ta cũng thường gặp “No nao”, có nghĩa là Đâu nào? Nào đâu?
Con heo họ nói là Kon Kwi mà tiếng Cổ Việt con heo gọi là Con Cúi đấy (chữ W đọc như chữ U).
Con chó, họ nói là Kon Khai, và cố đạo Cadière cho biết rằng chính nông dân Việt Nam ở Quảng Bình cũng còn gọi con chó là Con Khai, và Khai là hình thức cổ của danh từ Cầy.
Nhưng bằng chứng vô cùng quan trọng là động từ Chàm.
Nguyên trên các mặt trống đồng lớn có một bộ hình cho thấy một số người cầm gậy thọc xuống những cái gì như là cái trống. Đa số các nhà bác học Âu Châu nói rằng đó là giã gạo.
Nhưng nhà khảo cổ Lê Văn Lan đã lên xứ Mường và đã thấy người Mường ngày nay đánh trống đồng như vậy đó, tức dùng gậy mà thọc xuống mặt trống.
Người Mường gọi động tác ấy là Chàm mà chúng tôi thấy rằng đó là nguồn gốc của động từ Đâm của Việt Nam, không thể chối cãi được, khác hẳn giáo sư Lê Ngọc Trụ đã cho rằng nguồn gốc động từ Đâm của ta là động từ Chàm của Tàu.
Nhưng thử hỏi, dân Việt đã đúc trống và đánh trống trước khi Trung Hoa đến thì sao họ không có động từ Chàm mà phải đợi Mã Viện tới nơi để vay mượn động từ Chàm?
Người Mường chung đụng liên tục với ta, không bao giờ giữa hai dân tộc bị đứt đoạn hết. Vậy nếu họ đã học tiếng Việt thuở Việt còn nói Blời thay cho Trời, thì khi Việt tiến lên, họ cũng tiến lên theo, ít lắm cũng ở mặt ngôn ngữ.
Nhưng sự kiện lại khác hẳn là họ cứ giữ cái mà học được vào một thời nào đó, thì là làm sao? Chỉ có thể hiểu rằng cái đó là cái cố hữu của họ và của ta, chớ không phải cái mà họ học được, nhưng ta bị ảnh hưởng ngoại lai quá nhiều, còn họ thì xa các ảnh hưởng đó nên cứ giữ, còn ta thì biến.
Chúng tôi thấy quanh chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi đi học Saigon nói khác đi, còn các cụ còn ở làng, ông cha của chúng tôi, thì nói khác, mặc dầu không tháng nào mà chúng tôi không về làng, hồi tiền 1945, và mặc dầu các cụ không phải là không có đi chơi Saigon nhiều chuyến mỗi năm.
Không xa cách mà không thay đổi, tức là giữ gốc cũ, chớ không phải học theo mà theo không kịp. Hễ học theo thì cũng thay đổi theo, có trễ, nhưng vẫn có thay đổi.
Về tôn giáo thì người Mường thờ tất cả những gì ta thờ, với động từ Thờ và danh từ Đình của ta. Họ thờ Thánh Tản Viên y như ta và họ gọi núi đó là núi Ba Vì y như ta. Họ lại thờ đến ba vị thánh Ba Vì mà Madrolle cho rằng có lẽ Sơn Tinh, mà họ gọi là Nguyễn Tuấn y như ta, hai vị khác tên là Nguyễn Hương và Nguyễn Lang, y như ta.
Tại Mường Tlo, thần Tản Viên còn mang tên là vua Hùng Vương.
Họ cũng kể cho nhau nghe sự tích Sơn Tinh, Thủy Tinh y như trong gia đình Việt Nam.
Họ thờ Bà Cua On (Bà Chúa con gái) mà họ nói là quả phụ của vua Hùng Vương.
Truyện cổ tích về ông bình vôi của họ rất nhiều và truyện nào cũng giống hệt truyện Việt Nam.
Về nguồn gốc dân tộc thì họ kể chuyện một người con gái Mường tên là bà Ngu Kơ (Âu Cơ) lấy một ông hoàng tử tên là Long Wang (có lẽ là Lạc Long Quân), con của vua Yịt tức là vua Việt, (bởi ở chuyện khác họ nói vua Yịt là vua Hùng Vương). Bà Ngu Kơ đẻ ra một trăm cái trứng, nở ra 50 trai và 50 gái. Rồi thì vì xích mích với nhau, hai vợ chồng xa nhau. Hoàng tử Long Wang là loài cá ở nước nên mang con ra cửa sông, còn bà Ngu Kơ vốn là loài nai có bông hình ngôi sao, nên dẫn con lên rừng. Bà nầy làm vua trong rừng và quan dân kính mến bà nên ngày nay họ mới làm cờ mang hình con nai có bông ngôi sao để thờ Bà (ăn khớp với hình nai trong trống đồng mà các ông Tây bảo rằng bắt chước Trung Á!!!).
Loại nai có bông hình ngôi sao, người Pháp gọi là Cerf solaire và bông đó không có thật mà chỉ là hình tượng trưng của các dân tộc vừa thờ mặt trời vừa thờ nai.
Đây là người Mường lầm lẫn khi kể truyền thuyết. Họ tự nhận họ là con cháu của Âu Cơ, nhưng chúng tôi thì chủ trương rằng Âu Cơ chỉ là Âu tức Thái. Họ đúng và chúng tôi lầm. Không, chính họ đã lầm. Quả thật thế, dân Âu tự xưng là Nghê U và Tàu đọc theo đúng là Nghê U. Người Mường cũng đọc gần đúng là Ngu Kơ. Mà ngôn ngữ của Mường là ngôn ngữ Lạc bộ Mã, tức Mã Lai đợt II, chớ không phải ngôn ngữ Âu. Nhưng về Nai thì họ đúng, bởi người Thái không bao giờ thờ Nai cả, còn họ thì hiện đang thờ.
Nhà nho Nhượng Tống lên án Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Trích quái với Đại Việt Sử Ký toàn thư đã chắp nối truyền thuyết Mường vào sử ta, và sau nầy sử gia Nguyễn Phương cũng bắt chước Nhượng Tống thì tưởng hai nhà ấy hơi vội vàng.
Tại sao lại không nghĩ được rằng hai dân tộc xưa kia là một khi họ có chung truyền thuyết?
Trong Đại Việt Sử Ký toàn thư ngoại kỷ, Nhượng Tống đã tìm cách chứng minh rằng Lê Lợi là người Mường và xem ra thì ông thành công trong cách chứng minh đó.
Đây là suy luận của ông Nhượng Tống. Nhượng Tống công kích Ngô Sĩ Liên, cho rằng sử gia họ Ngô chắp nối truyền thuyết Mường như là vụ đẻ trăm trứng vào sử Việt, chỉ để vừa lòng trào Lê vì tổ sáng nghiệp Lê Lợi là người Mường. Ông viết: “Nếu không là người Mường, sao có tổ tiên đời đời làm phụ đạo ở Lam Sơn? Miền đó, tới nay, cũng vẫn còn là một miền Mường thuần túy”.
Ông Nhượng Tống đã thành công, ít ra cũng ở cái điểm Lê Lợi là người Mường, nó giúp ta kết luận rằng người Mường cũng giỏi như người Việt và không đố kỵ vào mình chút nào.
Còn việc lên án Ngô Sĩ Liên thì có thể oan cho họ Ngô. Họ Ngô chỉ ráp nối như vậy vì quan niệm như ta, là Mường và Việt đồng chủng với nhau, chớ nào phải để nịnh trào Lê có một ông tổ sáng nghiệp gốc Mường đâu.
Chính sự thành công của Nhượng Tống lại gián tiếp chứng minh rằng Mường và Việt chỉ là một, trông họ lạc hậu hơn ta, nhưng họ vẫn sáng nghiệp vương được tại nước Việt (mà sáng một cách anh dũng bằng cách lãnh đạo chống xâm lăng, chớ không phải sáng nhờ mưu của một nhà sư như Lý Công Uẩn hay nhờ lấy thế ngoại thích như nhà Trần) thì họ phải là ta, họ mới giỏi như vậy, chớ họ không phải là Mường Mọi gì hết.
Cô J. Cuisinier cho biết rằng ở Nghệ An, quanh Phủ Quỳ có những người Việt chậm tiến mà người ta lầm tưởng là người Mường, nhưng cô nghiên cứu họ thì thấy rằng họ là người Việt, mặc dầu họ nói giọng Mường với các thổ âm Mường.
Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng: có người Việt chậm tiến. Và thứ người Việt chậm tiến lại ở quanh Phủ Quỳ tức quanh một vùng Mường danh tiếng.
Chúng tôi đã tìm biết người Việt chậm tiến ấy là ai, và đã tìm được. Sử ta chép rằng năm 1448, ta thôn tính rợ Tồn Bồn, lấy đất của họ đặt là Châu Quy Hợp (nay là Phủ Quỳ, Nghệ An).
Tồn Bồn man mà sử ta chép có lẽ là một số bộ lạc Lạc Việt chậm tiến và sáng kiến đó là của ông vua con của vua Lê Lợi, chỉ có dòng họ Lê Lợi ở gần đó mới biết rõ thứ “man” nầy và mới nghĩ ra cách Việt hóa họ, vì thấy họ đồng chủng với ta.
Cô J. Cuisinier rất dè dặt, không dám khẳng định cái gì mà chỉ trình bày sự kiện thôi, trong hằng vạn sự kiện nho nhỏ như vậy, vì cô chỉ nghiên cứu người Mường, chớ không phải tìm nguồn gốc dân tộc Việt Nam như ta, nhưng ta thì không thể làm ngơ trước những sự kiện đó.
Có phải chăng vì họ và ta là một mà họ không tự xưng là gì hết mà chỉ giản dị là Người Trong (Mwai Tlong) và gọi ta là Người Ngoài (Mwai Ngoài)?
Cô J. Cuisinier đã thấy toàn thể người Mường nhuộm răng đen, một số xâm mình, toàn thể ăn trầu, và họ có đồng bóng, và điều nầy quan trọng hơn hết là họ có trống đồng loại lớn mà họ đang sử dụng, chớ không phải trống đào được dưới đất đem lên để coi chơi. Chỉ có quan Lang mới có trống đồng và số tia của ngôi sao càng nhiều, khi quan Lang càng mạnh thế, nhưng thường thì chỉ có 7 tia, 8 tia. (Những ngôi sao 24 tia, hẳn phải là của các Lạc Hầu, Lạc tướng và của vua Hùng Vương).
Giáo sư Kim Định đã nhấn mạnh về những con số 8, 16, v.v. của các tia ngôi sao, để lôi kéo Việt vào Trung Hoa, nhưng có những ngôi sao 7 tia đó ông ạ, và con số 7 thì không thể lôi kéo được như 8, 14 và 24 nữa.
Có một chi tiết nhỏ nầy mà người Việt Nam không ai biết cả. Ta chỉ biết có danh từ Quan Lang, nhưng danh từ Lang thì không bao giờ có người Việt nào nói đến.
Lang trong xã hội Mường là một Thái ấp nhỏ gồm vài ba thôn (Fief féodal). Chắc chắn nó là hình thức trung điệp của danh từ Làng ngày nay, còn hình thức ban đầu là danh từ T’lang của Mã Lai Sumatra ngày nay.
Quan Lang là quan cai trị một lang (chef du fief) chớ không phải là một danh từ kép có nghĩa riêng biệt mà tách rời ra thì hết nghĩa như ta tưởng. Quan Lang nói tắt là Quan cai trị một lang. Ta chỉ biết có Quan Lang mà không bao giờ biết cái Lang của họ là cái gì cả.
T’lang = Lang = Làng
Rõ ràng như ban ngày.
Và người Mường thuộc đợt di cư II, y như người Mã Lai Nam Dương.
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng họ thuộc đợt di cư II, tức đợt lưỡi rìu chữ nhựt, tác giả trống đồng và chỉ là dân Lạc Việt bổ sung cho dân cũ cổ hơn họ đến 2.500 năm.
Trong xã hội ta, tuy còn trống đồng thau thờ trong một vài làng hiếm hoi nhưng không còn truyền thuyết về trống đồng, nhưng trong xã hội Mường thì còn. Truyền thuyết nầy cho ta biết có vua Hùng Vương và Hùng Vương thuộc đợt I.
Truyền thuyết Mường kể rằng vua Yịt (Việt) – mà ở truyền thuyết khác thì nói rõ rằng vua Yịt là vua Hùng Vương – có hai người con gái là cô Ngân và cô Nga. Hai cô đi tắm thấy một trống đồng thau trôi trên mặt biển rồi tắp vào bờ. Hai cô cho vua cha hay tin đó, và vua Yịt cho người mang trống về.
Nhà vua cho gọi thợ ở từ phương Đông, từ phương Tây, từ phương Bắc và từ phương Nam đưa thau, đưa khuôn, bảo họ đúc 1960 cái trống rồi phát cho các lãnh chúa mỗi người một cái.
Sau, vua thăng hà, người ta dùng trống trong tang lễ. Người ta đánh trống để gọi hồn người chết!
Ở đây, ta thấy rõ rằng người chép truyền thuyết phải chép trung thực, không nên thêm bớt, vì sự thật nằm trong đó, nếu ta thêm bớt thì sự thật sẽ biến mất và không còn làm sao mà hiểu đúng ý người xưa muốn gởi gắm việc quan trọng trong đó.
Cô J. Cuisinier đã bảo đảm là chép trung thực, nên chúng tôi mới khám phá ra một sự thật lớn: vua Hùng Vương thuộc đợt I.
Trong truyền thuyết nầy có vài điểm vô lý mà ta cần giải thích. Và trong những sự vô lý đó, đã cho thấy vài sự thật lớn về thượng cổ sử của ta.
Theo lời kể thì vua Việt không có phát minh ra loại trống đó, mà chỉ cóp theo một cái trống bắt được thôi. Nhưng mà thợ trong nước của ông thì đã biết nghề đúc đồng thau rồi, nên họ mới thừa hành mạng lịnh của ông được.
Và quả người ta đã tìm thấy lưỡi rìu tay cầm bằng đồng pha ở núi Voi. Thế nghĩa là đợt I, tại địa bàn Cổ Việt cũng đã tự lực tiến lên đến thời đại đồng thau, sau 2.500 năm định cư ở Cổ Việt, trước khi bọn có trống là đợt II tới nơi. Không phát minh trống đồng thau, mà lại có sẵn thợ là vì lẽ đó, chớ không vô lý, không mâu thuẫn chút nào hết.
Trống thau không thể trôi trên mặt biển vì cái lẽ giản dị là nó không có hai đáy, mà chỉ có một mặt thôi. Người ngoại quốc đưa tới chăng? Cũng không, vì ngoại quốc văn minh có tiếp xúc với Hùng Vương thuở đó chỉ có thể là người Tàu, mà người Tàu thì không có chế tạo trống thau, hơn thế, cổ thư của họ lại xác nhận trống thau là của dân Việt.
Tới đây thì khoa khảo tiền sử lại bước trở lên ngai vàng. Vua Hùng Vương là vua của đám lưỡi rìu tay cầm, tức đám Lạc bộ Trãi di cư cách đây 5 ngàn năm.
Trống là phát minh của bọn lưỡi rìu hình chữ nhựt, 2.500 năm sau mới đến, sau khi làm chủ Hoa Nam và bị Hoa tộc đánh đuổi tại Hoa Nam.
Và bọn sau cũng tới bằng đường biển chớ không phải chỉ chạy bộ, đó là hình ảnh đúng của truyền thuyết mù mờ về sự kiện trống trôi trên biển.
Trống đồng thau không thể trôi trên mặt biển lâu hơn 10 phút mà không chìm, và cái huyền thoại của cô Ngân, cô Nga chỉ ngụ ý là trống do kẻ đi biển đưa tới mà thôi.
Cô J. Cuisinier không có theo dõi khoa khảo tiền sử, không có theo dõi vụ Đông Sơn, nên cô không giải thích gì hết, chỉ chép truyền thuyết dân Mường, nhưng cuộc ghi chép lạnh lùng của cô rất là quan trọng đối với ta.
Và không có truyền thuyết nào về sự kiện vua Hùng Vương bị ai diệt cả, trừ có sử về ông vua Hùng Vương cuối cùng bị tên Phán diệt, thế nghĩa là bọn tới sau thiểu số, chịu phục tùng vua sẵn có.
Thanh Hóa chỉ là một trung tâm của bọn khách trọ đó, hoặc là một tiền đồn của nước Văn Lang, vì chúng tôi sẽ chứng minh rằng Cửu Chân, Nhật Nam là đất của bọn lưỡi rìu hình chữ nhựt chậm tiến, nhưng thích độc lập mà vua Hùng Vương muốn thống nhứt, và đã thành công, nhưng còn lỏng lẻo.
Như thế thì phải đặt tại Đông Sơn một tiền đồn để thực thi chánh sách tàm thực và bảo vệ vùng văn minh phía trên Đông Sơn.
Và có vua Hùng Vương hay không? Thiên hạ đã cãi nhau từ mấy mươi năm nay về Lạc Vương và Hùng Vương, nhưng chưa ngã ngũ ra sao cả. Chính người Mường đã xác nhận là có vua Hùng Vương, vì trong các truyền thuyết khác, họ gọi ông ấy là Bua Hùng Wang, chớ không gọi là Bua Yịt nữa.
Tất cả các truyền thuyết Mường, xét thật kỹ đều cho ta biết những sự kiện chắc chắn sau đây:
1. Vua Hùng Vương thuộc Mã Lai đợt I, còn người Mường thì thuộc loại Mã Lai đợt II. Quả thật thế, không bao giờ trong truyền thuyết họ gọi Hùng Vương là “Đức vua của ta” mà luôn luôn họ gọi ông ấy là “Ông Bua Yịt” hoặc Bua Hùng Wang.
Họ kể chuyện gả con gái cho vua Yịt, nghe lối kể, thì y như họ là người ngoại quốc, chớ dân của một nước, gả con gái cho vua của nước ấy không bao giờ mà nói là gả cho vua Yịt mà nói là gả cho nhà vua.
Thế nghĩa là họ chỉ là khách trọ được nhận vào cộng đồng đó, vẫn thờ kính Hùng Vương nhưng cứ xem đó là vua của cộng đồng khách chớ không phải là cộng đồng của họ.
2. Mã Lai đợt I thuở di cư sau biến cố Hiên Viên chỉ có lưỡi rìu tay cầm bằng đá, nhưng tự lực tiến lên giai đoạn đồng pha, trước khi bọn đợt II tới nơi. Đó là bọn có trống đồng thau. Bằng chứng thấy rõ trong truyền thuyết: vua Hùng Vương không hề phát minh trống đồng nhưng lại đã có sẵn thợ đồng để đúc trống do ngoại nhân đưa tới.
Sự kiện trên đây được khoa khảo tiền sử xác nhận là người ta đã tìm được lưỡi rìu tay cầm bằng đồng pha tại núi Voi (Yên Hưng).
3. Tới đây thì vụ án Hùng Vương, Lạc Vương mà H. Maspéro đã đưa ra và sử gia Nguyễn Phương làm rùm lên, là một cuộc vu cáo. Người Mường không hề biết sách Tàu viết Lạc Vương hay Hùng Vương, nhưng họ gọi cái ông vua vay mượn trống đồng là Bua Hùng Wang. Thế nghĩa là Hùng Vương có thật, chớ không phải là một sự lầm lẫn tự dạng. Nếu sự lầm lẫn ấy mà có, thì người Mường không thể biết được mà lầm lẫn theo người Việt, bởi họ không có bao giờ viết sử để mà phải lầm tự dạng.
Nhưng có thế nào mà họ bịa ra ông vua đó hay không? Chắc chắn là không vì “Bua Hùng Wang” chẳng làm cho họ hãnh diện thêm, oai hùng thêm chút nào cả, trái lại họ còn xách mé gọi tên ông ấy, chớ không kính cẩn gọi Đức Vua, hay vua tổ như ta. Không ai bịa làm gì một nhơn vật mà họ không kính nể bao nhiêu.
4. Danh xưng Việt đã có rồi vào thuở đó, nhưng dưới hình thức YỊT. Chúng tôi đã bảo rằng đó là danh từ của ta, dùng để chỉ loại rìu Quốc Oai, rồi Tàu vay mượn biến thành danh xưng, thì dĩ nhiên là ta đã phải có trước khi bị Tàu cai trị. Và quả Tàu đọc chữ Việt khá giống người Mường:
Yịt = Yue
Chúng tôi thiết âm Yue, không đúng lắm, chớ Quan Thoại đọc Yue khá giống Yịt.
Cả hai lần, ở Hoa Bắc và Hoa Nam, để gọi ta, họ đều phiên âm, chớ không có tự ý đặt tên ta.
Việt chỉ là lối đọc sai của các nhà Nho sau nầy, họ đọc sai hàng vạn chữ, đôi khi sai một cách dị kỳ: Tsin Tu = Thận đọc, Xửa = Thiệt, Pin = Tân.
Đây là vụ án lịch sử mà ta cần làm cho ra lẽ, như vụ án chữ Lạc, không thôi ông Đào Duy Anh cứ nói Lạc là con chim Lạc, và nhiều tác giả đã bị sử gia Nguyễn Phương hù, hoảng hốt tái bản sách, bỏ mất chữ Hùng Vương.
Ông H. Maspéro vớ được quyển Thủy Kinh Chú và quyển Nam Việt Chí thấy trong đó Thủy Kinh Chú viết chữ Lạc rất lạ hơi giống chữ Hùng còn N.V.C. thì bỏ Lạc viết hẳn Hùng, ông vội la hoảng lên là N.V.C. đã lầm tự dạng Lạc Vương ra Hùng Vương.
Như đã nói, ông H. Maspéro mắc bịnh tố cáo những sai lầm tự dạng mà ông ấy tưởng tượng là có chớ người học chữ Tàu đời xưa, hễ sai một nét là bị đòn chết người, phương chi đó là những ông viết sách, mà thời xưa, viết sách không in được, không bán được để kiếm tiền thì chỉ có những người thật giỏi chữ nghĩa mới viết cho vui thôi, họ có sai là sai về sự kiện lịch sử, chớ về tự dạng thì không bao giờ. Hai chữ Lạc và Hùng khác nhau khá xa, có bị mọt gậm còn một nét, cũng không thể lầm lẫn được.
Nhưng lý lẽ vững hơn hết là các sử gia ta viết Hùng Vương là viết theo truyền thuyết chớ không phải bắt chước N.V.C. như ông H. Maspéro nói và ông Nguyễn Phương bắt chước nói theo, thì không làm sao mà có vấn đề lầm tự dạng được cả, trong sách của ta.
Ta có một chứng tích, không thể chối cãi, là cái bài vị ở đền Hùng. Bài vị đó, không có viết là Hùng Vương mà bảo rằng bài vị cũng sai tự dạng.
Chữ đề trên bài vị là:
Đột ngột cao sơn, Cổ Việt Hùng thị.
Đây là một vấn đề mới lạ nữa, mặc dầu bài vị đó ai cũng biết. Vấn đề mới lạ vì chưa ai đặt ra lần nào.
Theo ông L. Bézacier, quản thủ các di tích lịch sử Việt Nam cho tới 1945, thì đền thờ có lẽ được xây vào đời nhà Lý, tức sau ông Hùng Vương 18 đến hơn một ngàn năm.
Người viết bài vị, dĩ nhiên là viết theo truyền thuyết, y như các sử gia ta, nhưng có khác là họ không viết Hùng Vương mà lại viết Hùng Thị. Thế nghĩa là họ có biết cái gì, chớ không chịu ảnh hưởng của ai cả.
Nếu họ bắt chước T.K.C. hay N.V.C. họ đã viết CỔ VIỆT HÙNG VƯƠNG chớ không thể nào họ lại viết CỔ VIỆT HÙNG THỊ hết.
Hùng Thị là cái gì? Là Thị tộc Hùng. Người ta kỷ niệm một thị tộc chớ không phải thờ một cá nhân. Cái thị tộc đã dựng nước Văn Lang ấy.
Thị tộc Hùng có vua. Vì không nhớ tên, không nhớ hiệu, nên dân chúng gọi là vua Hùng Vương, tức vua của thị tộc Hùng.
Cổ Việt Hùng Thị là gì? Chúng tôi đã thử cắt nghĩa rồi và phải hiểu bằng hai cách. Nếu đó là Cổ Việt Hùng Thị thì đó lại là thị tộc Hùng ở đất Cổ Việt. Bằng như là Cổ Việt Hùng Thị thì lại là thị tộc Hùng Việt đời xưa.
Cả hai đều nói đến một thị tộc, thị tộc Hùng, hoặc Việt Hùng chớ không hề nói đến ông vua Hùng Vương nào hết.
Nhưng đừng tưởng rằng đó là bằng chứng dùng để phủ nhận Hùng Vương mà trái lại để xác nhận. Bằng chứng ấy cho biết rằng ký ức của dân chúng thọ một cách lâu dài, hàng ngàn năm, họ còn nhớ được chuyện xưa, vì trong sách Tàu không có chuyện Việt Hùng nào hết. Ta chỉ viết theo truyền thuyết.
Truyền thuyết còn nhớ thị tộc Hùng Vương thì truyền thuyết nhứt định phải nhớ vua Hùng Vương.
Mà không phải là chúng tôi đoán mò. Tất cả truyền thuyết của người Mường đều nói đến vua Hùng Vương mà người Mường thì không có đọc Việt Diện U Linh và Lĩnh Nam Trích Quái bao giờ để nghĩ rằng họ bị ảnh hưởng của hai quyển sách đó như sử gia Nguyễn Phương đã nghi oan cho Ngô Sĩ Liên mà cho tác giả của hai quyển sách cũng không có bịa, họ chỉ viết theo truyền thuyết mà thôi.
Không có gì để kết luận, bởi chuyện đã tự nó hiển nhiên như vậy. Chữ Hùng là chữ chánh chớ không phải chữ Lạc. Nếu không có ông vua nào lấy hiệu là Hùng Vương đi nữa thì Hùng cũng chỉ là một thị tộc.
Chủng tộc là chủng Việt, Chi là Chi Lạc, nhưng trong Chi Lạc phải có nhiều thị tộc. Chúng tôi có nói đến một thứ người Việt cổ sơ hơn người Mường ở chương sau, chương Làng Cườm sống dậy. Ấy, thứ người Việt đó hiện tồn tại và họ tự xưng là Lạc nhưng lại chia ra thành hai thị tộc, thị tộc K’pong và thị tộc Yru.
Vả lại Tàu họ nói có ông vua của dân Lạc (Lạc Vương) chớ không có bao giờ họ bảo rằng Lạc Vương tên gì, hiệu gì, có thể họ không biết tên ông, không biết hiệu ông. Tiếng Lạc Vương của họ không bao giờ có ý phủ nhận danh hiệu hay vương hiệu Hùng Vương của ta như ông H. Maspéro và các đệ tử của ông tưởng lầm.
Họ biết có dân Lạc của chủng Việt, nên họ gọi dân đó là Lạc Việt. Nhưng vì không có bang giao mật thiết với dân Lạc Việt họ không thể biết chi tiết nội bộ chánh trị và hành chánh của dân Lạc Việt, ngoài sự kiện dân đó có vua.
Trong điều kiện dốt tình hình Văn Lang ấy, họ chỉ còn có một cách độc nhứt là gọi ông vua của dân đó là Lạc Việt, tức vua của dân Lạc.
Danh xưng Lạc Vương không phải là danh xưng như ông H. Maspéro đã đoán liều. Nó chỉ có nghĩa là Roi des Lạc. Mà như vậy thì cổ sử Trung Hoa không có sai. Trái lại họ rất khoa học và dè dặt. Khi họ không biết tên, không biết hiệu của ông vua đó, họ làm thinh mà chỉ gọi ông vua ấy là vua của dân Lạc.
Ta đã thấy Lưu An, tác giả Hoài Nam Tử, đã dè dặt như vậy khi chép rằng đạo binh viễn chinh của Tần Thỉ Hoàng đã cho quân đóng lại biên giới đất Nam (Nam dã chi giới). Họ hoàn toàn mù tịt về nước Văn Lang, trong khi họ biết quá rõ nước Tây Âu, Mân Việt, với cả tên cúng cơm của các vua ấy nữa, nên Lưu An chỉ nói là biên giới đất Nam, mà không nói gì rõ hơn.
Dưới đây là một câu chuyện ngộ nghĩnh. Chúng tôi có vào một nhà thờ Tin Lành để nghe giảng đạo một lần.
Ông Mục sư hỏi các con chiên:
- Các người tin rằng có Đức Chúa Trời hay không?
Thiên hạ đều im lặng.
Mục sư lại nói:
- Có, tôi có bằng chứng rất khoa học là có Đức Chúa Trời. Bằng chứng đó là Con Quỷ Sa Tăng nó có nói đến Đức Chúa Trời. Nếu không có Đức Chúa Trời sao con Quỷ Sa Tăng lại nói có?
Chúng tôi bật cười, vì nếu suy luận như thế thì còn phải chứng minh rằng có con Quỷ Sa Tăng nữa mới được.
Nhưng ở đây, kẻ nói rằng có BUA HÙNG WANG là kẻ có thật, chớ không như con Quỷ Sa Tăng. Kẻ đó là người Mường bằng xương bằng thịt.
Chỉ có ông H. Maspéro là sai, và những đệ tử trung thành của ông là sai khi hiểu lầm sách Tàu, rồi tố cáo sách ta.
Hai người viết sách, một đàng không biết chi tiết, dè dặt chỉ nói Lạc Vương là đáng khâm phục lắm, một đàng biết chi tiết, nói rõ hơn là Hùng Vương thì cả hai đều đúng sự thật. Chỉ có những người bắt buộc Việt Nam phải nô lệ Trung Hoa mới ngỡ thấy Việt Nam sai, Trung Hoa đúng mà thôi.
Câu chuyện thật là ngộ nghĩnh. Một ông Tây tố cáo sử gia Tàu và sử gia Việt viết sai chánh tả Tàu.
Ngộ nghĩnh hơn nữa là tánh cách của các cuộc tranh luận. Các học giả ta chia ra làm hai phái, phái theo ông Tây H. Maspéro, phái chống, nhưng cả hai đều tức giận ghê hồn.
Bình tĩnh chớ! Ông Maspéro chỉ mắc bịnh tố cáo chánh tả như Văn Lang, Dạ Lang, Hùng Vương, Lạc Vương mà viết ra vậy thôi chớ ông ấy bình tĩnh lắm.
Còn ta, vua tổ của ta hiệu là gì; nào có đáng giận ai nói sai đâu.
Ta nên bình tĩnh mới tìm ra sự thật được, chớ hễ tức giận là đã có khuynh hướng rồi, tức giận là bị ám ảnh rằng mình là đúng, kẻ khác là sai.
Trước hết, thiên hạ nói đến một quyển cổ thư mà không ai thấy bao giờ, đó là quyển Giao châu ngoại vực ký, chỉ thấy sách khác trích lại. Nhưng cũng không ai biết những đoạn trích dẫn có trích đúng hay sai, vậy mà cứ xem G.C.N.V.K. là khuôn vàng thước ngọc thì hơi trái lẽ. Nhưng ta vẫn cứ phải lấy T.K.C. làm chứng, mặc dầu không biết nó có chép đúng theo sách được dẫn hay không.
Quyển “Thủy Kinh Chú” trích dẫn G.C.N.V.K. thì giá trị của nó như sau đây:
Xin nhắc lại số tạp chí dày 480 trang khổ lớn, tạp chí Hán Học xuất bản tại Bắc Kinh 1947. ông R.A. Stein thường dựa vào quyển sách đó, nhưng ông ấy có báo động cho độc giả biết những điều sau đây: Lệ Đạo Nguyên, tác giả quyển T.K.C. là một Lão gia, tức người theo chủ trương Lão Tử. Sách của phái Lão gia rất bê bối về các mặt khác.
Sở dĩ ông R.A. Stein dùng sách ấy vì mặc dầu khuyết điểm trên, sách của phái Lão gia lại vô địch về địa lý. Muốn học địa lý cổ thời, nên tin sách của phái Lão gia hơn các sách khác, Lão gia lại là một phái chuyên viên nên sách của họ đầy dẫy chi tiết thiên văn, nông nghiệp, cổ tích địa phương, giúp ta biết rõ đời sống dân chúng vào thời đó. Người ta biết được kỹ thuật nông nghiệp thời Xuân Thu và Chiến quốc của Tàu cũng chỉ nhờ các cách của phái Lão gia, còn bao nhiêu sử sách khác tuyệt nhiên không đả động tới những chuyện mà họ cho là lặt vặt không xứng đáng với kẻ sĩ.
Vậy ta nên ghi nhớ là Thủy Kinh Chú rất bê bối về sử và tự dạng.
Nam Việt Chí viết Hùng Vương.
Thủy Kinh Chú viết Lạc Vương, với chữ Lạc thứ ba.
Đó là chữ Lạc trông hơi giống chữ Hùng, Các + Chuy.
Tác giả Nam Việt Chí cũng là một bậc danh nho, lại thuộc phái nghịch với phái Hoằng Lão của Lệ Đạo Nguyên không thể nào mà lại hoan nghinh chữ Lạc của T.K.C. để biến chữ Lạc ấy ra là Hùng.
Tác giả Nam Việt Chí viết Hùng, có lẽ vì ông ấy có tài liệu riêng về dân ta mà không ai biết.
Nam Việt Chí không lầm và ta không lầm Nam Việt Chí có tài liệu riêng lạ, còn ta, ta viết theo truyền thuyết, đâu có tự dạng để mà lầm:
Nhưng chỉ tại các ông không biết rằng có một thứ dân tên là Lạc bộ Chuy, đó là rợ Khuyển Nhung, không biết có con sông Lạc bộ Chuy ấy ở Thiểm Tây, cứ biết có mỗi con sông Lạc bộ Trãi ở Bắc Hà Nam, nên mới cãi nhau ầm ĩ, chớ thật ra thì Lệ Đạo Nguyên không có lầm tự dạng vì quả Lạc bộ Chuy cũng có mặt ở Cổ Việt, bằng chứng là ngôn ngữ ta đầy dẫy danh từ Môn, Khơ Me Miến Điện, hậu duệ của Khuyển Nhung, tức Lạc bộ Chuy.
Lạ lắm là vấn đề đó quá cũ (1918) nhưng đến năm 1964 sử gia Nguyễn Phương nhắc lại (mà không nói là do H. Maspéro đặt ra) thì nhiều học giả Saigon lại hoảng hốt lên, có người cho tái bản sách của mình với sửa chữa về Hùng Vương một cách âm thầm, có người viết bài đăng báo minh định lập trường rằng mình còn đang nghiên cứu lại, mặc dầu thuyết H. Maspéro sai quá rõ rệt.
*
* *
Các ông Tây phủ nhận Hùng Vương, tuy sai, nhưng vẫn có dựa vào cái gì, nhưng khi phủ nhận Văn Lang thì họ chỉ vu khống suông rằng ta lầm Văn Lang với Dạ Lang bên Tàu.
Nhưng đã có bằng chứng là ta đã lập quốc rồi, trước khi An Dương Vương đến, tức trước cả khi người Tàu Triệu Đà đến nữa. Chính sử Tàu đã chép rằng An Dương Vương đánh dẹp vua ta. Các ông Tây rất tin sử Tàu, nhưng ở đây thì các ông giấu nhẹm đoạn sử Tàu đó. Tại sao vậy? Chánh trị đã chi phối khoa học chăng, và sự giấu nhẹm và phủ nhận đó có phải chăng để tạo mặc cảm kém cỏi nơi ta?
Nếu quả thật ta sống dưới chế độ bộ lạc thì những Lạc tướng mà Tàu giữ lại để dùng là chính những tù trưởng của các bộ lạc ấy. Nhưng Tàu có biết chế độ tù trưởng của ta, tại sao không gọi họ là tù trưởng, mà gắn cho họ các chức Hầu và Tướng.
Rõ ràng Lạc tướng là cán bộ quân chánh của Vua để lại, mà như vậy thì chắc chắn là ta đã có lập quốc, đã có vua.
Nếu ta chưa dựng nước, chưa có một ông vua thống nhứt được các bộ lạc thì Thục Phán đánh ai để cướp đất Cổ Việt? Sự kiện Thục Phán đã diệt một ông vua của dân Lạc Việt, được cổ sử Trung Hoa ghi chép, không còn là ức thuyết nữa, và chính cuộc xâm lăng của Thục Phán đã gián tiếp chứng minh rằng một tù trưởng Lạc Việt đã thu phục được các tù trưởng khác để dựng nước làm vua. Đó là điều chắc chắn, tưởng không còn là một vấn đề lòng dòng nữa.
Còn nước ấy tên là gì, vua ấy tên là gì, hiệu là gì, thì chỉ là chuyện phụ mà thôi. Nhưng các ông ngoại quốc, lại cố ý lấy chuyện phụ phủ nhận chuyện chính, phủ nhận tên Văn Lang, tên Hùng Vương để rồi phủ nhận luôn rằng ta không có vua trước khi người Tàu đến thì thật là một sự xuyên tạc mà ta không thể nín.
Thảm lắm là sau 1945, có sử gia ta ở xứ nầy, cũng lặp lại luận điệu của các ông Tây để ngầm nói rằng ta chưa lập quốc vào thuở đó thì ta lại càng không thể nín hơn.
Đành rằng dầu sao, các bộ lạc, các tù trưởng cũng tồn tại sau khi nước Văn Lang hay nước gì đó không biết, được dựng lên, nhưng họ đã thành quan của vua đó rồi, chớ không còn độc lập trong bộ lạc của họ như trước đó nữa.
V.Đ.U.L. và L.N.T.Q. chỉ chép theo truyền thuyết của dân gian chớ tác giả hai quyển ấy không có bịa cái gì cả, Ngô Sĩ Liên cũng viết đoạn sử đó theo truyền thuyết chớ không có cóp lại quyển sách trên như Nhượng Tống đã tố cáo và sử gia Nguyễn Phương phụ họa theo.
Dân chúng hoàn toàn không hề biết Động Đình Hồ vì họ không có học địa lý của Trung Hoa, và khi mà họ truyền miệng cho con cháu họ nghe rằng biên giới xưa của nước ta là Động Đình Hồ, là nói sự thật một trăm phần trăm.
Truyền thuyết Mường về việc dựng nước của vua Hùng Vương cũng đúng một trăm phần trăm, vì cái lẽ giản dị là người Mường chưa bao giờ đọc Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Trích Quái và Ngô Sĩ Liên.
Nhượng Tống mắng Ngô Sĩ Liên là “ngây thơ” khi họ Ngô “lượm lặt chuyện Mường ráp vào sử ta”.
Dịch Ngô Sĩ Liên, nhưng lấy danh từ kép quốc ngữ Mường - Mán để thay cho Man di, trong nguyên văn chữ nho. Trong tư tưởng của Nhượng Tống, Mường là dân mọi rợ thì không sao đồng tông với ta được và ráp nối chuyện Mường với chuyện Việt là bậy bạ.
Nhưng Ngô Sĩ Liên không có ngây thơ tí nào cả. Chúng tôi có bằng chứng rằng vào thời Ngô Sĩ Liên, ta còn nói tiếng Mã Lai chưa biến dạng như ngày nay, người Mường cũng thế, thì Ngô Sĩ Liên phải biết rằng ta và Mường là đồng bào ruột thịt.
Bằng chứng ấy đã được đưa ra rồi, nhưng cũng xin nhắc lại. Cứ theo một quyển du ký của một người Âu thì dưới thời Trịnh Nguyễn, ta còn gọi cái cửa là Pan y hệt như người Thượng vốn là Mã Lai.
Còn Cửa sông, Mã Lai gọi là Kưala, thì Ngô Thì Sĩ phiên âm là Cô La trong sách viết bằng chữ Hán của ông. Đó là vì viết chữ Tàu, chớ viết chữ Nôm thì ông đã viết đúng được là Cửa La.
Cái Cô La đó, ngày nay ta gọi là Cửa Lò, tức nói tiếng Mã Lai sai giọng, nhưng chỉ mới sai đây thôi, còn dưới thời Trịnh Nguyễn thì không. Nếu dưới thời Ngô Thì Sĩ mà ta đã gọi nơi đó là Cửa Lò thì chắc chắn là Ngô Thì Sĩ không phải phiên âm là Cô La, mà dịch là Lô Khẩu. Tất cả các địa danh gốc Chàm và gốc Miên bị Việt hóa ở Đàng Trong đều được dịch nghĩa, thí dụ Ba Giồng, dịch Tam Phụ. Nơi nào chưa được Việt hóa thì sử ta mới phải phiên âm, như Cô La chẳng hạn.
Chẳng những N.T. quan niệm dân Mường là dân mọi rợ, ông còn dùng cái danh xưng đó để làm danh từ chung để chỉ mọi rợ, y hệt như sử gia Nguyễn Siêu cách đây trên hai trăm năm.
Ta có thể chắc một trăm phần trăm rằng Nhượng Tống không có đọc lấy một quyển sách Việt hay Pháp nào về dân Mường cả, sử gia Nguyễn Phương cũng vậy, hồi sử gia nầy viết quyển V.N.T.K.S. nên mới phụ họa theo Nhượng Tống mà mạt sát Ngô Sĩ Liên nặng lời đến thế.
Đành rằng sử gia họ Ngô thường suy luận phản khoa học theo lối các nhà nho xưa, nhưng không phải luôn luôn họ Ngô sai lầm, nhứt là về truyền thuyết, nhứt là về người Mường. Nhà Nho Nhượng Tống, mặc dầu có Tây học vẫn chưa thoát được khỏi cái xác nhà Nho, và khi muốn làm nhà khoa học, ông lại cực đoan.
Nói như vậy, không có nghĩa là cho rằng Ngô Sĩ Liên viết sử đúng, nhưng tất cả Đ.V.S.K.T.T.N.K. vẫn có chỗ không sai, chớ không phải là viết liều từ đầu sách đến cuối sách.
Như đã nói, việc khảo sọ nơi người Mường không thành công, mặc dầu ông Madrolle đã khẳng định rằng quả họ thuộc chủng Cổ Mã Lai. Nhưng sọ Mường nhỏ hơn sọ Việt và sọ các nhóm Mã Lai khác.
Nhưng bằng vào quan sát và nhận xét của cô J. Cuisinier thì việc đó cắt nghĩa được dễ dàng là họ đã lai giống với người thổ trước, bé nhỏ và có cái mẫu người khác xa họ, khác đến cái mức mà nhìn bằng con mắt người thường cũng biết được, chớ không cần việc khảo sát của khoa học.
Ta cũng có lai giống Mê-la-nê, nhưng ta sống khác, sự xáo trộn chủng tộc vì thế được xóa mất trong xã hội ta, còn người Mường thì sống xưa sao nay vậy, cưới gả với nhau trong làng, không hề đi đâu cả, thành thử dấu vết xưa cứ tồn tại nơi cơ thể, vóc dáng của họ.
Nhưng theo cô J. Cuisinier thì Madrolle vẫn có lý vì cô tìm được dấu vết Mã Lai nơi người Mường, qua một huyền thoại dưới đây.
Một huyền thoại của họ giống hệt huyền thoại Mã Lai ở nước Anh-đô-nê-xia, đó là huyền thoại Bà Chúa Kon (Bà Chúa con gái) và huyền thoại Patri Sadong của Mã Lai do nhà bác học N.W. Skeat đối chiếu.
Huyền thoại Bà Chúa Kon kể rằng một cô con gái Mường lấy vua Hùng Vương, sau góa chồng trở về làng, mất đi, và hiển thánh nhờ hai con cá vàng. Truyện Patri Sadong cũng y hệt như thế chỉ khác tên vua mà thôi. Và điều đáng chú ý hơn hết là truyện Mã Lai xuất hiện ở một xứ không có núi đá vôi mà lại lấy khung cảnh núi đá vôi của vùng Hòa Bình của ta. Huyền thoại đi theo bước Nam thiên của chủng Mã Lai mà quên thay đổi khung cảnh, cứ nói đến vùng núi đá vôi mãi, khi họ tìm được địa bàn mới là đồng bằng Anh-đô-nê-xia không có núi đá vôi.
Nếu thuyết của N.W. Skeat mà đúng (nhưng khó lòng mà thuyết ấy không đúng), thì người Mã Lai Anh-đô-nê-xia đích thị là Lạc Việt đợt II di cư xuống đó, mà không phải di cư từ bên Tàu đâu mà di cư từ vịnh Thanh Hóa, Nghệ An.
Thuyết nầy không trái ngược với cổ sử các đảo Mã Lai, vì theo sử Ấn Độ thì tới năm 78 S.K., tức sau năm Mã Viện đánh hai bà Trưng gần ¼ thế kỷ, người Ấn mới tới các đảo đó và mới gặp người Mã Lai VỪA ĐỊNH CƯ Ở ĐÓ CHƯA LÂU ĐỜI.
Trường hợp gặp gỡ Ấn Độ và Mã Lai giống hệt trường hợp gặp gỡ giữa Hoa chủng và Cửu Lê. Cửu Lê lẫn Mã Lai đợt II vừa mới tới nơi, vừa định cư là gặp ngay ngoại chủng cũng ở nơi khác đến.
Chỉ có khác là ở Anh-đô-nê-xia, Ấn Độ không có đánh đuổi Mã Lai như Hiên Viên đã làm.
Chúng ta sẽ biết vì sao. Không phải Ấn Độ không có óc đế quốc như Trung Hoa, mà vì người Ấn Độ đó, không phải là người Ấn. Tất cả những bọn Ấn đi khai hóa Cao Miên, Nam Dương, Chàm, đều là người Nhục Chi gốc Ba Tư, đã xâm lăng Ấn Độ, và vừa bị mất ngôi nên mới chạy bậy bạ như thế, đủ sức khai hóa các dân kém mở mang, nhưng không đủ sức đánh chiếm họ.
Đó là khám phá mới nhất nó làm cho các cuốn sử về Nam Dương, Cao Miên và Chàm, được viết trước chiến tranh, sai cả.
Bốn trong năm điều kể trên đây cho ta biết thật rõ ràng về tình hình nước Cổ Việt Văn Lang hơn là khoa khảo tiền sử đã cho biết. Truyền thuyết có chơn giá trị, nhưng chỉ có giá trị khi nào được xét đúng, mà muốn xét đúng phải được khoa khảo tiền sử soi sáng cho. Hai thứ đó hỗ tương soi sáng cho nhau, thiếu một thứ không xong. Thiếu truyền thuyết thì cốt chuyện không có chi tiết, còn thiếu khoa khảo tiền sử thì chi tiết lại không có chỗ dựa là cốt truyện.
Nhờ truyền thuyết ta biết nhiều chi tiết quan trọng hơn.
Thế nên nghe sao cần ghi trung thành như vậy, đừng có mỹ hóa mà hại đời sau. Ta nhờ cô J. Cuisinier ghi chép tỉ mỉ và trung thành, ta mới giải thích được như trên kia, nếu cô ấy bỏ mất chi tiết sai thợ đúc, Đông, Tây, Nam, Bắc, thì ta đã bí về rất nhiều sự kiện lịch sử.
Ông H. Parmentier đã ức đoán rằng trống đồng là quà tấn phong của vua Hùng Vương ban cho các lãnh chúa và ức đoán ấy phù hợp với đoạn truyền thuyết trên.
Con số 1960 lãnh chúa cũng có thể tin được, mặc dầu một con số quá rõ như vậy trong truyền thuyết chỉ là chuyện khả nghi. Ngày nay một quan lang, tức lãnh chúa xưa, chỉ trông coi có một vài thôn thì toàn quốc có 1960 lãnh chúa không có gì là vô lý.
Tưởng biết bấy nhiêu đó là đủ rồi, nhưng biết thêm nữa càng hay. Ta tự hỏi tại sao đợt II lại bỏ Hòa Bình để đi Nam Dương? Câu hỏi trả lời không khó lắm.
Vua Hùng Vương đã đủ mạnh để tránh bị tràn ngập, còn khách thì lại không thích làm khách. Chính những kẻ không thích làm khách ra đi, hoặc những kẻ tới sau, bị đuổi đi bớt, khi vua Hùng Vương chợt thấy là lũ đó tới quá đông, sẽ trở thành mối nguy cho địa vị của ông.
*
* *
Về vật tổ thì như ta đã thấy, người Mường thờ con Nai. Con Nai có mặt ở trống đồng, nhiều không kém gì Chim, thế mà các nhà khoa học nghiên cứu trống đồng chỉ nghĩ đến Chim mà thôi. Nay thì đã rõ là họ sai.
Nhưng nai chỉ là vật tổ của đợt II? Không, vua Hùng Vương (đợt I) cũng thờ Nai, như ta sẽ thấy ở chương Tô tem Lạc Việt.
Và không có ai thờ chim cả như các ông Tây đã nói, lại không có thờ chim Lạc như Đào Duy Anh đã nói.
Về sự kiện có quý tộc Mường giống người Thái, được chúng tôi giải thích rằng đó là quý tộc của An Dương Vương, họ vốn là người Thục và người Tây Âu, cả hai đều là Thái.
Kiến giải của chúng tôi được ông G. Dumontier cho thoáng thấy trước chúng tôi đến gần một trăm năm.
Ông G. Dumontier là một nhà khảo cứu Pháp tinh thông Hán học và là người nghiên cứu Bắc Việt trước nhứt. Chính ông đã đi khảo sát thành Cổ Loa năm 1884. Trong quyển Sorcellerie et Divination, ông cho biết rằng trên nỏ của một số người Mường có chạm hình một cái móng, móng đó tượng trưng cho móng rùa thần đã giúp An Dương Vương thành công trong việc xây thành.
Cô J. Cuisinier cho biết rằng ngày nay, loại nỏ đó chỉ còn thấy được ở bảo tàng viện thôi chớ nỏ Mường ngày nay, không có chạm gì hết. Dầu sao hình chạm xưa nói trên cũng chứng minh rằng một số người Mường là thần dân An Dương Vương nên mới thờ móng rùa như ngày xưa An Dương Vương đã thờ.
Chẳng những thế, vài người Mường ngày nay lại thờ vật tổ là con Chim Đỗ Quyên. Đích thị họ là hậu duệ của An Dương Vương vì chim Đỗ Quyên là tô tem của dân Ba Thục. Và câu chuyện Thục Vương Tử đúng một trăm phần trăm, chớ không phải là chuyện bịa như có người tưởng.
Nhưng chắc Lạc Việt đợt II là đa số ở xứ Mường chớ không phải là người Thục vì chỉ có vài nhà mới thờ tô tem Đỗ Quyên còn toàn thể thì thờ Con Nai. Trên trống đồng không có con chim Đỗ Quyên nào hết.
Hậu duệ của An Dương Vương không phải là kẻ đưa trống đồng tới, cũng không phải là kẻ chấp nhận nền văn minh trống đồng, bởi họ thuộc Chi Âu chớ không phải là Chi Lạc như đợt I và đợt II.
Họ bị xem là kẻ xâm lăng, chớ không phải là khách trọ như đợt II, và kẻ xâm lăng có tự tôn mặc cảm của kẻ ấy, không vay mượn nền văn minh của chủ đất cũ và của khách trọ của chủ đất.
*
* *
Trái với bên Tàu mà ngoài chợ, kẻ mua người bán đều là đàn ông, ở Việt Nam và các xứ Mã Lai, chỉ có đàn bà. Sư Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Hoa, viếng Việt Nam dưới đời chúa Nguyễn Phúc Châu, đã nhận thấy điều ấy trong xã hội Việt Nam và gọi đó là dâm phong (đàn bà ra khỏi khuê phòng là dâm đãng theo quan niệm Tàu). Cô J. Cuisinier cho biết rằng khi một người Mường mà đi chợ, hoặc đi hiệu mua sắm cái gì, gặp người quen, họ xấu hổ lắm và không nhận là có quen biết với người đó.
Đó là dấu hiệu có nguồn gốc Mã Lai nơi người Mường cũng như nơi người Việt.
Mấy chứng tích Mã Lai trên đây là chứng tích bổ sung chớ thật ra thì những gì mà họ giống Việt Nam đã chứng minh nguồn gốc Mã Lai Bách Việt của họ: ăn trầu, nhuộm răng, xâm mình, ở nhà sàn, v.v. nói ngôn ngữ Nam Dương không biến dạng bao nhiêu.
Cô J. Cuisinier nói được một điều nầy rất là đặc sắc và quan trọng: “Nếu Mường không phải là Việt thì tại sao cái gì của Việt, Mường cũng hoan nghinh mà không hoan nghinh các thứ dân khác. Đó là sự hoan nghinh vì lý do sâu xa thầm kín do dây liên lạc đồng máu mủ mà ra”.
Câu thứ nhì: “Phụ nữ Mường cương quyết từ chối qua đường với người Pháp, nhưng lại sẵn sàng qua đường với con trai Việt Nam”.
Cô J. Cuisinier cứ tiếc rằng người Việt chê họ quê mùa nên ít kết hôn với họ, chớ nếu không có sự chê bai đó, thì hẳn họ đã thành người Việt một trăm phần trăm từ lâu rồi.
Nên nhớ, họ quê mùa chớ không xấu xí, không ngu đần.
*
* *
Chúng tôi có nói đến tình trạng người Mường bất hợp tác với Tàu, và không tiến vì nơi trú ẩn của họ là đất xấu.
Nhưng ta cần đặt rõ vấn đề. Cái đất xấu ấy là tại họ đi trốn Tàu, mà gặp phải, hay xưa sao nay vậy?
Qua những gì ta vừa biết về người Mường, ta có thể kết luận về hai điểm sau đây:
1. Họ không có đi trốn Tàu, vì không ai mà trốn gần đến như thế. Họ chỉ bất hợp tác mà thôi. Tại sao địa bàn của họ toàn là ở những tỉnh thượng du và trung du? Là tại họ đến sau, và lúc họ tới nơi thì thần dân của vua Hùng Vương đã chiếm hết cả các đất đồng bằng phì nhiêu rồi.
Khách trọ dĩ nhiên bằng lòng với những gì chủ nhà biếu cho, chớ không thể giành món ngon như quân xâm lăng.
Ở những nơi khác: Chàm, Nhựt Bổn, họ hơn hẳn bọn lưỡi rìu tay cầm nên họ đuổi đợt I lên núi rừng để cướp đồng bằng, còn ở Cổ Việt thì tình trạng ngược lại.
2. Người Chàm và người Mường là một thứ người với nhau, tức là Mã Lai đợt II, tức Lạc bộ Mã. Ta thường băn khoăn tự hỏi những tù binh Chàm mà ta bắt về Thăng Long, về sau nầy, rồi đi đâu, và không thấy dấu vết gì của họ cả, ngoài những công trình chạm trổ ở các đền chùa đời Lý. Nhưng khi ta biết rằng Mường và Chàm là một thứ người với nhau thì ta có thể hiểu rằng tù binh Chàm hẳn đã được cho định cư cạnh người Mường để khẩn hoang làm ruộng và họ thành người Mường hết mà không hay. Cả hai thứ người đó đều nói Pơ-đai, Pơ-đuông, chớ không nói lúa gạo như ngày nay. Đất của họ xấu, nhưng chỉ tương đối xấu thôi, đối với châu thổ, chớ không xấu tệ, và chính vì cái đất tương đối có hạn, nên một số thiếu đất sinh sống, phải di cư đi Nam Dương, nếu vua Hùng Vương mà không có đuổi bớt, họ cũng tự động đi, bởi cướp đất tốt không được, mà đất xấu và tương đối ở được đã hết rồi, thì chỉ còn một cách là di cư lần thứ nhì vậy.
Nhưng đi tới Nam Dương rồi vẫn chưa yên thân vì rồi họ còn phải di cư lần thứ ba đi Mã Đảo và Mỹ châu để biến thành người Hova và Mayar.
Nhưng xét thật sâu hơn, thì họ cũng không phải là cố ý bất hợp tác với Tàu cho lắm. Địa bàn của họ ở khít vách với địa bàn của ta, mà cũng không phải là bất khả xâm phạm mà tưởng rằng Tàu để yên cho họ bất hợp tác. Nhưng sự kiện sờ sờ trước mắt là họ còn giữ chế độ phong kiến cổ thời chớ không bị bắt phải theo chế độ quận huyện của Tàu như ta.
Cũng nên biết rằng người Tàu mắc bịnh sợ núi rừng. Núi không cao, rừng không sâu, họ cũng không ở được. Họ nắm được châu thổ Hồng Hà là đủ cho họ rồi, vả lại đa số dân cư đều ở đó, thì mất bớt một đám dân đóng thuế quá nhỏ, họ không phải tiếc.
Như thế thì người Mường chỉ là người bị bỏ quên, chớ không phải đi trốn, cũng không phải là bất hợp tác một cách cố tình cho lắm.
Người Tàu bỏ quên họ, mà chính họ cũng không thích người Tàu, nên họ không tìm gặp Tàu, hóa ra sự bất hợp tác xảy ra thật sự.
Riêng ta thì ta ở vào cái thế không được đừng, vì ta là chủ nhân của đồng bằng mà người Tàu đến cướp, thì có ghét kẻ xâm lăng đến đâu ta vẫn phải hợp tác.
Chế độ Lang độc lập và chủ Lang thế tập bị phá vỡ đến 80% nhưng dầu mất thế tập, mất độc lập, nó cứ còn tự trị, khi nó lấy dấu huyền, cho đến ngày nay, khác hẳn hương của Tàu.
*
* *
Vật tổ Lạc Việt, danh xưng Văn Lang
Hùng Vương và Lạc Vương
Sự hiện hữu của vua Hùng Vương không được chứng minh bằng sử liệu của một nước lân cận hay bằng cổ vật mà tiền sử học đã đào được. Thế nên từ 1918 tới nay, có người hồ nghi hữu lý về trào đại đó. Nếu ta không tìm được gì khả dĩ có sức nặng đáng kể, ta phải xem các đời vua Hùng là huyền thoại như Hồng Bàng chẳng hạn.
Nhưng chúng tôi đã tìm được cái gì, ở các trang trước đây mà chúng tôi đã lưu ý quý vị đến những chi tiết đó rồi. Thứ nhứt người Mường có nói đến vua Hùng Vương. Nhưng điều đó không phải là chứng tích, vì quý vị và chúng tôi cũng có nói đến vua Hùng Vương nhưng không vì thế mà vua Hùng Vương đã có. Nhưng không, người Mường nói đến vua Hùng Vương khác ta. Ta nói đến vua Hùng Vương bằng giọng kính cẩn của kẻ biết sự thật thật sự, hoặc của kẻ ngộ nhận đó là sự thật. Còn người Mường thì ăn nói bằng lời lẽ một nhơn chứng trung lập, không kính cẩn cũng không khinh miệt, tức họ không có ngộ nhận gì mà là kẻ biết sự thật. Cái sự thật đó là họ chỉ là khách trọ chớ không phải con dân của vua Hùng Vương. Thế thì ta kết luận được rằng vua Hùng Vương quả có thật. Ông ấy là Lạc bộ Trãi + Lạc bộ Chuy, và đã đón tiếp Lạc bộ Mã từ Hoa Nam di cư đến. Họ đến rất đông, vì có bằng chứng là trước khi đi Nam Dương, họ đã định cư ở Hòa Bình (cổ tích bà chúa On đối chiếu), nhưng rốt cuộc chỉ còn có một nhóm nhỏ là người Mường.
Trong cuộc nghiên cứu trống đồng Đông Sơn, có một vấn đề mà các nhà bác học Tây phương gần như là đồng ý với nhau tức khắc, không có tranh luận nhiều như với các vấn đề khác: đó là to tem Lạc Việt.
Họ nói đó là Chim.
Phía Việt Nam cũng đồng ý theo, hơn thế, còn muốn xác định hơn Tây nữa. Ông Đào Duy Anh cho là Chim Lạc, chớ không phải là bất cứ loài chim nào.
Chỉ có một người độc nhứt là nói trái lại, ông Văn Tân. Tiếng chuông lẻ loi ấy, thế mà đúng, mặc dầu không đúng hẳn.
Chúng tôi thử bác bỏ kiến giải chim của đại đa số, vì thấy nó sai rõ rệt.
Có những thuyết không căn cứ, lại được đa số mặc nhận, đó là thuyết tô tem Lạc Việt là Chim của các nhà bác học Tây phương. Ta không xét lại thuyết đó, lại còn đi sâu vào đó hơn, như Đào Duy Anh đã làm, thì e không khoa học.
Đừng nói chi tô tem là chim Lạc, vật tổ của dân Lạc Việt là chim tổng quát, cũng không đứng vững được.
Không biết do một ánh sáng thiêng liêng nào mà bỗng dưng một nhà khảo cổ Âu châu lại nghĩ rằng dân Lạc Việt thờ vật tổ là Chim.
Chúng tôi nói ánh sáng thiêng liêng nghĩa là ngầm phủ nhận lý trí con người trong cuộc khám phá nầy. Thử xem, trong hàng trăm nhóm người tạm gọi là da đỏ ở Mỹ châu, nhóm nào cũng đội mão lông chim trên khăn quấn đầu, thế mà có ai tìm được hơn một bộ lạc thờ vật tổ là Chim hay không?
Vậy mà bao nhiêu nhà khảo cổ da trắng đều rập nhau hát cái điệp khúc Tô tem Chim ấy, rồi nhiều nhà học giả ta cũng hát theo.
Các ông Tây đó chưa bao giờ xem hát bội Việt Nam, mà các nhà học giả ta, có xem cũng đã quên mất rồi vì họ xem thuở họ còn bé, hát bội đã chết từ lâu rồi.
Hát bội là nghệ thuật do Tàu gợi ý ta, y trang cũng do họ chế ra. Và luôn luôn khi nào tướng Trung Hoa đánh nhau với tướng phiên, bất kỳ loại phiên nào, ta đều thấy tướng phiên, giắt lông trên mão. Giắt lông trĩ trên mão là lối trang sức của hầu hết chiến sĩ các dân tộc kém mở mang khi xưa ở phương Nam nước Tàu, vì phía ấy có chim trĩ. Về sau, các chuyên viên y trang của Tàu mới tổng quát hóa, rợ Tây Nhung, rợ Bắc Địch gì họ cũng cho giắt lông trĩ trên mão hết thảy. Chỉ giản dị có thế thôi, dân Lạc Việt dùng lông chim chỉ là đồ trang sức, không dính dáng gì tới tô tem hết.
Nhưng các ông Tây đã quả quyết như thế, thì ta cũng phải nghiêm trang xét lại, chớ không thể bác bỏ một cách hơi võ đoán như vậy được.
Trước hết, trên các cổ vật, có hình của quá nhiều loại chim khiến ta khó lòng mà nhận rằng chim là vật tổ của Lạc Việt. Bằng như cho rằng mỗi thứ chim đại diện cho mỗi bộ lạc, thì lại có quá ít chim.
Chúng tôi thấy đại khái có hai loại Chim trên trống đồng thau:
1. Một loại thường
2. Một loại chim nước
Chim nước, Pháp gọi là Oiseaux aquatiques, Tàu gọi là Thủy điểu, gồm những thứ ăn cá, chúng ở biển, ở sông ngòi hay đầm ao. Tất cả đều cẳng dài, cổ dài, mỏ dài. Như loài công, cẳng dài mà mỏ không dài, nên không bắt cá được, không là thủy điểu.
Trên trống Ngọc Lũ, ta thấy nơi hông trống, giữa hai thuyền, một con, thuộc loại chim nước, đối diện với 1 con cũng cẳng dài nhưng mỏ lại rất ngắn, tức không phải thủy điểu.
Ở mặt trống, nơi vành có hình thứ nhứt, tính từ ngoài vào trong và không kể những vành khác hình kỷ hà học, thì lại có một thứ chim cẳng dài mỏ cũng dài nữa, nhưng khác chim nước ở hông trống rõ rệt. Đây là thứ chim của nắp bình đồng Đào Thịnh.
Loại chim nước nầy có tất cả 5 thứ vì chim ở hông bình đồng Vạn Thắng lại là thứ khác nữa, và giữa những con chim nước ở vành 1 Ngọc Lũ nói trên, lại có hai thứ chim nước rất nhỏ. Tóm lại Ngọc Lũ có 3 thứ chim nước, Đào Thịnh 1 và Vạn Thắng 1. Cộng lại là 5 loại chim nước.
Chim chung vành loại 2 là ở bình đồng Đào Thịnh, cẳng dài mà mỏ lại quá ngắn, ngược hẳn với chim thường thứ 1.
Vành 1 Ngọc Lũ có 1 thứ chim kỳ dị giống kẻ âu sầu, mỏ ngắn, đầu cúi xuống nhìn đất. Đó là chim thường loại 3.
Cũng ở vành đó còn hai thứ chim thường nữa không tả được vì hình không rõ.
Thế là 5 thứ rồi.
Chim bay trên thuyền là thứ 6.
Chim trên nóc nhà có 3 loại tức 9 loại tất cả.
Chim thứ 10 là một tượng đồng riêng, tạm gọi là chim Yên Bái, hơi giống chim sẻ.
10 loại chim thường và 5 loại chim nước tất cả.
Ta có 15 bộ lạc chăng? Hẳn là không. Ta phải gồm ít lắm là 50 bộ lạc hoặc là 1, tùy đã thống nhứt hay chưa.
Có những người sẽ muốn thấy đó là tượng trưng cho 15 bộ của nước Văn Lang nhưng không phải đâu. 15 bộ ấy, nếu quả có, thì đó là 15 đơn vị hành chánh lớn nhứt của nước Văn Lang, chớ Bộ đó không hề có nghĩa là Bộ lạc vì Văn Lang đã thống nhứt rồi.
Bộ = Bộ Lạc thì cũng không đúng vì cái lẽ không phải trống nào cũng có đủ 15 thứ chim, như ở hình trống Đào Thịnh chỉ có 2, 3 thứ thôi.
Có một nhà học giả muốn thấy tượng trưng của 18 đời Hùng Vương trong ngôi sao 18 nhánh của một mặt trống, chỉ phiền là có trống, ngôi sao lại nhiều tới 24, có trống chỉ 12 thôi. Những sự ngẫu nhiên trùng hợp rất dễ đưa ta đến sai lầm. Nếu chẳng may ngôi sao nào cũng 18 nhánh thì cái thuyết liều lĩnh tượng trưng cho 18 đời Hùng Vương thật là khó bác.
Xem thế, ta đủ thấy thuyết vật tổ của Lạc Việt là loài chim không có một sức nặng nào hết. Còn thuyết chim Lạc của Đào Duy Anh còn sai hơn nhiều, vì có rất nhiều chim không phải là chim Lạc chút nào.
Như ta đã thấy, qua nhiều chương trước rằng Lạc chỉ là một giai đoạn phiên âm sai chữ Lai mà từ đời Tây Chu, Tàu mới tiến đúng được từ Lê đến Lạc rồi đến Lai.
Và Tàu biết quá rõ Lạc là gì. Con chim Lạc, họ viết với bộ Điểu, còn những tự dạng Lạc dùng để chỉ dân Lạc, không bao giờ được viết với bộ Điểu cả. Nếu ta thờ chim Lạc, hẳn họ phải biết, và họ đã chỉ ta bằng chữ Lạc bộ Điểu rồi. Nhưng không bao giờ có chuyện đó, trong thư tịch Trung Hoa.
Những cái mà những con người trong đó cầm nơi tay hoặc dùng làm chày giã gạo, các ông Tây cũng cứ nói là lông chim, lại chưa chắc là lông chim, như chúng tôi sẽ chứng minh sau đây.
Hình khắc ở trống đồng thau, phải được nghiên cứu lại, chớ không thể nhắm mắt tin theo các ông Tây. Chúng tôi đã dùng một cái lúp để nhìn những vật mà các ông Tây gọi là lông chim (vũ) và chúng tôi thấy rõ ràng đó là tàu cau, chớ không thế nào là Vũ được hết.
Quả thật thế. Một cái vũ gồm hai bên, cả hai bên đều là Mao. Đằng nầy những cái Vũ trong trống lại chỉ có một bên Mao thôi.
Đó là cái tàu cau đang được dùng, luôn luôn người ta chặt cho ngắn bớt, nhứt là tước bớt một bên. Các ông Tây đó không hề thấy dân Việt Nam dùng tàu cau, nhứt là dân Nam Kỳ là nơi có nhiều cau. Xin nói rõ hơn, muốn dùng tàu cau, người ta tước bỏ một bên lá. Đúng là hình khắc của trống như vậy đó. Rồi người ta chặt tàu cau cho ngắn bớt. Cái Vũ trong các hình cũng bị cắt ngắn như tàu cau bị chặt bớt. Cái bên còn lá, lá vẫn bị hớt cho ngắn đi.
Hình khắc ở trống như vậy đó. Đó là hình ở trống Saigon, nhưng trống ở các nơi khác cũng như vậy.
Có ai giã gạo bằng lông chim không? Hẳn là không! Còn giã bằng tàu cau? Ở trống đó, chày giã gạo cũng hơi giống những cái mà nhơn vật cầm tay để đi đâu đó. Có thể giã gạo bằng tàu cau được, nếu giã theo lối người Thượng, tức chọt, như ta thấy trong hình.
Mà cũng chưa chắc là hình giã gạo.
Có một cái hình mà các ông Tây quả quyết là giã gạo, mặc dầu cái cối không phải là cái cối, mà rõ ràng là cái trống. Các ông bảo rằng không ai đánh trống kỳ cục như vậy. Nhưng một nhà học giả ta, ông Lê Văn Lan, lên tận vùng Mường để khảo cứu vì trên ấy còn dùng trống đồng thau, thì thấy quả thật người Mường đánh trống như vậy, tức dùng gậy đâm vào trống, chớ không phải đánh.
Cũng nên nhắc lại rằng người Mường thờ vật tổ là con Nai. Nai của người Mường là nai có bông ngôi sao mà Pháp gọi là Cerf solaire, chỉ là bông tưởng tượng, tượng trưng cho việc thờ Trời của dân ta.
Qua hai ngàn năm, người Mường đã biến con Nai vật tổ khác đi, vẽ giống như nai ở Bắc Việt. Nhưng nai ở trống đồng thì khác. Nhìn kỹ nai trong trống, ta thấy đó là loại nai chà (Renne) chớ không phải nai xứ ta (cerf).
Đó là nai ở Bắc Cực ngày nay, nhưng cách đây 5.000 năm, ở Hoa Bắc vẫn có, tại địa bàn của Lạc bộ Trãi.
Chúng tôi đã nói rằng người Mường là Mã Lai đợt II, địa bàn của Mã Lai đợt II dưới sông Hoàng Hà, không có con Renne. Nhưng Mã Lai đợt I vẫn có vượt Hà chạy xuống nhập bọn với Mã Lai đợt II ở đó, và đã đem vật tổ nguyên thỉ xuống đó.
Bằng chứng Mã Lai đợt I thờ Nai, thấy ghi trong tập nghiên cứu về dân Salva của ông Prylusky, Salva là một thứ Mã Lai đợt I ở trung tâm Ấn Độ ngày nay, dân đó thờ mặt trời và thờ Nai.
Cả hai đợt Mã Lai đều thờ Nai, y hệt như nhau, chớ không riêng gì là đợt II, nhưng ta đã bắt được bằng chứng sống, trong xã hội người Mường, nên tưởng rằng đó chỉ là vật tổ của bọn đợt II.
Và xin nhấn mạnh một lần nữa là nai khắc ở trống đồng là con Renne, chớ không phải con Cerf, mà con Renne thì chỉ có ở Hoa Bắc cách đây 5.000 năm, chớ không bao giờ có tại Cổ Việt. Đó là vật tổ lâu đời nhứt của dân Mã Lai, xuất hiện tại địa bàn thứ nhì của họ là Hoa Bắc, chớ không phải tại Cổ Việt.
Các ông Tây bảo đó chỉ là hình trang trí, nhưng các ông không hề biết rằng người Mường thờ vật tổ là con nai, trong khi đó thì hình trang trí là chim, lại bị các ông gọi là vật tổ vì các ông không hề biết các dân Mã Lai giắt lông chim trên đầu để chơi, chớ không phải để đồng hóa với con chim nào hết.
Các ông lại bảo hình nai trang trí là bắt chước lối trang trí của dân khác, nhưng mời các ông đọc Abadie, các ông sẽ kinh ngạc mà thấy dân Thổ thêu mũi giống nông dân Pháp và có lẽ các ông sẽ nói người Thổ bắt chước người Pháp.
Trong các cổ vật đồng pha, hình nai nhiều hơn hình chim. Nhiều lưỡi rìu có hình nai mà không có hình chim bao giờ, thế thì nai phải quan trọng hơn là chim.
Người Tàu cũng biết dân Lạc Việt thờ nai, thế nên mới có địa danh Mê Linh. Mê Linh là con nai linh thiêng. Đó là địa danh chữ Nho chớ không phải chữ Nôm mà nói là địa danh đó do ta đặt. Như vậy là đã có nhơn chứng rồi.
Nhưng nhơn chứng đáng tin cậy hơn hết là hiện nay người Mường thờ nai, như ta đã thấy khi nghiên cứu về người Mường.
Hai chuyện xa xôi, một trong không gian là Mã Lai Nhựt Bổn có nuôi nai thần ở cố đô Nại Lương, và một trong thời gian là cổ dân Salva thờ nai và mặt trời, lại là bằng chứng bổ túc rằng dân Mã Lai thờ nai, và xin nhắc lại rằng đó là một nai chà (Renne) như hình thấy ở trống đồng, chớ không phải là nai thường như người Mường ngày nay. Mà nai chà thì chỉ có ở Hoa Bắc vào cổ thời, địa bàn cũ của Mã Lai đợt I.
Tóm lại, chim chỉ là hình trang trí, như bao nhiêu hình trang trí khác, không hơn, không kém. Có lẽ chim chẳng nói lên cái gì, nhưng nhứt định không là vật tổ. Chim nói lên cái gì? Tất cả đều bay ngược chiều với kim đồng hồ, tức từ phải sang trái,, mà các cổ thư Trung Hoa đều tả dân Việt lấy bên trái làm bên tốt, bên thuận. Ấy nó nói lên điều đó, chỉ có thế thôi.
Có quá ít chim, đối với bộ lạc, nếu thuở ấy ta chưa thống nhứt, trái lại có quá nhiều chim, nếu ta đã thống nhứt rồi. Vả lại nếu thờ chim, ta chỉ thờ một loại chim, chớ sao lại thờ đến hơn 10 loại khác nhau?
Nhưng ngoài nai là vật tổ thời thượng cổ, dân Lạc Việt còn thờ vật tổ nào khác, mới hơn chăng? Một dân tộc có thể có hai ba vật tổ. Và ta trở lại được với những cái lông chim giả hiệu nói trên.
Chúng tôi cho rằng đó là tàu cau chớ không phải là lông chim.
Như ta đã thấy, người Chàm thờ hai vật tổ: Dừa và Cau. Dân họ chia làm hai phe đảng không thuận nhau bao nhiêu.
Ông R.A. Stein đã bác bỏ các thuyết sai lầm cho rằng phe Dừa là phe miền Bắc. Chính phe Cau là phe miền Bắc. Mà Chàm miền Bắc là Lạc Lồi, cật ruột nhứt với Lạc Việt. Lạc Lồi thờ Cau thì Lạc Việt cũng thờ Cau.
Tàu cau hay lông chim ?
Ông R.A. Stein nói rằng đi từ Cà Mau lên tới Quảng Bình thì đã hết cây dừa rồi thì làm thế nào mà phe miền Bắc, tức Lâm Ấp ở Quảng Bình, Quảng Trị lại lấy cây dừa làm vật tổ. Cau phải là vật tổ của phe miền Bắc vì lẽ giản dị là dân Lâm Ấp xưa ít thấy cây dừa. Vật tổ là lục tối cổ của dân tộc thì hẳn họ thờ vật tổ ngay cả hồi họ mới dựng lên Lâm Ấp. Nam Chiêm Thành còn là đất lộn xộn chưa thống nhứt với Lâm Ấp.
Hơn thế, đất Nam Chiêm Thành nguyên là đất Phù Nam như sử Phù Nam đã chứng minh và bia Võ Cảnh ở Nha Trang đã ghi chép. Phù Nam bị Chiêm Thành cướp đất, nhưng dân Phù Nam không có bị diệt, họ biến thành Chàm và nếu họ có thờ họ thờ Dừa chớ không thờ Cau vì cái lẽ sau đây:
Cao Miên và Phù Nam thường có chung cổ tích mà cổ tích Cao Miên đã được ghi chép thành văn, luôn luôn nói đến bà chúa Lá Dừa.
Nam Chiêm Thành là quê hương của Dừa chớ không phải của Cau, và sở dĩ trong nước Chiêm Thành hai phe Cau, Dừa luôn luôn xung đột nhau, vì hai lẽ: dân Nam Chiêm Thành là dân Phù Nam biến thành Chàm, chớ không phải là dân Chàm chánh hiệu, mặc dầu họ cũng là Mã Lai đợt II với nhau cả, nhưng đã lập quốc riêng, có quyền lợi riêng, và khi bốn tỉnh ngày nay tương đương với xứ Panduranga thời xưa là Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy của Phù Nam bị sáp nhập với Chiêm Thành thì dân thờ Dừa ở đó đã xem dân thờ Cau là xâm lăng, còn dân thờ Cau lại xem dân thờ Dừa là kẻ bại trận mà khinh khỉnh.
Cau Dừa không thuận nhau chỉ vì dị tộc, mặc dầu đồng chủng và cũng vì có kẻ xâm lăng và kẻ bị trị.
Sở dĩ có sự lầm lẫn của các nhà bác học Âu châu là vì khi họ nghiên cứu dân tộc Chàm thì chỉ còn có Chàm Ninh Thuận. Ở trong cộng đồng ấy có hai phe, nhưng còn làm thế nào để biết cho đúng phe nào từ phương Bắc tràn xuống, vì họ đã tràn xuống từ thế kỷ 9 S.K. tức đã một ngàn năm rồi.
Chỉ có suy luận như ông R.A. Stein mới truy nguyên được Cau ở đâu, Dừa ở đâu, chớ không thể dựa vào ký ức của một vài người Chàm được.
Lạc Lồi với Lạc Việt không xa nhau lắm đâu thì nếu Lạc Lồi thờ Cau thì Lạc Việt cũng thờ Cau.
Tin tưởng của chúng tôi rằng vật tổ thứ nhì của Lạc Việt là Cau, được những hình khắc trong đồ vật Đông Sơn xác nhận, những hình mà các ông Tây cứ cho là lông chim và chúng tôi đã bác bỏ, cho là tàu Cau.
Trong những nghi thức tôn giáo, những nghi lễ của dân ta, không bao giờ được thiếu hai món trầu cau. Huyền thoại, dân ca, tục ngữ, vào thơ xưa của ta cũng đầy dẫy chuyện cau, chuyện trầu, khác hơn nơi các thứ dân tộc ăn trầu khác, họ không ca tụng trầu cau nhiều như ta đến thế.
Hơn thế, vật tổ của Lạc Việt là một loại Cau đặc biệt, chớ không phải là cau thường. Đó là loại Cau mà dân miền Nam gọi là Cau sọc không biết miền Bắc gọi là Cau gì.
Cau sọc là Cau có sọc trắng trên nền xanh của trái Cau.
Chủ trương của chúng tôi, cắt nghĩa được hai tiếng Văn Lang, vì không có lý nào mà ta lại đặt tên nước bằng chữ Nho, khi vua Hùng Vương chưa thọ lãnh văn hóa Tàu. Quốc hiệu Văn Lang có nghĩa khác như ai cũng tưởng vì đó là chữ nho về sau, dùng để phiên âm Cau sọc.
Truyền thuyết ta cho rằng nước ta xưa tên là Xích Quỷ, Ngô Sĩ Liên chép lại, bị Nhượng Tống cứ cho rằng lẽ nào ta lại đặt tên nước xấu đến thế.
Nhưng chúng tôi sẽ trình diện một thứ những Cổ Mã Lai tự xưng là Lạc, nói tiếng Việt cổ, và mang màu da thổ chu.
Chúng tôi lại cũng cho biết rằng người Tàu có thói quen gọi những người dân mà họ không trọng bằng quỷ, một cách đùa cợt.
Mặt khác, chúng tôi cũng đã cho thấy rằng nước Xiêm đã tự xưng rằng nước Tù binh vì không hiểu Syâm nghĩa là tù binh, bị Cao Miên gọi thế, họ cứ nhận.
Thế là truyền thuyết của ta không ngốc lắm đâu. Xích Quỷ có thể là danh xưng mà Tàu gọi ta vào cổ thời, ta không hiểu, nhưng cứ nhận, y hệt như nước Xiêm.
Thế nên khi những ông L. Aurousseau và Nguyễn Phương bác bỏ rằng nước ta xưa tên là nước Văn Lang, bác bỏ chỉ vì sử Tàu không có chép, mà chỉ truyền thuyết của ta xưa là có kể, thì ta có quyền cãi lại hai vị đó là hai nhà trí thức bất kể truyền thuyết trong khi thế giới khoa học đều nghiêng mình xuống để nhìn sâu vào truyền thuyết.
Người Tàu biết rất nhiều vào thuở đó, nhưng họ không thể biết hết. Sở dĩ họ có biết một nước Lạc Việt tên là Đạo Minh ở Trung Lào chỉ nhờ một may mắn là Đạo Minh có thông sứ với họ, còn Văn Lang thì không.
Sự vắng mặt Văn Lang trong thư tịch Trung Hoa không hề có nghĩa là Văn Lang không có.
Ở Nam Kỳ có loại cau trái màu lục nhưng có sọc trắng. Vùng Đồng Môn sản xuất cau, cung cấp cho cả miền Nam và miền Trung. Các cụ ở đó thuở chúng tôi còn bé, biên sổ, chỉ loại cau sọc đó là Văn Lang đấy.
Nhưng thuở Văn Lang lập quốc, ta chưa biết chữ nho, thế sao ta lại gọi quốc hiệu ta bằng chữ Nho?
Có thể trong truyền khẩu, người ta chỉ nói được Nước Cau Sọc mà thôi. Nhưng tới đời Tấn thì các cụ đã thâm nho rồi và thấy nôm na là mách qué, gọi tên nước là Cau Sọc xấu lắm, như Nhượng Tống đã thấy Xích Quỷ là xấu lắm, nên khi kể chuyện xưa cho con cháu nghe, các cụ Hoa hóa Cau sọc thành ra Văn Lang.
Nhưng chưa hết rắc rối. Theo tự dạng hiện nay thì Văn Lang là Con trai xâm mình chớ không phải là Cau sọc.
Tại sao Cau sọc lại biến thành Con trai xâm mình?
Khi cụ nào đó cầm bút để ghi lời truyền khẩu được Hoa hóa, cụ ấy đã do dự không biết nên viết Văn Lang nào, và cũng cứ cái quan niệm xấu tốt của Nhượng Tống mà rồi cụ ấy lại viết là Con trai xâm mình, vì con trai xâm mình có vẻ oai hùng hơn là Cau sọc là chuyện thấp lè tè.
Đối với tai của Việt Nam thì Văn Lang nào cũng như Văn Lang nào, còn nghĩa thì nên viết sao cho nó oai hùng.
Cụ ấy viết thế cũng ổn, vì nó phù hợp với tục xâm mình của dân ta, lại thỏa mãn được thói quen thích mỹ hóa của cụ.
Trong quyển L’Art Vietnamien, ông L. Bézacier nhận xét rằng không có chùa chiền, miếu mạo nào của Việt Nam mà không có cây cối nơi sân và quanh đó, để làm tăng vẻ đẹp của công trình kiến trúc ấy.
Điều đó thì chính ta cũng biết. Nhưng kỳ lạ thay, để minh họa nhận xét trên, cả hai quyển L’Art Vietnamien và L’Art du VietNam, cả hai đều xuất bản ở Bá Lê, cho ta thấy một loại cây khác hơn là ta tưởng tượng. Ta cứ đinh ninh đó là cây đa, cây bồ đề. Nhưng không.
Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư: Cây cau
Chùa Thiên Phúc ở Sơn Tây: Cây cau
Tháp Bình Sơn ở Vĩnh Yên: Cây cau
Phù đồ của chùa Thiên Phúc Bắc Ninh: Cây cau
Chính ngôi chùa Thiên Phúc: Cây cau
Chùa Keo Thái Bình: Cây cau
Chùa một cột Hà Nội: Cây cau
Riêng ngôi chùa Keo được dùng làm ảnh bìa, cây cau lại là “nhơn vật” quan trọng của bức ảnh bìa đó, chớ không phải là ngôi chùa nữa.
Vấn đề vật tổ Cau sọc như đã nói, vô cùng quan trọng vì nó xác định được rằng thuở ấy ta đã dựng nước và nước ta đã có tên là nước Cau Sọc.
Vật tổ Cau sọc đánh ngã được hoài nghi của hai ông L. Aurousseau và H. Maspéro, hai ông ấy cho rằng thuở đó ta chưa có nước, còn Văn Lang thì chỉ do các nhà nho ta lầm tự dạng của Dạ Lang mà chép càn thôi.
Ông H. Maspéro và ông L. Aurousseau mắc bệnh tố cáo sự lầm tự dạng tưởng tượng của ta. Ai lầm đâu không thấy, chỉ thấy chính các ông đã lầm, và còn ngụy tạo nữa là khác.
Chúng tôi đã trình bày về cuộc ngụy tạo của hai ông ở chương về Tây Âu Lạc, giờ chúng tôi tố cáo lại một ông đã lầm khi viết tên chồng của bà Trưng. Ông ấy viết là Thi Tố vì chữ Tố khá giống chữ Sách (B.E.F.E.O. 1918).
Nói thế, không có ý chê bai hai ông đâu. Hai ông là người Pháp, ta dễ dãi cho được, vả lại Sách và Tố quá giống nhau thì họ lầm là chuyện có thể bỏ qua. Nhưng họ đừng tưởng ai cũng lầm. Dạ và Văn là hai chữ nho đơn sơ ít nét, chớ không rắc rối như Sách và Tố, thì kẻ mới học, cũng không thể lầm chớ đừng nói là các nhà nho.
Một nhà nho Tây khác đã công kích hai ông L. Aurousseau và H. Maspéro về cái án lầm tự dạng nầy. Hễ mỗi lần hai ông bí là hai ông đổ cho ta và Tàu lầm tự dạng. Ông Tây thứ ba tên là R.A. Stein mà tài liệu được chúng tôi dùng rất nhiều trong quyển sách nầy.
Không đồng ý với ông R.A. Stein về nhiều điểm, chúng tôi vẫn khâm phục tài học của ông, không có sách Trung Hoa, La Mã, Hy Lạp, Ấn Độ, Cao Miên, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhựt Bổn nào mà ông không đọc để tìm tòi cho vấn đề mà ông trình bày, kinh khủng nhứt là ông đọc cả ngoại thư Trung Hoa, cả sách thuốc, sách bói, sách thiên văn của họ nữa.
Ông có tinh thần khoa học, nhưng vẫn không thiếu cái phần nhân bản trong việc suy luận tìm tòi, thế nên ông giải thích được những chỗ bí hiểm của cổ thư mà óc duy lý cho là nên vứt đi, vì sách nói chuyện huyền hoặc.
Ông R.A. Stein viết: “Ông H. Maspéro đã chứng minh rằng cái quốc gia mà truyền thuyết Việt Nam nói đến, chẳng đáp ứng được một sự thật lịch sử bằng vào sự lẫn lộn tự dạng.
“Tôi thì tôi nghĩ rằng vấn đề rắc rối hơn nhiều. Ta không thể chối cãi rằng các nhà nho Việt Nam là những bậc thâm Nho. Sử địa cổ của họ đã chứng tỏ rằng họ biết sử dụng tài liệu Tàu”.
“Sự ráp nối của các sử gia Việt Nam có lẽ sai, nhưng đó là một sự kiện của tư tưởng (un fait de la pensée), một sai lầm cố ý (Confusion voulue), đó là họ lập ức thuyết rằng nguồn gốc dân tộc họ xưa kia là ở Hoa Nam. Ta phải tự hỏi tại sao những người đã “bịa” ra nước Văn Lang lại ráp nối Dạ Lang và Văn Lang? Trước hết người ta không thể không bị hiện tượng Lang lưu ý, vì nó xuất hiện trong quá nhiều quốc gia đi từ Tứ Xuyên (Bách Lang) đến Quảng Tây (Dạ Lang) rồi đến Quảng Đông (Việt Lang) kế đến Việt Nam (Văn Lang). Hậu Hán Thư (sử nghiêm trang đấy) cũng có nói đến man di Dạ Lang ở biên giới Cửu Chân, Nhựt Nam. Truyền thuyết Việt Nam cũng có kể đến một người Việt Nam đã dựng lên một nước nhỏ tại bờ sông Mã lấy tên là Dạ Lang”.
Rồi ông R.A. Stein chứng minh được rằng dưới thời đô hộ của nhà Hán quả có sông Dạ Lang thật sự ở xứ ta, đó là sông Hằng Giang ở Quảng Trị ngày nay, chớ không phải các cụ ta lầm lẫn như sử gia Nguyễn Phương thường bắt chước H. Maspéro mà mắng các cụ.
Dân Trung Hoa, đến đời nhà Chu mới viết sử thật sự, nhưng họ nhờ được các tên của vua nhà Hạ một ngàn năm trước đó, thì tại sao dân tộc Việt Nam lại không nhớ tên nước là Cau sọc?
Cái luận cứ cho rằng hễ sử Tàu không có chép, là chuyện đó không có, luận cứ ấy sai từ căn bản sai ra. Tư Mã Thiên, sử gia lớn đầu tiên của Tàu mà cho cả đến những sử gia biên niên như Khổng Tử làm gì biết rõ chuyện nước Lạc Việt vào thuở ấy để mà ghi chép?
Như vậy Cau sọc, tên nước là đúng sự thật lịch sử khi chưa tìm thấy tài liệu nào chứng minh trái lại. Còn biên giới thì tuy sai, nhưng vẫn giải thích được bởi dân chúng lầm lẫn biên giới cổ với biên giới kim chớ không có gì lạ, mà biên giới cổ thì còn xa hơn Động Đình Hồ về phía Bắc nữa, như chúng tôi đã trình bày trước đây.
Dân chúng cũng đã ráp nối chuyện đánh giặc Ân của nước Quỹ Phương với lại chuyện vua Hùng Vương đánh giặc Ân, chỉ vì xưa kia, hồi còn ở Quỹ Phương, quả dân ta đã có đánh giặc Ân, như chúng tôi đã trình bày ở đoạn “Nước Quỹ Phương”.
Những lầm lẫn của các sử gia Tàu (nếu quả có) không liên hệ đến các sử gia ta, ta viết theo truyền thuyết chớ không phải biết theo sử liệu Tàu.
Truyền thuyết có nên vứt bỏ hay không thì cứ hỏi các nhà bác học ngày nay thì biết.
Ông R.A. Stein là một nhà khảo cổ, một nhà bác học. Ông làm việc bằng lý trí thuần túy của tinh thần Descartes. Nhưng ông không quên khía cạnh con người, giải thích được sự lầm lẫn cố ý, cố tình ráp nối địa bàn cũ với địa bàn mới. Thật là đáng phục khi một nhà bác học duy lý không quên phần nhân bản như thế.
Nên biết rằng R.A. Stein là một cố đạo, tức một con người không tin nhảm. Nhưng ông hăng say lao mình vào những chuyện huyền hoặc để moi ra sự thật thì đủ biết tinh thần duy lý không có quyền ngự trị trên tất cả mọi lãnh vực.
Vả lại tìm tòi trong huyền sử vẫn là duy lý đó chớ, ông R.A. Stein không hề nhắm mắt tin ngay, mà ông dùng tinh thần Descartes để phanh phui chuyện huyền thoại, tức ông duy lý hơn cả các nhà duy lý tập sự nữa.
Ai muốn làm việc có kết quả vững, cứ tìm các sách của R.A. Stein mà đọc thì tiêm nhiễm được Pháp dung hòa duy lý và nhân bản của ông, một phương pháp rất là mềm dẻo và hữu hiệu, khác hẳn với các cố đạo khác, chỉ biết duy lý cứng ngắc một cách đáng thương hại.
Các nhà viết sách của ta xưa toàn là những bực danh Nho, mà chữ Dạ và chữ Văn khác nhau hơi xa, làm sao có sự lầm lẫn được, có dở chữ Tàu như chúng tôi, cũng không lầm lẫn thì các cụ đâu có lầm, R.A. Stein cũng nghĩ như vậy.
Các cụ Tàu thì lại càng không thể lầm hơn, bởi Dạ họ đọc là Yế, còn Văn họ đọc là Màl. Chưa chắc gì tác giả của Thông Điển đã lầm Dạ Lang ra Văn Lang như ông Nguyễn Phương nói, bởi không sao mà lầm lẫn Yế với Màl được cả.
Vậy tên nước ta, dưới đời Hùng Vương, chỉ là Nước Cau Sọc, vì ta chưa học chữ Nho, không thế nào dùng hai chữ Văn Lang được. Mà đặt tên nước như vậy là vì vật tổ của ta là Cau, hơn thế, là Cau sọc.
Quốc hiệu ấy được truyền miệng trong dân chúng nhiều năm mãi cho đến khi bị trị, ta học chữ Nho rồi thì các cụ mới ghi ra trên giấy cái tên Cau sọc đó. Nhưng vì tinh thần mỹ hóa, thay vì viết Văn Lang là Cau sọc, các cụ viết Văn Lang là Con trai xâm mình, cho nó oai.
Chúng tôi đã nghiền ngẫm nhiều năm, khi nghiên cứu sổ sách buôn bán của các cụ trong vùng Đồng Môn, tỉnh Biên Hòa, các cụ biên rõ ràng là Văn Lang để chỉ loại Cau sọc mà các cụ bán ra khắp miền Nam.
So sánh hai chữ Văn Lang có nghĩa là cau sọc với hình khắc ở Đông Sơn, lại đối chiếu với vật tổ của Lạc Lồi, chúng tôi tin chắc rằng vật tổ của Lạc Việt là Cau sọc, bị biến thành Văn Lang, Con trai xâm mình, thay vì Văn Lang, Cau sọc, vì tinh thần mỹ hóa của các cụ nhà nho.
Giáo sư Kim Định cho rằng Văn Lang có thể bắt nguồn từ Văn Làng. Nhưng nếu đó là danh tự xưng tối cổ của ta thì không thể có chữ nho Văn trong đó được.
Và khi ta biết chữ Nho, ta biến cái gì ra Văn Lang thì ta phải biến cả hai chữ, chớ không sao lại ghép một chữ Nho và một chữ Nôm. Thí dụ Bố Cái thì hai từ đều là tiếng Mã Lai đã được giải thích là gì ở chương Ngôn ngữ tỷ hiệu.
Ta còn vật tổ nào khác nữa hay không, ngoài Cau sọc và Nai? Hẳn là phải còn.
Đã bảo Lạc Việt thuộc Cửu Lê, chủ nhơn Hoa Bắc thời Hiên Viên. Mà ở Hoa Bắc thì không hề có cây Cau. Thế thì cây Cau chỉ là vật tổ mới, được thờ tại địa bàn định cư mới là Bắc Việt, vật tổ thứ ba.
Vật tổ thứ nhì phải là cái gì khác hơn nữa kia. Và cái đó phải có mặt rất nhiều trong cổ vật Đông Sơn, không kém tàu cau và Nai chút nào hết.
Vật tổ thứ nhì, chúng tôi cho là con Giao Long.
Thật thế, trên tất cả các món đồ đồng đào được đều thấy có hình của những con vật thuộc loại bò sát, nhưng không giống con gì hết. Người nghệ sĩ Đông Sơn khắc hình rất khéo, thế sao họ lại khắc hình con vật ấy không giống con gì cả?
Rất là giản dị, vì không ai thấy rõ con Giao Long bao giờ cả.
Con vật đó có hình khắp nơi, ở những món không có hình chim, vẫn có con đó, khiến ta thấy sự quan trọng lớn lao của nó, lớn hơn chim nhiều lắm. Trên các lưỡi rìu, không hề có hình Chim, nhưng có hình nai và hình con vật đó, còn trên các trống, các bình thì con vật đó cũng có mặt, thí dụ bình đồng Đào Thịnh.
Con vật nầy có mặt ở nhiều cổ vật lạ, chẳng hạn như ở trong hộ tâm kinh (plaque peetorale) đào được ở Đông Sơn.
Con vật đó dính líu với con quái vật của hai địa bàn của dân Việt, địa bàn Động Đình Hồ và địa bàn Vịnh Hạ Long.
Con Giao Long ở Động Đình Hồ được Tô Đông Pha nói đến trong bài phú Tiền Xích Bích. Đó là loại bò sát tiền sử còn sống sót ở Hồ Động Đình (địa bàn cũ của dân Bộc Việt) và ở Vịnh Hạ Long nay, mà các sĩ quan hàng hải Pháp đã thường gặp và đặt tên là Serpent de mer.
Một dân tộc có địa bàn trùng hợp với địa bàn Giao Long hẳn phải thường có dịp khiếp sợ, tôn kính con vật đó và thờ nó làm vật tổ.
*
* *
Chúng tôi có nghe ông Văn Tân đã bác thuyết của Đào Duy Anh và cho rằng vật tổ của dân ta là loại Rồng Rắn. Không được đọc ông Văn Tân, chúng tôi không biết ông quan niệm Rồng Rắn ra sao, có phải là giao long của chúng tôi hay không, và nhứt là không biết do đâu mà ông Văn Tân nghĩ đến Rồng Rắn.
Nhiều sách cổ của Tàu đã định nghĩa sai Giao là Cá Sấu. Sự thật thì Giao là loại bò sát, một sinh vật tiền sử còn sống sót cho đến ngày nay, mà người ta đã thấy ở hồ Loc-Ness bên Anh quốc và hồi tiền chiến, các sĩ quan hàng hải Pháp đã thấy ở Vịnh Hạ Long.
Người Tàu cũng đã thấy con vật ấy ở Động Đình.
Đó là vật tổ của bọn Lạc bộ Mã gốc Hồ Động Đình.
Các nhà khảo cổ Âu Mỹ nghĩ cũng lạ. Trên nhiều lưỡi rìu, không bao giờ có hình chim. Ở nhiều đồ vật khác cũng thế. Nhưng ở đâu cũng có hình một loài bò sát không giống con gì cả, có khi có chơn, có khi không chơn. Thế mà các ông không nghĩ đến con vật ấy, mà cứ bị ám ảnh vì chim.
Tài liệu tham khảo riêng cho chương nầy:
G. Grossin: La province Mường de Hòa Bình, R. I., Hà Nội, 1925
Nguyễn Văn Ngọc: Người Mường Nam Phong, Hà Nội, 1925
(?): Người Mường Châu Ngọc Lặc, Thanh Nghị, 1943
G. Dumortier: Sorcellerie et divinisation, Hà Nội, 1903
J. Cuisinier: Les Mường, Géographie humaine et sociologie, Paris, 1949
L. Chéon: Tất cả các bài tạp chí của tác giả.
A. Choeffner: Le Lithophone de Ndnt Lieng Krat, R. M., 1951
E. Patte: Le Kjokken modding néolithique de Bau Tó à Tàm Tòa, BEFEO XXIV
E. Patte: Étude anthropologique du crâne de Minh Cầm, B.S.G., VII