Sử Tàu cho ta biết rằng Hiên Viên đánh diệt Cửu Lê của Xy Vưu để dựng nước Tàu.
Dân Lê hiện tồn tại ở Hoa Nam.
Thế thì chi Lạc không có mặt trong cuộc chiến đấu đó hay sao? Chắc chắn là phải có, vì sử Tàu đã cho biết có nhóm Lạc Lê và nhóm Lạc bị gộp trong Cửu Lê.
Nhưng thủ lãnh của chủng Lạc là Xy Vưu bị giết rồi toàn dân có bị tàn sát hay không, hay được tha để được làm dân Tàu?
Cho đến Tần Thỉ Hoàng, kẻ ác độc nhứt đã giết hết cả đàn bà và trẻ con của các thành phố kháng cự nhưng vẫn không tàn sát hết dân, vì cái lẽ giản dị là không thể làm được.
Nhưng theo sự đối chiếu chỉ số sọ thì sọ Hoa Bắc khác sọ Hoa Nam tức không có yếu tố Việt trong sọ Hoa Bắc. Mặt khác lại không hề có lưỡi rìu tay cầm bằng đá mài ở Hoa Bắc.
Thế thì ta phải hiểu rằng toàn thể dân Việt, hoặc đại đa số dân Việt Hoa Bắc đều di cư xuống Hoa Nam bằng cách vượt sông Hoàng Hà, và đi xa hơn, bằng đường biển, trừ một nhóm Lạc rợ Đông Di, thì không chạy được, bởi tứ phía của họ đều là người Tàu.
Việt có mặt ở Hoa Bắc nhưng không có bị gọi bằng Việt. Danh xưng Việt chỉ xuất hiện vào đầu đời Hạ mà Tàu di cư xuống Kinh Cức và gặp dân Việt ở đó mà thôi.
Họ có biết Việt nầy là Lạc ở trên chăng? Ta sẽ có bằng chứng là họ biết. Nhưng tại sao họ không gọi bọn dưới như đã gọi bọn trên thì thật là khó đoán. Và Việt là gì thì chúng tôi đã có thử giải thích rồi bằng cách đối chiếu tự dạng Việt nguyên thỉ đời Thương với lưỡi rìu Quốc Oai: Việt chỉ là danh từ, danh từ đó là danh từ của dân Việt, có nghĩa là lưỡi rìu, Tàu đã mượn danh từ đó khi mượn món vũ khí đó.
Và họ đọc chữ Việt đó khác ta, vì các nhà Nho ta đọc sai tiếng Tàu mà có người cho rằng với mục đích mỹ hóa. Người Mường đọc gần đúng như Tàu mà không có học với Tàu bao giờ như ta. Thế thì phải hiểu rằng xưa kia cả ta lẫn Mường đều đọc đúng, và Tàu đã đọc theo ta và Mường thuở ta và Mường còn ở Hoa Nam.
Người Mường đọc là Yịt
Người Tàu đọc là Yue.
Nhưng đến đời Xuân Thu thì họ viết sách, chỉ dân Việt ấy bằng một tự dạng tân tạo khác chữ Việt nguyên thỉ. Chữ Việt nguyên thỉ biến thành cái đuôi của chữ Việt Xuân Thu, ở trên thêm chữ Mễ nằm trong khung vuông.
Trong thư tịch Trung Hoa, chữ Việt thứ nhì nầy xuất hiện lần thứ nhì trong quyển Xuân Thu của Khổng Tử.
Lần thứ nhứt nó xuất hiện ngay ở đầu sách Kinh Thư, nhưng ta chỉ cần theo dõi Xuân Thu, có lợi cho sử của ta hơn.
Cái đuôi được người Tàu xem là cái bộ, khác với người Việt Nam. Ta thì ta xem chữ Mễ là cái bộ, nên ta gọi chữ đó là Việt bộ Mễ, còn Tàu thì gọi nó là Việt bộ Nguyệt, Nguyệt là cái đuôi ấy.
Không chắc là Khổng Tử đã sáng tác tự dạng ấy vì Khổng Tử dùng tự dạng để chép chuyện đời xưa chớ không phải chuyện đương thời, và có thể tự dạng đó đã có sẵn rồi, thuở mà cái đời xưa ấy đang xảy ra.
Dân Việt đời Chu đã tiến lên nông nghiệp thì không còn vấn đề chỉ họ bằng lưỡi rìu độc đáo của họ nữa, mà bằng chữ Mễ vì họ chuyện trồng lúa gạo. Nhưng cái hình lưỡi rìu còn được giữ, có lẽ chỉ để cho biết lối đọc tự dạng mới mà thôi, vì tự dạng ấy mới bày ra, phải dạy cho thiên hạ biết đọc bằng cách nào đó.
Trong thư tịch Trung Hoa, chữ Việt bộ Mễ xuất hiện vào năm 500 T.K., năm phỏng định về việc san định Kinh Thư và biên soạn Xuân Thu.
Nhưng trong Xuân Thu, Khổng Tử chép chuyện đời xưa, chớ không phải chép chuyện đương thời. Cái đời xưa về dân Việt đó là năm 1115 T.K. năm mà Hùng Dịch được phong ở Kinh Man với tước Tử.
Khổng Tử kể chuyện vua Chu Thành Vương phong cho Hùng Dịch ở đất Kinh Man cũng gọi là Kinh Việt, hoặc Châu Kinh và có thể kể như tự dạng Việt bộ Mễ xuất hiện vào năm 1115 T.K.
Chữ Việt bộ Mễ ấy chỉ chi Lạc hay chi Âu?
Ta có bằng chứng rằng nó chỉ chi Lạc, chỉ cái nhóm Mã Lai đợt II mà hiện nay là người Nam Dương, bằng cách đối chiếu ngôn ngữ của dân Sở ở Châu Kinh và ngôn ngữ của người Mã Lai Nam Dương ngày nay.
Thật là huyền diệu. Ngôn ngữ của người nước Sở, tưởng như không còn ai biết được nữa hết, nhưng vẫn có thể biết, có thể dùng để đối chiếu, và chúng tôi đã đối chiếu rồi ở chương Chủng Nam Mông Gô Lích.
Chữ Nho phiên âm Sở ngữ: Nậu ô đồ
Quan Thoại: Nậu ú tù
Mã Lai ngữ Nam Dương (hiện kim): Mâu sú sú
Xem ra thì sau 3 ngàn năm, tiếng Mã Lai Nam Dương không có thay đổi, bằng vào bản đối chiếu trên đây, mặc dầu đó là đối chiếu những từ phiên âm, tức có sai chút ít.
Nhiều nhà bác học Âu Mỹ cho rằng dân bản xứ của Sở là đủ thứ man di, nhưng chúng tôi đối chiếu ngôn ngữ thì biết chắc họ là chi Lạc, đợt II, không có man di nào khác nữa hết, hoặc có mà không phải dân chủ lực. Dân chủ lực phải là dân có ngôn ngữ được sử Tàu cho là ngôn ngữ chánh, mà ngôn ngữ ấy, ta có thể biết được nhờ sự phiên âm rất sát của các cổ thư Trung Hoa. Đó là tiếng Mã Lai Nam Dương, mà ta đã thấy rồi trong cái tên của một viên tướng Sở là Nậu Ô Đồ (của sách Tàu phiên âm) có nghĩa là Bú vú cọp. Tiếng Mã Lai Mâu sú sú cũng có nghĩa là Bú vú cọp. Mâu sú sú được Tàu phiên âm rất sát, chỉ tại các nhà Nho ta đọc sai là Nậu Ô Đồ, chớ Tàu thì đọc gần giống, Nù ú tù.
Cái thuyết cho rằng dân Sở gồm đủ thứ man di của Guy Moréchand hoàn toàn sai, vì Guy Moréchand lập thuyết không chứng tích. Khi chúng tôi đưa ra ba danh từ Sở, mà người Sở tạm dùng làm nhân danh, để đối chiếu thì nó lòi ra là chỉ có một thứ man di độc nhứt, đó là Mã Lai đợt II, tức là Mường, Chàm và bọn đi Nam Dương.
Cái nguy trong sự lập thuyết không có chứng tích là như thế đó.
Vậy ở Kinh Cức tức Hồ Bắc nay, vào đầu đời Chu, không có chi Âu tức Thái, mà toàn thể là Lạc đợt II, tức Mã Lai Nam Dương. Sở chỉ là tổ tiên trực tiếp của người Mường chớ không phải của ta. Nhưng thật ra thì ta vẫn có mặt nơi đó. Để rồi xem.
Thế rồi tịt ngòi. Hùng Dịch bị bỏ quên, y hệt như Vô Dư trước đó. Nhưng thình lình, chép về một câu chuyện đời xưa, ít xưa hơn, một câu chuyện xảy ra năm 672 T.K. tức sau câu chuyện trước đến 443 năm, Khổng Tử lại đổi tự dạng của chữ Việt.
Lần đầu tiên, chữ Việt thứ ba xuất hiện trong thư tịch Trung Hoa. Việt có nghĩa là Vượt qua.
Vào năm 672 T.K. đó, vua Sở Thành Vương lên ngôi và vua nhà Chu lại xuống chiếu phủ dụ: “Khanh hãy chế phục và bình định những rợ Nam man để cho lũ man di Việt đừng xâm phạm trung nguyên”.
Nên biết rằng Khổng Tử thận trọng từng chữ, vô địch thế giới về cách dùng danh từ, thì không phải người muốn viết sao thì viết đâu, mà hẳn có một biến cố gì xảy ra.
Biến cố ấy là đây.
Vào năm đó, nước Sở đã ăn lấn xuống Hồ Nam rồi, sau khi diệt nước Huyền ở Hồ Nam, và như vậy, họ phải trực tiếp chạm trán với một nhóm Việt khác hơn. Đó là nhóm Âu.
Té ra Âu chạy xuống Hồ Nam và Quý Âu. Nhưng ở hai nơi đó, Âu gặp đồng bào đang nằm sẵn ở nơi đó, hay gặp đất trống thì chắc trên đời nầy không ai có thể biết được.
Nhưng có một điều nầy là Âu tuy còn bị gọi là Âu, nhưng lại được gọi bằng danh xưng khác nữa là Âu Việt vì Tàu biết rằng Âu với Việt đồng chủng.
Và Âu Việt chỉ là người Thái ngày nay chớ không có ai đâu lạ, vì người Âu tồn tại và họ nói tiếng Thái.
Vậy họ tái ngộ lại với Âu Hoa Bắc và chợt thấy rằng Âu cũng giống Lạc, nên cũng gọi Âu là Việt, nhưng vì Âu có khác nhau chút ít với Lạc nên họ phải bày ra một tự dạng thứ ba để có hai tự dạng hầu chỉ hai thứ dân.
Nhưng có một sự kiện hơi kỳ dị là họ không dùng tự dạng bộ Mễ để chỉ Lạc nước Sở nữa mà dùng để chỉ dân Âu Việt đó, còn Việt nước Sở thì được chỉ bằng tự dạng mới là tự dạng thứ ba.
Mãi cho đến ngày nay, dân Quảng Đông cứ còn được chỉ bằng chữ Việt bộ Mễ.
Nhưng ta suy cho cặn kẽ, ta sẽ phải phục các ông Tàu đời xưa, họ làm việc ý thức kinh hồn. Trong cái mà ta ngỡ là rối reng, vô trật tự, lại có suy tính, có sắp đặt hẳn hòi, chớ không phải làm sao cho xong thì thôi đâu.
Cả hai thứ Việt đều trồng Mễ. Vậy chữ Việt nào bằng tự dạng bộ Mễ cũng đúng cả. Nhưng họ cần phân biệt, mà Âu thì không có biệt sắc nào hết, trái lại Lạc thì lại có. Lạc có chuyện lạ là Tàu biết đám đó có một phần đã VƯỢT Hoàng Hà, để nhập với Lạc nằm sẵn ở dưới Hoàng Hà, còn Âu thì chạy mất ngay sau khi thua Hiên Viên nên họ quên Âu nầy là Lê kia.
Thế nên Lạc ở Sở mới được chỉ bằng tự dạng mới, nói lên được cái biệt sắc VƯỢT Hoàng Hà.
Tự dạng thứ ba đó là một động từ mà họ đã có sẵn rồi, chớ không phải là tân tạo đâu. Động từ ấy có nghĩa là Vượt qua. Nhưng động từ ấy lại là đồng âm với Việt bộ Mễ.
Thế thì hay quá. Họ cứ biến động từ ấy thành danh xưng để chỉ Việt nước Sở là dân đã Vượt qua Hoàng Hà, một công mà hai việc, giữ được âm Việt, lại chỉ được một biệt sắc của một thứ dân mà họ muốn phân biệt với Âu.
Chữ Việt thứ ba ấy lại còn hay ở chỗ nầy là nó gồm chữ Tẩu là chạy trốn, ăn vào, với việc chạy trốn của Việt Hoa Bắc.
*
* *
Không thể tin rằng vì lười mà họ bày ra tự dạng thứ ba. Họ đã bày ra quá nhiều chữ một ông quan thường cỡ ông Quận trưởng đời Tần, ông Vương đời Hán, suốt đời cũng chẳng dùng tới mà chỉ có các nhà bác học là có dùng mà thôi.
Như vậy là họ lấy động từ Việt để biến thành danh từ chỉ tên dân là họ có ý ngầm nói cái gì đó. Rồi ta sẽ thấy cái ý thức đó lộ rõ ra với chữ Việt thứ tư xuất hiện vào đời Hán, trong quyển Hoài Nam Tử của Lưu An.
(Cũng nên nhớ rằng Việt bộ Mễ dùng để chỉ riêng Âu tức Thái, là do Khổng Tử ghi vào sách từ năm soạn Xuân Thu kể câu chuyện trên, chớ không phải vì vua Quang Trung muốn đòi Lưỡng Quãng nên Tàu mới sửa lại vào thời Nguyễn Huệ để phi tang đâu, như có người tưởng và viết ra như vậy).
Cũng nên lưu ý quý vị rằng lại có một chữ Việt thứ tư nữa, chữ Việt nầy xuất hiện vào đời Hán, trong quyển Hoài Nam Tử của Lưu An.
Chữ Việt thứ tư hơi giống giống chữ Việt thứ ba, còn giữ chữ Tẩu là chạy trốn, nhưng chữ Tuất thì bị thay bằng chữ Thích giản dị hóa.
Chữ Thích là cái lưỡi rìu, viết rất rắc rối, nhưng giản dị hóa rồi thì nó chỉ còn có một bên phải, mà bên phải đó hơi giống bên phải của chữ Việt thứ ba, nhưng khác nghĩa, cố nhiên.
Bên phải ấy, cứ là chữ Qua là cây Giáo, nhưng trong chữ Thích giản dị hóa cái phết và cái chấm ở bên trái chữ Tuất được thay bằng một cái đá.
Tại sao Lưu An lại làm như vậy? Cũng cứ là có ý thức, có suy tính.
Lưu An nói chuyện Tần Thỉ Hoàng đánh Ngũ Lĩnh mà ở Ngũ Lĩnh thì người Tàu phải điên đầu với lu bù thứ Việt: Nước Đông Âu, nước Tây Âu, nước Mân Việt và hàng chục nhóm Việt nhỏ chưa lập quốc sống cài răng lược giữa hai ba quốc gia đó.
Không thể dùng chữ Việt thứ ba được nữa vì cớ bây giờ có Âu, có Lạc, mà lại có lu bù Lạc.
Tự dạng thứ tư đó, không biết có phải do chính Lưu An sáng tác hay không, nhưng nói lên cái ý niệm Bách Việt, cái ý niệm không còn phân biệt được nữa trong vùng hỗn loạn đó, mà hay nhất là nó trở lại với ý niệm lưỡi rìu thuở ban đầu với chữ Thích giản dị hóa.
Ngày nay thì tất cả các sách Việt có chua chữ Tàu đều dùng tự dạng thứ tư đó, chỉ trừ quyển Việt Nam Văn Học toàn thư của Hoàng Trọng Miên là dùng chữ Việt thứ ba.
Nhưng không phải các tác giả ta có thâm ý nào trong lối dùng tự dạng mà vì thợ đúc chữ ở Chợ Lớn chỉ đúc có chữ Việt thứ tư mà thôi, tức Tẩu + Thích, có ai muốn dùng tự dạng thứ ba cũng không được nữa.
Sách của ông Hoàng Trọng Miên, chữ Nho viết tay rồi làm bản kẽm, nên ông tha hồ muốn dùng chữ Việt nào tùy thích của ông, hay của ông cụ viết chữ Nho hộ ông.
Kể ra thì chữ Việt thứ tư của Lưu An là sai vì nó chỉ là chữ Việt dùng tạm bợ trong thời hỗn loạn không thể phân biệt Việt nào với Việt nào, chớ khi biết rõ Việt Nam là Lạc hai đợt thì phải dùng chữ Việt thứ ba mà Khổng Tử đã dùng để chỉ đích xác dân Lạc của cả hai đợt: bọn Tẩu + Tuất.
Thế thì toàn thể Việt ở trên Ngũ Lĩnh là một thứ giống nhau, Sở, Ngô, Việt gì cũng được chỉ bằng một tự dạng độc nhứt. Bách Việt là danh xưng dùng để chỉ Việt ở dưới Ngũ Lĩnh, còn bọn Việt ở trên, không bao giờ được gọi là Bách Việt cả đâu. Ta cũng không bao giờ được họ gọi là Bách Việt. Đã có bằng chứng như thế.
Hai chữ Việt, chữ thứ ba của Khổng Tử và chữ thứ tư của Lưu An, trông sơ, không khác nhau bao nhiêu, có thể tưởng như là không có thay đổi tự dạng, nhưng có thay đổi và thay đổi rất hay, vì nó được viết với chữ Thích giản dị hóa, tức trở lại ý nghĩa Việt nguyên thỉ là cái rìu, vừa nói lên được tình trạng hỗn loạn, lại vừa không bỏ mất ý niệm lưỡi rìu như chữ Việt thứ ba đã bỏ mất.
(Nhưng tự điển Đào Duy Anh lại viết chữ Việt thứ ba ấy với chữ Thú chớ không phải chữ Tuất).
Thật ra thì hai chữ đó quá giống nhau, chỉ có cái chấm là khác nhau mà thôi, và có lẽ thợ nhà in của Đào Duy Anh đã sắp lầm chăng?
Nhưng trong bản chánh thì không thấy có cải chính. Mà nếu là Thú thì là Tàu đã dùng tự dạng rất hay, vì bọn Việt thứ ba đó là bọn Việt Vượt Hà để Tẩu, nhưng có đồn thú lại sau khi Vượt Hà, chớ không chạy biệt dạng như bọn Âu.
Nhưng dầu sao, tự dạng thứ ba cũng chỉ là động từ thường mà Tàu đã có sẵn rồi, và chỉ được Khổng Tử mượn âm để làm tên dân hầu phân biệt hai thứ Việt mà họ chợt biết là có hai thứ khi Sở bành trướng xuống Hồ Nam, gặp Âu ở Quý Châu, chớ không có hàm ý nghĩa gì rõ rệt như Việt nguyên thỉ hay Việt bộ Mễ.
Chữ Việt thứ tư chỉ Việt Nam ngày nay, được toàn thể báo Tàu ở Chợ Lớn dùng, tuy sai, về nguyên tắc, nhưng lại đúng hơn Việt thứ ba, vì nó trở lại ý niệm lưỡi rìu.
Sự phân biệt hai chi bằng hai tự dạng xảy ra trễ lắm cũng vào năm 672 T.K. Có thể họ đã phân biệt trước đó nữa và tự dạng thứ ba đã có trước đó. Nhưng không còn dấu vết gì khi chúng ta chỉ biết xem thư tịch là mốc dấu độc nhứt và chắc chắn mà thôi.
Lại tịt ngòi trong 50 năm nữa, tức cho tới năm 613 T.K. thì dân Việt lại được đếm xỉa tới. Lần nầy kẻ điểm dân Việt là Tả Khâu Minh.
Thật ra thì Tả Khâu Minh viết Tả Truyện vào khoảng năm 560 T.K. và cũng nói chuyện đời xưa, nhưng chỉ xưa có 50 năm mà thôi, vì ông chép chuyện xảy ra năm 613 T.K. Cho đến năm 659 T.K. thì Khổng Tử, trong Xuân Thu, còn tiếp tục gọi đất đó là đất Kinh Việt nhưng không nói đến man di Việt nữa. Vào năm 659 đó thì họ Khổng bỏ địa danh Kinh Việt mà gọi nơi đó là nước Sở. Thế nghĩa là bọn di cư, dưới sự lãnh đạo đợt hai của Hùng Dịch đã tràn ngập dân Việt rồi, tự thấy họ đủ sức lập quốc nên mới dựng lên cái nước mà Khổng Tử vừa chỉ tên. Họ Khổng chuyên môn gói ghém tất cả các sự kiện chằng chịt vào một câu ngắn hai ba tiếng thì ta phải suy luận để mà hiểu cho đúng. Với tinh thần tôn quân và quý phái triệt để, Khổng Tử coi thường vua Sở, nhìn nhận nước Sở đã thành lập mà không nhìn nhận vua Sở và cứ tiếp tục gọi ông ấy là Sở Tử, cái tước hạng bét mà Chu Thành Vương đã ban cho Hùng Dịch. Khinh cả quý tộc Trung Hoa họ Hùng, dĩ nhiên Khổng Tử càng khinh man di Việt hơn và không hề bố thí cho bọn ấy lấy một tiếng.
Nhưng Tả Khâu Minh, người làm “phụ đề” cho Khổng Tử lại khách quan và khoa học và nhờ Tả Truyện mà ta biết rõ hơn về dân Việt.
Theo Tả Khâu Minh thì tiếm xưng Vương hiệu năm 613 T.K. rồi thì Hùng Cừ, cháu sáu đời của Hùng Dịch, bắt đầu nuốt các nước Việt. Thế nghĩa là Việt tộc đã đủ văn minh để mà lập quốc rồi vì đã có các nước Việt trước cả khi dòng họ Hùng ly khai lập quốc nữa, chớ không phải sau. Quả thật thế, về sau, sử đời Hán, nói rõ hơn, Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng chép rằng dòng họ Hùng đã bắt đầu nuốt một nước Việt, một nước hoàn toàn man di, vào năm 887 T.K. thuở mà Sở chưa có quy củ gì cả, chưa lập quốc, và cứ cai trị với tước Tử của Chu Thành Vương.
Người ta nói nuốt chủng Việt chỉ là sáng kiến của họ Hùng, chớ không phải của Trung Hoa. Nhưng nếu họ Hùng không làm, chánh quốc của y cũng sẽ ra lệnh cho y làm.
Lời dặn dò Hùng Dịch của Chu Thành Vương năm nhà Chu gởi y xuống đất Kinh Việt không phải là có giá trị vĩnh viễn mà chỉ là thái độ tùy nghi theo tình thế. Nhà Chu chưa đủ mạnh, còn dân Việt thì quá đông, chưa thể nuốt được vào trước 887 T.K.
Đến thời Hùng Cư thì mọi việc đã chín muồi, nhưng nhà Chu lại suy vong, còn đâu để ra lịnh nữa, thế nên họ Hùng mới tự động có sáng kiến, và sáng kiến đó chỉ là hoài bão âm thầm của Hoa chủng bởi Hùng Cừ thuộc Hoa chủng. Y làm ăn riêng cho y thật đó, nhưng trên thực tế thì là cho Trung Hoa.
Nhưng họ Hùng chỉ chiếm chơi vậy thôi để bắt nộp cống, chiếm xong rút về hết vì không đủ sức trực trị man di. Vấn đề không thể trực trị man di, về sau cũng tái diễn lại mãi cho đến dưới thời Triệu Đà và Lộ Bác Đức, họ cứ để cấp lãnh đạo của ta lại là cấp Lạc Tướng chỉ trị lỏng lẻo qua trung gian bọn hợp tác đó mà thôi.
Lại cứ theo Tả Khâu Minh thì năm 611 T.K. tức 176 năm sau Hùng Cừ, toàn thể dân Việt ở các nước rợ ở bờ Đông sông Hán, mà họ Hùng gọi là các rợ Hàn Đông, gồm có những nước sau đây: nước Ba (xin đừng lầm với nước Ba thứ nhì ở Tứ Xuyên), nước Đặng, nước Ưu, nước Giao, nước La, nước Viên, nước Nhị, nước Chẩn, nước Thân, nước Giang, nước Tùy, nước Huỳnh, nước Dung, nước Bộc, đều nổi lên đánh Sở.
Đây là một cuộc kết liên của các quốc gia Việt để chống một nước xưa kia cũng là rợ Việt nhưng đã được đồng hóa với Tàu rồi và tiếp tục con đường Nam tiến, cầm cờ tiên phong cho Trung Hoa.
Tả Khâu Minh cho biết Sở Trang Vương thấy địch quá đông, hốt hoảng định bỏ nước di cư toàn dân đi về hướng Tây, may nhờ các tướng sĩ trấn an và liều chết xông vào chiếm được nước Đặng và nhập luôn nước đó vào nước Sở, có lẽ vì bây giờ phong tục đôi bên gần nhau rồi, nên đã trực trị được rồi.
Nhờ thế mà man di các nước khác phải lui binh.
Man di Việt đã có ý thức quốc gia rồi, lại biết đoàn kết nữa, và không phải họ bỏ nước cho dân Trung Hoa mà không chiến đấu anh dũng như hồi họ còn ở Hoa Bắc.
Tả Truyện lại cho biết có vài chi tiết nữa rất là quan trọng đối với việc tìm tòi của ta: Nhóm Việt lãnh đạo liên minh đó tên là nhóm Bộc Việt vốn là dân Bách Bộc ở trên Hoàng Hà chạy xuống đó.
Xét tự dạng của tiếng Bộc thì như thế nầy. Chữ ấy viết y như là tên của con sông Bộc ở giữa tỉnh Hà Nam và Sơn Đông.
Theo Tối tân Trung Quốc phân tỉnh đồ thì sông Bộc bắt nguồn trên Cao nguyên Sơn Đông rồi chảy qua Hà Bắc, Hà Nam, và tại Hà Nam nó đổ vào sông Hoàng Hà. Thế là một phụ lưu của sông Hoàng Hà vậy.
Theo tự điển Từ Hải thì sách Bách Bộc Điền cho biết rằng Bách Bộc là chủng tộc danh, và theo Lệ sử dân thì Bộc thị tức Bách Bộc chi tộc.
Còn Nhỉ Nhả thì định nghĩa rợ Lạc định cư từ lưu vực sông Bộc ra đến biển Đông và lên đến cực Bắc Trung Hoa.
Vậy Bộc Việt chỉ là bọn Bách Bộc ở trên sông Hoàng Hà di cư xuống mà bọn Bách Bộc thì lại có địa bàn ăn khớp với địa bàn của dân Lạc Đình, tức Lạc bộ Trãi.
Thế thì ngay ở Hoa Bắc vào thời thượng cổ, ta đã là Bách rồi, nhưng không là Bách Việt mà là Bách Bộc. Danh xưng Bách Bộc chỉ là danh xưng mà Tàu đặt ra, lấy địa bàn làm ngữ nguyên, chớ không lấy chủng tộc, Lạc kia, mới có ngữ nguyên chủng tộc.
Vậy Cửu Lê = Bách Bộc = Lạc = Lai di
Sở dĩ cứ “Bách” mãi là vì chủng Mã Lai chưa thống nhứt, nhóm nầy khác nhóm kia chút ít và tự trị. Xy Vưu chỉ liên kết họ được để đánh Hiên Viên là kẻ thù chung chớ sự liên kết nầy không là một cuộc thống nhứt. Sông Lạc cũng ở vùng đó, nhưng cách sông Bộc lối 100 cây số, đó là chưa kể sông Lạc thứ nhì, mà thuở xưa Tàu viết với Các + Chuy, sông Lạc ấy thì chảy từ Thiểm Tây vào đất Thục và đó là địa bàn của rợ Khuyển Nhung. Nhưng cả hai sông Lạc ấy, ngày nay đều viết với bộ Thủy hết thì khó lòng mà biết Lạc thư ở vùng sông Lạc nào, dầu sao cũng không phải ở vùng đất của Bách Bộc, tổ tiên của Bộc Việt.
Té ra Tàu biết quá rõ về bọn Cửu Lê thời Xy Vưu, chuyện Hiên Viên diệt Xy Vưu không chép gì hết bọn Cửu Lê, nhưng các sách khác thì lại có chép, chỉ cần ráp nối lại là dò ra nguồn được. Cửu Lê tức Bách Bộc tan rã, nhóm Lạc bộ Trãi di cư sang Triều Tiên để biến thành rợ Tam Hàn (theo sách Tàu và theo khoa khảo tiền sử Âu châu). Nhóm khác vượt sông Hoàng Hà xuống dưới nầy để bị gọi là Bộc Việt, tức rợ Việt nhưng gốc là Bách Việt, chớ không phải là rợ Việt nằm sẵn tại chỗ.
Thế nghĩa là Bộc Việt là Mã Lai đợt I, loại không di cư bằng đường biển của khoa khảo tiền sử, mà là loại vượt Hoàng Hà mà khoa khảo tiền sử không biết là có.
Tiền sử học đã cho biết bọn di cư tới Cổ Việt là bọn đi bằng đường biển. Nhưng chúng tôi lại nghiên cứu bọn vượt Hà sẽ bị đồng hóa với Lạc bộ Mã chủ đất Hoa Nam, vì không có tài liệu nào về bọn đi biển cả, kể cả danh từ bé cũng là danh từ của Tàu mà ta vay mượn, kể cả một truyền thuyết nghèo nàn về cuộc di cư oanh liệt đó cũng vắng bóng thì ta tạm theo dõi bọn đi bộ vậy.
Bọn nầy vượt Hà từ thời Hiên Viên, chớ không phải vào thời Tả Khâu Minh đâu, và có lẽ từ đó đến đời Chu, họ đã bị đánh đuổi lần xuống đến sông Dương Tử thì Tả Khâu Minh gặp lại họ. Có lẽ vượt Hà rồi, họ định cư lại ngay, cho đến đời Hạ thì Tàu cũng vượt Hà tại ngả ba sông Vị rồi ở các nơi khác nữa, như ở cái chỗ mà bọn Bách Bộc vượt Hà thì người Tàu cũng vượt Hà để về sau lập nước Trịnh nằm “nửa Nam nửa Bắc”, tức nước Trịnh gồm đất của Bách Bộc ở bên trên Hoàng Hà và đất bên dưới Hoàng Hà của Bách Bộc vượt Hà.
Mã Lai đợt I đã gặp Mã Lai đợt II rồi, từ đời Hạ. Nhưng ai giỏi hơn ai?
Ngay từ thuở đó Mã Lai đợt I cũng đã lãnh đạo Mã Lai đợt II rồi, vì kẻ lãnh đạo là Bộc Việt.
Vậy là có bằng chứng rằng Tàu biết Việt ở dưới Hoàng Hà đích thị là Lạc ở trên Hoàng Hà. Họ gồm hai chi, một chi nằm sẵn ở dưới Hoàng Hà từ đời thuở nào không ai biết và một chi là bọn ở trên vượt Hà chạy xuống đó, không kể bọn di cư ra Triều Tiên mà Tàu cũng biết.
Tàu chỉ không biết có một việc là bọn di cư sang Triều Tiên ấy rồi lại di cư sang Nhựt, Đài Loan, Hải Nam, Việt Nam và Célèbes mà thôi.
Nhưng chính nhờ họ biết một giai đoạn Lạc Đông Bắc đi Triều Tiên mà ta giải thích được cái bí của khoa khảo tiền sử, khoa ấy không biết Mã Lai đợt I từ đâu mà di cư sang Triều Tiên.
Ta đã thấy địa bàn liên tục của Âu tức Thái, nhưng giờ thì ta mới thấy địa bàn liên tục của Lạc. Ta không thấy ngay vì họ bị Tàu đổi tên, tùy theo địa bàn.
Lạc là một nhóm trong Bách Bộc có địa bàn ở sông Bộc (Hoa Bắc). Vượt Hà xong, họ định cư ở Hà Nam, cái phần Hà Nam nằm ở dưới Hoàng Hà khác với phần chứa sông Bộc, nhưng cũng cứ trong tỉnh Hà Nam. Rồi từ Hà Nam đó, họ bị Vô Dư lấn xuống Hồ Bắc và định cư tại lưu vực Dương Tử, ở ranh giới Hồ Bắc và Hồ Nam, ở đó họ lập quốc, mà lập lu bù quốc rồi liên kết đánh Sở.
Tuy nhiên địa bàn Lạc vẫn có bị đứt đoạn ở Bắc Phúc Kiến mà Âu thọc ra biển và thành lập một nước Đông Âu yểu tử.
Rồi ta sẽ thấy bọn Lạc chạy bộ nầy cũng có chạy bộ xuống Việt Nam, chớ không riêng gì bọn chạy bằng đường biển.
Tóm lại, Mã Lai đợt I đến cổ Việt Nam bằng hai ngả, đường biển và đường bộ, chớ không phải chỉ bằng đường biển như khoa khảo tiền sử đã cho biết.
Dĩ nhiên bọn chạy bằng đường biển phải tới trước, còn bọn chạy bằng đường bộ tới sau vì bận lập quốc dọc đường, tức tới sau đến 2.500 năm, tới đồng lúc với Mã Lai đợt II.
Dầu sao, cái gốc chánh cứ là Bách Bộc, một danh xưng mà có lẽ Tàu đặt cho họ, còn danh tự xưng của họ cứ là Lai (Mã Lai) mà Tàu đọc là Ló rồi các nhà nho ta đọc sai lại là Lạc.
Bọn chạy bộ đồng chung số phận với Mã Lai đợt II, với bọn nói Cẳng thay Chơn, và có lẽ tới nơi cùng lúc với nhau, và người Mường, bọn ở trọ có lẽ là bọn nầy, vì sự hỗn hợp ở Dương Tử đã giúp họ quen biết nhau nên dễ xin ở trọ hơn là bọn Lạc nói Cẳng xa ta hơn bọn hỗn hợp.
Chúng tôi đã chứng minh rằng trống đồng là của bọn đợt II, nhưng nhà bác học Trung Hoa Lăng Thuần Thanh lại viết rằng bọn Bộc Việt nầy có trống đồng, thì thật không còn biết ai đã phát minh trống đồng nữa, vì Bộc Việt đến xứ ta cùng lúc với bọn II thì cả hai thứ Bộc Việt và đợt II đều có trống, nhưng ai đã phát minh ra trống? Có thể là của bọn II mà Bộc Việt bắt chước, mà cũng có thể là của Bộc Việt mà đợt II bắt chước, dầu sao đó cũng là phát minh về sau, tại địa bàn Hoa Nam, chớ thuở rời địa bàn Hoa Bắc thì Mã Lai đợt I chưa biết kim khí.
*
* *
Nhờ Tả Khâu Minh mà ta biết rõ đơn giản đích xác của từng nhóm Bộc. Theo họ Tả thì nước Bộc là nước chánh hiệu của nhóm Bộc Việt, nhưng không rõ nằm tại đâu. Nhưng nước Viên thì nằm tại đầm Mộng.
Cũng nên biết sơ qua về hai cái đầm danh tiếng ở vùng đó là đầm Vân và đầm Mộng, được Kinh Thư nói đến khá nhiều. Hai đầm lầy nằm khít nhau, một ở tả ngạn Dương Tử, một ở hữu ngạn Dương Tử. Nó giống như đồng Tháp Mười của ta là ở quá thấp và toàn là bùn lầy không dùng được. Nhưng đến đời Chu thì nó đã đầy lần, khô lần, vì thiên Vũ Cống cho rằng đất đã cày cấy được rồi nên nước Viên lập quốc ở đó là chuyện dĩ nhiên.
Nhà bác học Trung Hoa ngày nay, Lăng Thuần Thanh, gọi đó là hồ Vân Mộng còn các nhà học giả ta thì cho đó là tên thứ nhì của hồ Động Đình.
Nhưng chúng tôi kiểm soát thì không phải thế. Đọc quyển địa lý mới nhứt của Trung Hoa là quyển Tối tân Trung Quốc phân tỉnh đồ, ta chỉ thấy bình nguyên Vân Mộng, chớ không có cái hồ nào tên là hồ Vân Mộng cả, mà bình nguyên ấy lại nằm cách xa hồ Động Đình đến một trăm cây số.
Hồ Động Đình chỉ có bốn tên mà chúng tôi đã ghi ra rồi ở chủng Nam Mông Gô Lích, còn hồ Vân Mộng, có lẽ hồi thượng cổ là hồ thật đó, nhưng đến đời Chu thì nó đã được bồi đắp thành bình nguyên rồi. Các học giả ta lẫn lộn hai tên, còn Lăng Thuần Thanh thì không lẫn lộn, nhưng có lẽ viết theo tài liệu thượng cổ mà cánh đồng ấy còn là hồ.
Như đã nói, Tả Khâu Minh cho biết nước Viên ở đầm Mộng, còn Lăng Thuần Thanh thì cho biết nước Bộc nằm cạnh “hồ Vân”. Mặc dầu họ Lăng sai loại danh, nhưng nhờ họ Lăng mà ta đoán được rằng nước Bộc đối diện với nước Viên, Viên chiếm đầm Mộng, thì Bộc hẳn là phải chiếm đầm Vân ở tả ngạn Dương Tử.
Vị trí của hai nước Viên và Bộc đã được biết. Nước Dung cũng thế vì nó nằm sát bờ Đông sông Hán.
Từ bao lâu nay, Tây, Tàu, Nhật, Đại Hàn, Việt đều có thử vẽ dư đồ của nước Tàu từ thời Xuân Thu và thời Chiến quốc nhưng không ai vẽ đúng hết.
Nhưng tưởng không khó vẽ ra bức dư đồ ấy đâu, vì tài liệu có sẵn trong nhiều sách đời Chu.
Thí dụ họ cho rằng nước Trịnh nằm nửa trên nửa dưới sông Hoàng Hà tức là ở Hà Nam. Đó là ở chiều ngang, còn về chiều dọc thì nước Trịnh nằm ở giao lưu sông Bộc và sông Hoàng Hà (Hoa Bắc).
Đại khái là như thế còn biên giới chính xác của nước Trịnh thì cũng có thể biết được nhờ những sông núi nơi xảy ra các chiến trường nước Trịnh đánh với nước nầy nước nọ.
Bao nhiêu nước khác cũng thế, thí dụ nước Ngụy có lân bang phía Tây là Tần, phía Đông là Hàn, Triệu, còn Triệu thì ở Tây nước Tề.
Nước Ngụy đó nằm ở phía Bắc nước Sở và ở phía Nam nước Hàn, nước Yên, nước Triệu. Vậy Ngụy không ở Đông Triệu mà ở Đông Nam của Triệu Đà.
Kinh đô Ngụy là An Ấp, tức kinh đô của nhà Hạ, ở Tây Nam Sơn Tây, dư đồ ngày nay có vẽ rõ, còn kinh đô của Triệu là Hàm Đan, dư đồ ngày nay cũng có vẽ rõ.
Ngụy lại bỏ An Ấp, dời đô qua Đại Lương và xưng là nước Lương.
Vẽ xong dư đồ nước Ngụy rồi, nhờ những yếu tố đó, thì các nước khác quá dễ vẽ. Khi lấy Triệu làm cái mốc đánh dấu trên dư đồ ngày nay.
Trong cái ngỡ là hỗn loạn của các cổ thư Trung Hoa ta lặp lại được trật tự rõ ràng, minh bạch là cái hỗn loạn đó do sự làm việc thiếu phương pháp của Tàu đời Chu, chớ không phải do sự dốt của họ.
Họ không dốt, họ nói đúng, thì họ nói lộn xộn thế nào rồi ta cũng biết được sự thật, vì họ không có mâu thuẫn ở chỗ nào hết nhờ họ không dốt.
Ngô và Việt khi đánh nhau ác liệt quá, cả hai đều sắp diệt lẫn nhau thì họ thương thuyết với nhau như thế nầy: “Hai nước ta có y phục, phong tục, kiếm, thuyền giống nhau thì nên thống nhứt lại là hơn”. Lời thương thuyết đó cho ta biết họ là Việt thuần chủng, còn các nước khác là Tàu, hoặc đã lai Tàu như Sở.
Nước La là nước nào? Ngày nay dân tộc mà ta gọi là Lô Lô, thì Tàu gọ là La La. Vậy nước La là nước của dân Lô Lô, mà ta sẽ chứng minh rằng Lô Lô cũng là Việt, thuộc chi Âu tức Thái.
Nước Giao cũng là một nước của dân Việt, cái nước mà cổ thư Trung Hoa cho biết là dân búi tóc, và ông Lê Chi Thiệp và ông Nguyễn Bạt Tụy cho rằng nước tổ của ta, vì danh xưng Giao và vì sự kiện búi tóc.
Nhưng chúng tôi đã cho thấy ở một chương khác rằng búi tóc là tục của một khối Việt lớn, cả Dravidien cũng búi tóc, chớ không riêng gì Giao. Và không tìm được dây liên hệ giữa Giao đó và Giao Chỉ, mà có liên hệ giữa Bộc Việt và Lạc Việt. Liên hệ ấy là Bộc Việt có trống đồng, y như Lạc Việt (Lăng Thuần Thanh). Lăng Thuần Thanh cho biết rằng chỉ có Bộc Việt là có trống đồng chớ không phải tất cả các nhóm Việt đều có. Giao không có trống đồng.
Ta thấy gì? Tả Khâu Minh kể chuyện Bộc Việt vào năm 611 T.K, tức chuyện xảy ra trước thời Chiến quốc.
Mà vào thời đó thì theo nhà bác học Lăng Thuần Thanh, dân Bộc Việt đã biết chế tạo trống đồng loại I rồi (xin đừng lầm trống đồng loại I với Mã Lai đợt I. Mã Lai đợt I chưa biết kim khí thuở di cư, xin nghiên cứu riêng lịch sử trống đồng).
Mà Bộc Việt đích thị là Lạc ở trên Hoàng Hà, di cư xuống đó sau biến cố Xy Vưu.
Họ đã có trống rồi năm 611 T.K. thì tức họ đã tiến lên thời đại đồng pha ít lắm cũng 500 năm trước đó. Thế là chủng Mã Lai đã tiến đến thời đại đồng pha đã ba ngàn năm rồi, tính theo con số tối thiểu về năm tháng.
Thế là ăn khớp với chuyện Tư Mã Thiên kể chuyện Tần Mục Công diệt được rợ Nhung năm 659 T.K. rồi thì vua nhà Chu ban thưởng cho Tần Mục Công một cái trống bằng kim khí.
Người Tàu không bao giờ có chế tạo trống bằng kim khí cả, và tặng trống là món quà rất xoàng đối với cái công lớn đó, nếu trống đó là trống của Tàu. Nhưng nếu là trống của Việt, thì đó là một thứ quà lạ, quý báu, vì Tàu không có.
(Ấy đó, Tần là Việt Khuyển Nhung của giáo sư Kim Định đó, thế sao Tần lại diệt Khuyển Nhung?).
*
* *
Nhưng khoa khảo tiền sử lại không nói đến đồ đồng pha của Mã Lai đợt II, trong khi ở khắp các địa bàn Mã Lai đợt II đều có trống đồng và rìu đồng.
Có lẽ bọn di cư, lúc chạy đi, không thể lỉnh kỉnh với nhiều thứ vật dụng không cần thiết. Họ chỉ tái tạo trống đồng tại nơi định cư mà thôi.
Còn ở các địa bàn khác thì vì một rủi ro nào đó mà các nhà khảo tiền sử lại gặp trống một nơi, lưỡi rìu chữ nhựt ở một ngả, nên tả dụng cụ Mã Lai đợt II, họ không hề nói đến trống đồng.
Sự kiện trên đây không ăn khớp lắm với truyền thuyết của người Mường về trống đồng: là trống do người xâm nhập bằng đường biển đưa tới, và vua Hùng Vương bắt chước kiểu vì ông vốn thuộc đợt I, tuy cũng tự lực tiến đến đồng pha, nhưng không có chế tạo trống.
Nhưng cũng giải thích được cái u ám đó. Có lẽ bọn di cư bằng đường bộ không mang lỉnh kỉnh đủ cả các vật theo, nhưng một nhóm kia, vốn đi bằng đường biển từ Triết Giang có thể mang theo một hoặc vài cái.
Như thế thì kết luận của nhà khai quật O. Jansé đã sai bét là tổ tiên ta chỉ biết dùng đồ đá mài thì Tàu tới nơi, dạy ta nghề kim khí, vào thời Chiến quốc.
*
* *
Nhưng sau đó, trong thư tịch Trung Hoa, khối Bách Bộc, trong đó có Bộc Việt, biến mất. Vì lý do nào, và rồi họ đi đâu, hay bị diệt chủng?
Như đã thấy, nước Sở nuốt lần hồi các quốc gia man di ở bờ Đông sông Hán mà họ gọi là rợ Hán Đông. Nhưng Sở không thể nuốt hết vì họ không đủ sức. Khối Bách Bộc có cả một vùng đất rộng lớn sau lưng họ để mà lùi về đó.
Họ lùi về đó và lập quốc còn mạnh hơn nữa, nhờ hai ba quốc gia nho nhỏ thống nhứt lại với nhau, được như thế vì họ đồng chủng và đồng văn hóa.
Ta tự hỏi Bách Bộc vượt sông Hoàng Hà và được Tàu đổi tên là Việt, chỉ có họ không mà thôi, hay tại địa bàn mới vẫn có Việt nằm sẵn đó?
Hẳn là vẫn có Việt nằm sẵn đó. Đó là bọn cổ Mã Lai đợt II, có ngôn ngữ khác bọn Bách Bộc chút ít mà ta đã thấy ở chương Ngôn ngữ tỷ hiệu. Bách Bộc tức Mã Lai đợt I ở Hoa Bắc nói Chơn còn Việt, tức Mã Lai đợt II ở Hoa Nam, nói Cẳng.
Tức đã có sự hỗn hợp giữa hai đợt, ngay từ thời Hiên Viên rồi. Cuộc hỗn hợp ở Cổ Việt chỉ là cuộc hỗn hợp thứ ba, cuộc hỗn hợp thứ nhì xảy ra giữa sông Hoàng Hà và sông Dương Tử.
Trong cuộc hỗn hợp thứ nhì bị Hùng Cừ đánh diệt, có một thứ dân tên là Bộc Việt làm chủ nước Bộc. Việt là tên dân ở Kinh Man. Nhưng Bộc là tên dân ở Hoa Bắc, trong nhóm Bách Bộc Đông Di.
Vậy Bộc Việt là Mã Lai đợt I và Mã Lai đợt II đã hỗn hợp nhau tại nước Bộc ở bờ Đông sông Hán, và đã lãnh đạo tất cả mọi nước Việt liên kết.
Thế thì dân Bộc Việt nầy giống hệt dân Lạc Việt vừa nói Chơn lại vừa nói Cẳng, nếu tổ tiên ta không là con cháu của Bộc Việt nầy thì cũng giống hệt Bộc Việt nầy. Nhưng ta sẽ thấy rằng rồi bọn nầy cũng sẽ chạy đi xuống phương Nam, tức dân ta gồm Bách Bộc đi đường biển và Bộc Việt đi đường bộ.
Và Bộc đường biển là Mã Lai đợt I, còn Bộc Việt là Mã Lai hỗn hợp hai đợt I và II.
Vào thuở đó, ở hướng Đông, sát bờ biển, thình lình một quốc gia mới, được thành lập. Đó là nước Ngô. Các sử gia Âu Mỹ và Trung Hoa cứ nói rằng nước Ngô được dựng lên do cán bộ Trung Hoa lãnh đạo man di Việt, y như trường hợp Sở.
Nhưng chúng tôi đã trích dẫn Khổng Tử và cho thấy rằng không phải thế và nước Ngô hoàn toàn Việt, Việt một trăm phần trăm. Không thể nào mà nghĩ rằng Khổng Tử bịa láo, vì Khổng Tử rất khinh Việt, quan niệm Hoa chủng là hơn tất cả mọi chủng tộc khác. Khi ông thánh ấy nói rằng Ngô là Việt thuần chủng là ta phải tin ông vậy.
Nước Ngô chắc chắn là nước của các quốc gia Bách Bộc chi Lạc lon con hợp thành, sau khi bị nước Sở đánh đuổi.
Ngô là danh tự xưng của Ngô, được Tàu phiên âm, và Ngô đó cũng được gọi là Việt, viết với tự dạng thứ ba, tức Việt Vượt, y hệt như U Việt ở Cối Kê và Lạc Việt.
Nhưng không rõ đích xác Ngô có nghĩa gì trong ngôn ngữ Lạc Việt cổ thời.
Nên nhớ rằng danh xưng Ngô mà ta vẫn thường gọi Tàu là danh xưng quá mới, danh xưng xuất hiện dưới thời Tam Quốc. Cả hai danh xưng đều viết y hệt như nhau, nhưng Ngô Tam Quốc là một quốc gia mà Tàu di cư xuống phương Nam đã lập ra tại trung tâm nước Ngô Chiến quốc và bấy giờ thì Ngô nầy ăn lấn xuống tới Giao Chỉ. Hai Ngô đó không có liên hệ gì với nhau hết về chủng tộc.
Liền sau đó, ở mạn Nam nước Ngô, một quốc gia thứ nhì được thành lập, đó là nước U Việt ở Cối Kê. Nước Việt nầy thì toàn thể người Trung Hoa đều xác nhận là man di một trăm phần trăm chớ không riêng gì Khổng Tử, chỉ có vua của nước U Việt là khoe láo rằng y là con cháu của vua nhà Hạ mà thôi.
Nước Ngô bị họ ghi là nhờ bọn di cư Trung Hoa lãnh đạo, có lẽ tại nước ấy không lấy tên là Việt, chỉ có thế thôi.
Đây là hai quốc gia lớn và hùng mạnh, chớ không phải nhược tiểu như những quốc gia Bộc đã kể tên khi nãy, vì với thời gian dân Việt đã tiến lên rất xa.
Nhưng tại sao các danh xưng Bách Bộc, Bộc Việt lại biến mất mà chỉ còn danh xưng Việt mà thôi?
Vì Trung Hoa cũng đã tiến lên, không về khoa học thì cũng về quan sát. Họ biết rằng Lê, Lạc, Bộc gì cũng đồng chủng, đồng văn với nhau hết mà cái chủng đó, bị họ đặt tên là chủng Việt, vì lẽ gì không rõ, chúng tôi có đưa ra một ức thuyết về lưỡi rìu Quốc Oai nhưng không có gì làm chắc.
Họ bỏ Lê, Lạc, Bách Bộc, Bộc Việt, mà lấy một danh xưng khác, là danh xưng Việt, trong đó họ sẽ phân biệt các nhóm, nhưng bằng cách khác.
Năm 334 T.K. nước Sở diệt nước U Việt, tức nước Việt của Câu Tiễn, sau khi U Việt diệt nước Ngô.
Bấy giờ thì Sở, Ngô Việt hợp thành một khối và bọn di cư Trung Hoa lại tràn đến Ngô và Việt, hai nơi đó dân chúng còn là Việt thuần chủng bắt đầu bị lai giống và đồng hóa, hoặc di cư. Đó là bọn lưỡi rìu hình chữ nhựt, di cư trong đợt II nhưng cũng có bọn Hoa Bắc là dân Bộc Việt sống lẫn lộn với họ, sau khi nước Bộc tan rã.
Năm 317 T.K, theo Xuân Thu của Khổng Tử, tức sau đó 17 năm, thì Ngô Khởi, một phản tướng của nước Ngụy xuống đầu Sở, làm tướng thực thi một chánh sách mới là ký hiệp ước thân hữu với các nước Bách Việt ở phía Nam nước Việt Cối Kê, ở ngoài Dương Việt.
Lần đầu tiên, danh xưng Bách Việt xuất hiện. Những quốc gia đó, chắc chắn là những nước Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu.
Các sử gia Việt và Tàu đời sau, bị Trịnh Triều đánh lạc hướng vì huyền thoại một câu của Tư Mã Thiên, viết về thời Chu công đán, phịa ra rằng nó xảy ra thời Vua Nghiêu, cho rằng Tàu đã biết ta từ thời vua Nghiêu. Theo sử Tàu thì Ngô Khởi, biết tên Vua và hoàng tộc của ba quốc gia nói trên mà hoàn toàn không biết gì về vua Lạc, kể cả vương hiệu cũng không biết, thì là Ngô Khởi chỉ ký hiệp ước với ba quốc gia mà Tàu đã biết rõ thôi.
Ta thấy rõ có hai thời kỳ mà Tàu chỉ hai thứ dân đó bằng tiếng “Bách”, mà bọn Mã Lai ấy còn là chủ nhơn của lưu vực sông Bộc thì họ được Tàu gọi là Bách Bộc.
Lần thứ nhì ở dưới Ngũ Lĩnh, vào đời Chiến quốc thì lại bị gọi là Bách Việt.
Nhưng lần nầy thì có phân biệt bằng nhiều tự dạng Việt, ba tự dạng Lạc và lu bù tên kép để trước chữ Việt, như Mân Việt, U Việt, v.v. và sau hết Lạc Việt.
Đến Lạc Việt là Tàu trở về nguồn, bởi biết rằng Việt đó là Lạc kia nên cho nhập tên thượng cổ là Lạc với tên đời Hạ là Việt lại để tạo một danh xưng mới, chính xác hơn, danh xưng Lạc Việt.
Hơn hai ngàn năm đã qua rồi, từ thời Hiên Viên, thế mà họ vẫn chưa quên Lạc Địch bị đánh đuổi đi Đại Hàn. Giáo sư Trần Kinh Hòa cho rằng Lạc chỉ là Nghạch viết lầm ra. Sự thật ra thì Nghạch Việt chỉ là một chữ viết sai của một quyển sách vô danh mà giáo sư lại dùng làm chứng tích, đó là quyển Đông Tây Dương Khảo.
Khổng Tử nói rằng Dương Việt chỉ đi tới Cối Kê mà thôi. Phúc Kiến ở ngoài cái vùng đất đó, vì Cối Kê thuộc tỉnh Triết Giang nay thì một câu sử của vài quyển sử Tàu mà ta cóp theo là sai. Họ nói Dương Việt ăn xuống tới Phúc Kiến.
Quyển Trung Việt văn hóa luận tập là sách mới nhứt của Tàu Đài Loan lại còn cho là Dương Việt ăn xuống tới Giao Chỉ, thì còn sai hơn quá xa. Các ông Tàu học sách Tàu không kỹ.
Đã bảo chủ quyền của Tàu đi tới đâu là Kinh Việt và Dương Việt đi tới đó. Mãi cho tới đời Tần Thỉ Hoàng thì hai châu Kinh và Dương mới đi tới Quảng Đông, Phúc Kiến, nhưng chế độ châu đã bị bỏ rồi, không còn châu nào nữa hết và chỉ có quận huyện. Nói chuyện châu là nói về cuối đời nhà Chu, mà đời Chu thì châu Dương chỉ đi tới Cối Kê, như Khổng Tử đã cho biết.
Không thể vì hai cuộc chinh phục của Tần và Hán mà cho lùi châu Dương xuống được, vì với hai cuộc chinh phục đó không còn châu nữa. Khi nói đến châu, người ta phải nghĩ đến chế độ nhà Chu, không sao khác hơn được, mà nhà Chu thì chưa hề xuống khỏi Cối Kê.
Khoa học khắt khe như vậy để tránh ngộ nhận, vì cái câu sử lầm đó khiến cho người ta ngộ nhận Chu đã chinh phục tới Phúc Kiến hoặc tới Việt Nam.
Tóm lại không phải muốn dùng danh từ, danh xưng thế nào cũng được, mặc dầu Phúc Kiến và Việt Nam quả có bị chinh phục, nhưng vào thời khác, mà danh từ “châu” thì lại bắt người ta hiểu rằng vào thời Chu.
Các nước Bách Việt mà Ngô Khởi ký hiệp ước, không có nước Văn Lang trong đó. Sử Tàu không có chỉ rõ nước nào, nhưng ta biết chắc như vậy vì sử Tàu chỉ biết lõm bõm về Văn Lang, nhưng họ lại biết quá rõ Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu, biết tên của các vua của ba nước đó đã đành, mà biết cả nội bộ của họ, các cuộc phế tập ở ba nước đó, trong khi họ chỉ bố thí cho Văn Lang có một câu ngắn là câu chuyện Lạc Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướng, họ lại chỉ đánh lấy có ba nước ấy về sau, dưới đời Tần Thỉ Hoàng, như ta đã thấy ở chương III, vì Văn Lang thuộc vào một khu vực địa lý khác hẳn khu Ngũ Lĩnh, (địa bàn của ba nước đó). Họ chưa biết rõ gì về Văn Lang hết nên không dám đánh.
Về mặt chủng tộc, ta vẫn cứ là Bách Việt, nhưng về mặt chánh trị và địa lý của Tàu, ta chưa là Bách Việt và chưa được họ biết rõ. Không thể dựa vào mặt chủng tộc mà nói rằng trong các nước Bách Việt đó có ta, như một số nhà học giả đã tưởng vì không phân biệt chủng tộc và chánh trị địa lý. Thí dụ nói rằng dưới thời các chúa Nguyễn ta đánh thắng giặc “Mọi”, đó là sự kiện có thật, nhưng không phải là thắng tất cả các thứ Mọi, mà chỉ thắng vài thứ mà ta được biết mà thôi, mặc dầu tất cả đều là “Mọi” về mặt chủng tộc.
Họ bỏ Lê, Lạc, Bách Bộc, dùng danh xưng Bách Việt, vì thấy rằng có rất đông Việt (chữ Bách, theo Tàu cũng có nghĩa là nhiều là đông, chớ không phải luôn luôn có nghĩa đích xác là một trăm), nhưng lần nầy thì họ đã phân biệt Bách Việt được bằng cách khác rồi. Bách Việt đã dựng nước thì họ phân biệt đám ấy bằng tên các nước, về mặt chánh trị.
Về mặt chủng tộc, họ phân biệt bằng tự dạng, như đã nói, U Việt, Mân Việt thì viết với tự dạng thứ ba, tức Việt là Vượt, còn Đông Âu và Tây Âu thì trỏ bằng tự dạng thứ nhì, tức Việt bộ Nguyệt mà dân ta gọi là bộ Mễ.
Việt Vượt chỉ chi Lạc.
Việt Mễ chỉ chi Thái.
Nhưng xin nhớ rằng ở giữa Mân Việt và U Việt, có Đông Âu mà chúng tôi cho rằng đó là một nhóm Âu tức Thái đã chọc thủng đất của dân Lạc để tìm đường ra biển, vì lý do kinh tế.
Vì đó là một quốc gia tạm bợ, nên họ chỉ nói đến về mặt chánh trị nhưng lờ đi về mặt chủng tộc, xem địa bàn Lạc, tức địa bàn Việt-Vượt như là liên tục từ Cối Kê đến Phúc Kiến, từ thuở ấy cho đến ngày nay.
Vả lại dấu vết Âu tức Thái ở Bắc Phúc Kiến và Nam Triết Giang không còn gì cả, sự kiện ấy chứng minh rằng nước Đông Âu thành lập nhờ chiếm đất của chi Lạc, nhưng không thọ được bao nhiêu năm đáng kể. Từ Cực Nam Triết Giang tới Phúc Kiến, hiện nay ngôn ngữ cứ là ngôn ngữ Mân, không có ngôn ngữ Âu. Ngày nay ở đó người Tàu nói tiếng Tàu sai y hệt như nhau, không có nơi nào sai giọng theo lối Quảng Đông, tức sai theo chi Âu cả. Sự kiện ấy cho ta biết rõ nước Đông Âu là một quốc gia lỏng lẻo và phù du.
Ba nước Việt mà Ngô Khởi ký hiệp ước thân hữu là Việt nằm sẵn tại chỗ hay Việt của Sở, Ngô Việt chạy xuống đó rồi lập quốc?
Họ gồm hai thành phần, thành phần nằm sẵn tại chỗ, và thành phần ở trên chạy xuống khi Việt nuốt Ngô, và Sở nuốt Việt.
Quả thật thế, Tàu đã biếi dân Thất Mân trước đó hàng ngàn năm, nhưng chỉ gọi là Thất Mân, chớ không gọi là Mân Việt, là Lạc bộ Mã vì trước đó họ không dè rằng Thất Mân cũng giống các thứ Bộc, các thứ Việt khác.
Tóm lại khi nước U Việt bị diệt, con cháu “tản cư Giang Nam”, là chỉ đi bổ sung cho dân ba nước đó, chớ không phải đi lập quốc ở nơi đó, và họ lập ra quân quốc là lập ra ở các nơi khác như Chàm, Java, mà Tàu chưa biết rõ nên không có nói nhiều, chỉ cho biết sơ sơ về hướng “tản” của Việt Cối Kê mà thôi.
Ở ba nơi, họ chỉ làm dân bổ sung: Đông Âu, Tây Âu và Mân Việt, còn ở các nơi khác mà họ cũng làm dân bổ sung nữa thì Tàu không biết nên không có nói đến: đó là Nhựt Bổn, Việt Nam, Lâm Ấp, Phù Nam. Nhưng không phải là bổ sung cho dân mà bổ sung cho Mã Lai đợt I, tức Lạc bộ Trãi.
Hai tiếng “Con cháu” của sử Tàu, ta phải hiểu là “Con Dân” vì người Tàu xưa hiểu như vậy, chớ không phải là ta tự ý mà hiểu như vậy đâu. Họ thường nói đến sự đồng họ của một quốc gia lớn nghĩa là họ đồng hóa dân và quý tộc về mặt chủng tộc, và tất cả đều được xem là “Con” của vua chúa.
Cho tới đây, ta thấy gì?
Ta thấy địa bàn chi Lạc liên tục từ Bắc đến Nam, cũng như ở chương III, ta thấy địa bàn chi Âu liên tục từ Bắc chí Nam.
Địa bàn Lạc là Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam, Phúc Kiến. Nhưng Sơn Đông, Hà Nam thì dính nhau còn Hà Nam với Phúc Kiến lại không dính nhau.
Tuy nhiên không dính mà vẫn dính vì thư tịch Trung Hoa chỉ bọn Việt của nước Sở, của Câu Tiễn, của Thất Mân bằng một tự dạng, tự dạng Việt Vượt. Nó chỉ không dính vì danh xưng Lạc không được dùng tới nữa nhưng vẫn dính vì tự dạng Việt thứ ba chỉ bọn Lạc Vượt Hà.
Ta lại thấy điều thứ nhì nữa là địa bàn Lạc luôn luôn khít ranh với địa bàn Âu, đã nói sơ qua rồi ở chương V, Âu và Lạc luôn luôn sát cánh, sát đến nỗi có lần họ hợp làm một (nhóm Lạc Lê bộ Trãi).
Điều thứ ba mà ta thấy được là có một địa bàn Lạc Việt (Cổ Việt Nam) không liên tục với toàn thể. Chi tiết đó chứng minh rằng có một nhóm Lạc nhứt định không hợp tác với Tàu, không để bị đồng hóa, và chạy thoát ra ngoài cả hai địa bàn Âu và Mân, cho xa Tàu, hầu thoát nạn, ít lắm cũng thoát được đến thời Lạc bộ Chuy.
Nhóm Lạc ấy chạy từ đâu xuống lưu vực Hồng Hà, có phải từ Cối Kê như L. Aurousseau nói, hoặc từ Phúc Kiến như Madrolle nói chăng, hoặc chỉ bằng đường biển như khoa khảo tiền sử đã nói? Cả ba kiến giả ấy đều đúng, chỉ phiền là cả ba điều phiến diện. Họ chạy bằng đủ cách, từ khắp nơi của địa bàn Lạc Hoa Bắc và Hoa Nam. Nhưng ở đây chúng tôi nói đến bọn thứ tư, bọn chạy toàn bằng đường bộ từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam, rồi từ nước Sở đến Cổ Việt. Bọn nầy không ai biết rằng có, và chúng tôi cần nói đến họ nhiều hơn vì chính họ mới cho ta thấy tổ tiên ta thuộc đích xác nhóm nào trong các khối Lạc đông vô số kể ấy. Họ là Việt, chi Lạc. Nhưng riêng chi Lạc cũng là một khối quá lớn, chớ đừng nói chi là toàn khối Việt, ta cần biết rõ cái tiểu chi chạy xuống Cổ Việt, chớ không thủ phận biết tổng quát theo khoa khảo tiền sử, và biết phiến diện, theo L. Aurousseau và Madrolle.
Vả lại Madrolle còn vẻ ra được một bộ trình tương đối rõ ràng còn L. Aurousseau thì chỉ nói tắt, vì chỉ được có một câu của Chavannes gợi ý.
Dầu sao cả hai bọn đều là Mã Lai, và có địa bàn thứ nhứt rồi thứ nhì tại Hoa Bắc rồi Hoa Nam, địa bàn phát tích là Tây Tạng.
Tư Mã Thiên có hai câu sử đáng được chú ý:
1. Dân Việt nước Sở họ Mị, dân Việt nước Việt (Cối Kê) họ Tự.
2. Dân Âu Lạc mang họ Mị.
Thế là bọn đợt II từ nước Sở đi thẳng xuống đây, chớ không phải từ Cối Kê như L. Aurousseau đã giả thuyết và từ Phúc Kiến như Madrolle đã nói, có lẽ bọn Cối Kê, bọn Phúc Kiến cũng có mặt trong đám di cư, nhưng đa số chạy từ nước Sở và bọn Cối Kê và Phúc Kiến, chỉ mới tới sau, còn bọn nước Sở thì tới trước, vì khi Sở thành lập, hẳn phải có một nhóm Việt bất khuất, không hợp tác chạy đi, trong khi Ngô và U Việt, Mân Việt chưa bị diệt quốc.
Cũng nên biết rằng trước Tây lịch, tất cả Mã Lai Nam Dương đều theo mẫu hệ, mà họ là Lạc Hoa Nam thì dân họ Mị nầy cũng là dân theo mẫu hệ. Mị là chữ nho, được các nhà nho ta đọc như thế, nhưng Tàu đọc khác, Tàu đọc là Mế. Nhưng Việt đọc thế nào? Việt đây là Việt thời xưa ở nước Sở chớ không phải Việt Nam thời nay.
Dấu sắc của Quan Thoại, biến thành dấu nặng của ta. Thí dụ họ Mạch Quan Thoại đọc là Mớ, họ Mạc Quan Thoại đọc là Mó, họ Lạc Quan Thoại đọc là họ Ló, họ Diệp Quan Thoại đọc là họ Dé, họ Lục Quan Thoại đọc là họ Lúa, họ Tạ Quan Thoại đọc là họ Xá. Như vậy Mế của họ là Mệ của ta.
Thế thì ăn khớp với truyền thuyết ta, cho rằng tất cả con gái của Hùng Vương đều gọi là Mệ nàng.
Chúng tôi đã nói rằng vua Hùng Vương thuộc đợt I, còn bọn họ Mị thuộc đợt II thì làm thế nào con của vua Hùng Vương lại mang họ của đợt II được. Nhưng truyền thuyết Mường lại kể rằng họ thường gả con gái cho vua Hùng Vương. Mà vì họ theo mẫu hệ (mà có lẽ Hùng Vương cũng theo mẫu hệ) nên con gái theo họ mẹ. Chắc không phải đời Hùng Vương nào cũng lấy vợ trong đám bổ sung, nhưng truyền thuyết thường hay tổng quát hóa chuyện xảy ra có vài lần mà họ nói y như là nó xảy ra hoài hoài.
Trong hai câu sử của Tư Mã Thiên, chữ Tánh, nên hiểu là thị tộc (clan) chớ không có lý nào mà người của cả một nước đều mang chung một họ và sự kiện đó ăn khớp với truyền thuyết của ta, truyền thuyết ấy kể rằng bất kỳ người con gái của vua Hùng Vương nào cũng mang tên là Mệ Nàng cả.
Và thuở đó ta theo mẫu hệ và có bằng chứng đích xác là ta theo mẫu hệ, chớ không phải là đoán mò, như có người đã lên án những ai nói đến mẫu hệ Lạc Việt và chỉ có con gái mới được mang tên của thị tộc chớ không phải con trai.
L. Aurousseau không có vẽ ra được một lộ trình nào hết của cuộc Nam thiên của dân Việt, mà ông còn lại ức đoán ngược với sử thành văn Tàu. Sử Tàu cho biết dân Việt của Câu Tiễn đi xuống đất Dung, quê hương của Dương Quý Phi, ngày nay vẫn cứ ở trong lãnh thổ Trung Hoa.
Vài học giả và sử gia Âu Mỹ và Việt đều tỏ ý nghi ngờ những cuộc thiên di xa xôi như vậy lại có thể thực hiện được. Nhưng được hay không, thì ta đã thấy ở chương trước. #
Còn tại sao họ lại phải đi quá xa như vậy là vì dọc đường, nơi nào họ cũng gặp đất có chủ, nên họ cứ phải đi hoài, kỳ cho tới một chỗ hoang vu, hoặc một chỗ dân còn cổ sơ, còn sống về săn câu, bỏ đất không, họ mới định cư được. Đó là trường hợp của tổ tiên ta, đợt đầu họ gặp tại lưu vực Nhị Hà cái thứ dân Mê-la-nê-diêng chưa biết trồng trọt đó mà khoa khảo cổ đã chứng minh.
Riêng đợt II thì lại gặp đồng chủng lưa thưa ở Cổ Việt chưa đông đảo, chưa hùng mạnh như ở Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu nên họ được chủ đất chấp nhận để bổ sung dân số.
Chính nhà học giả C.L. Madrolle đã công kích ông L. Aurousseau bằng những luận điệu đó mà sử gia Nguyễn Phương trích lại để đánh đổ thuyết thiên di. C. L. Madrolle còn nói thêm những việc chống cự của tù trưởng các xứ mà bọn thiên di đã đi qua.
Ông không biết rằng Tây Âu, Mân Việt và Lạc đồng chủng, sử Tàu và khoa chủng tộc học đã nói như vậy chớ không phải chỉ là lời bịa của chúng tôi. Họ lại dựng nước có tổ chức mạnh mẽ, chớ không còn là tù trưởng dã man. Vua Trạch Hu Tống hay ông cha của Trạch Hu Tống không sao mà không thương xót người đồng chủng, đồng ngôn, trên bước phiêu linh, tiếc đến cả việc cho mượn đường chạy trốn.
Người xưa chỉ chống bọn xâm nhập khi nào sợ bọn ấy, mà họ chỉ sợ trong hai trường hợp: bị đánh hoặc không biết mục đích. Thuở ấy các nhóm Việt đều biết mục đích của Bộc Việt là mượn đường di cư, thì họ không sợ và không ngăn chống.
Sử gia Nguyễn Phương trích lại lời công kích của C. L. Madrolle và thêm rằng tại sao dân Việt (Cối Kê) bại trận chết nhiều lại có thể sanh sôi nảy nở trên một khoảng đất dài hàng ngàn cây số.
Nhưng sanh nở trên hằng ngàn cây số hồi nào đâu chớ? Họ chỉ đi qua mà thôi, chớ không có ở lại dọc đường. Sử gia Nguyễn Phương không biết rằng ba quốc gia Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu đã hùng cường rồi, và không có đọc kỹ Xuân Thu, ngỡ đó là ba nơi hoang dã.
Sử gia Nguyễn Phương lại hỏi tại sao dân Việt lại chịu được phong thổ độc mà lính Tàu đã phải chết hơn phân nửa?
Câu hỏi nầy thật là kỳ dị? Là tại họ là dân Việt, ở Hoa Nam nên quen với khí hậu bán nhiệt đới, còn lính Tàu là người ở Hoa Bắc. Mà chính vì thế mà cái thuyết ta là Tàu di cư của Nguyễn Phương sai.
Sử gia cứ mâu thuẫn với mình mãi, phủ nhận rằng Việt không chịu đựng được khí hậu Việt, nhưng quả quyết rằng Tàu chịu được khí hậu Việt nên di cư xuống đông đảo.
Sử gia lại bác bỏ L. Aurousseau: tại sao mới di cư có một trăm năm mà tổ chức được chặt chẽ thành một nước Văn Lang?
Sử gia Nguyễn Phương khi dùng phê bình của C. L. Madrolle quên mất rằng khi một đám lưu dân văn minh tới một nơi nào thì họ chỉ cần có một năm là tái lập được nền văn minh của họ, bằng chứng là lưu dân nhà Minh tại Biên Hòa. Đó là tái lập chớ nào phải sáng tạo đâu mà đòi hỏi nhiều thời gian.
Vả lại khoa khảo tiền sử đã cho biết rằng họ là bọn Mã Lai lưỡi rìu hình chữ nhựt và khi họ tới nơi thì đã có Mã Lai lưỡi rìu tay cầm, tổ chức xong rồi trước họ 2.500 năm.
Bọn trước đón tiếp bọn sau để bổ sung dân số và kiện toàn văn minh.
Thấy rõ là khoa khảo tiền sử quan trọng số 1, không có 2 thứ lưỡi rìu nằm ở hai tầng đất khác nhau, cạnh hai sọ đồng tánh cách, thì không sử liệu nào soi sáng điểm nầy được cả. Sử gia Nguyễn Phương không biết có 2 đợt Mã Lai nên mới cự thiên hạ bằng luận cứ đó.
Thuyết của chúng tôi khác thuyết của L. A. nhưng những luận cứ bác bỏ thuyết của L. A. cũng dùng được với luận cứ bác bỏ thuyết của chúng tôi, nên chúng tôi tự binh vực bằng cách binh vực L. Aurousseau vậy.
Nhưng còn dây liên hệ nào khác hơn tiết lộ của Tư Mã Thiên hay không? Còn nhiều lắm.
1. Dân Bộc Việt ở nước Sở có trống đồng (Lăng Thuần Thanh).
2. Dân Lạc Việt Đông Sơn có trống đồng (Khảo cổ Âu Mỹ, Việt).
Ta lại nghiên cứu hai bài thơ Thiệp Giang của Khuất Nguyên và Chiêu hồn của Tống Ngọc.
Dưới thời Khuất Nguyên và Tống Ngọc, thì nước Sở đã bành trướng ra quá lớn bởi nó đã nuốt cả U Việt và Ngô rồi, và đóng đô tại Thọ Xuân, thuộc tỉnh An Huy ngày nay.
Bộc Việt không bị đẩy lui về hướng chánh Nam của Sở vì đó là địa bàn của chi Thái mà chúng tôi nói rõ ở một chương trước. Bộc Việt chỉ đi về hướng Đông Nam.
Nói rõ hơn, Nam Hồ Nam và Quảng Tây, Quảng Đông là đất của Tây Âu, đó là sự kiện biết chắc do một bức dư đồ được trình bày ở chương Chủng Thái và nước Tây Âu. Còn Triết Giang và Phúc Kiến mới là đất của chi Lạc. Đó là không kể Giang Tô, địa bàn của nước Ngô, cũng là đất Lạc, nhưng đã bị mất rồi vào tay Sở.
Thế nghĩa là nếu có một bọn Lạc bất khuất thì bọn ấy bị họ đẩy lùi về phương Đông Nam của Thọ Xuân chớ không phải phương chánh Nam.
Lúc bị truy kích, Khuất Nguyên đi về phương Nam, nhưng phương Nam ấy là ở đâu?
Bài Thiệp Giang rất là chính xác về địa lý. Ông cho biết ông vượt sông Tương rồi đi ngựa trên một lộ trình nữa thì gặp sông Nguyên. Sông Nguyên ở phía Tây sông Tương, trong tỉnh Hồ Nam. Vậy là ông khởi hành ở phía Đông, tức tại kinh đô Thọ Xuân là kinh đô cuối cùng của nước Sở và đi về phía Tây của Thọ Xuân. Khuất Nguyên lại nói đến những nơi chốn: Uổng Chữ, Thần Thang, v.v.
Thế, đất trích của Khuất Nguyên là Tây Nam Hồ Nam ngang tỉnh Quảng Tây về kinh tuyến, kinh tuyến 111, vĩ tuyến 28 tức cứ còn ở trung bộ tỉnh Hồ Nam ngày nay.
Khuất Nguyên không có tả man di ở Tây Nam Thọ Xuân mà ông cho biết rằng ông có gặp nhưng ta cũng biết được rằng man di đó khác man di mà Tống Ngọc nói đến, vì ta biết đích xác rằng trung bộ Hồ Nam là đất của chi Âu tức Thái.
Tống Ngọc là nhà thơ miêu tả đầu tiên trong văn chương Trung Hoa. Người Hoa Bắc vì điều kiện đất đai và khí hậu, lòng dạ khô cằn y như dải đất mà trên đó họ sống, văn thơ của họ là sản phẩm của lý trí. Sinh sống ở phương Nam được hai ngàn năm rồi thì đất đai khí hậu và phong cảnh ở đó mới tạo cho họ một tâm hồn duy mỹ biết thưởng thức và ca ngợi cái đẹp và kẻ đầu tiên ca ngợi cái đẹp ấy là Tống Ngọc.
Trong bài Chiêu hồn, Tống Ngọc không có dịp ca ngợi vẻ đẹp nào hết như trong các bài thơ khác, nhưng ông còn dịp miêu tả. Nghiên cứu bài Chiêu hồn, Ghéquier trong “Văn học sử Trung Hoa” cho rằng Tống Ngọc chiêu hồn một ông vua. Nhưng không phải thế. Tống Ngọc chỉ làm bài thơ đó cho vui và để có dịp tả các thứ dân sống quanh nước Trung Hoa thời ấy; nhứt là dân phương Đông Nam Thọ Xuân mà chỉ có người của nước Sở biết rõ mà thôi, còn người Trung Nguyên thì không. Đây, bài thơ Chiêu hồn:
Chiêu hồn
Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng đi ra bể Đông
Ở đó, hàng chục mặt trời, làm chảy đá, chảy loại kim.
Hồn sẽ tiêu tan thành nước, đừng tin cậy vùng đó.
Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng đi về hướng Tây.
Cát mềm ngàn dặm, sa mạc minh mông,
Ngũ cốc không mọc, sông hồ cạn queo,
Hồn sẽ bị đốt cháy khô nên tránh hướng đó.
Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng đi lên miền Bắc,
Băng giá cao như núi, tuyết phủ ngàn dặm.
Hồn, hỡi hồn, về đây, đừng xuống phương Nam,
Đó là xứ rắn, mãng xà khổng lồ,
Bọn xâm trán, bọn đen răng sẽ mần thịt
Hồn để cúng tế, nấu xương hồn mà làm canh.
Trước hết, ta không nên ghê tởm về cái chuyện mần thịt để cúng tế, rồi vội phủ nhận rằng họ không phải là tổ tiên ta. Nếu có bằng chứng rằng họ là tổ tiên ta thì họ có dã man bao nhiêu, ta vẫn phải nhận, vì tinh thần khoa học.
Gì chớ dã man theo lối đó thì chính người Tàu thời đó cũng dã man.
Chúng tôi có bằng chứng đích xác rằng vào thời ấy người Tàu vẫn giết người để tế thần, tục ấy bị bỏ, nhưng tới đời nhà Chu mà thỉnh thoảng họ còn tái diễn trở lại. Đời Tần, dân chúng cũng còn ăn thịt người (ăn thịt Thương Ưởng).
Chuyện Tống Tương Công muốn thay Tề Hườn Công làm minh chủ (chuyện nầy trước Tống Ngọc có lối 100 năm) bèn họp chư hầu. Trong các chư hầu có Tử tước nước Tăng đến trễ hai ngày, Tống Tương Công bèn hài tội và ra lịnh làm thịt để tế thần sông Thơ (tỉnh Sơn Đông) là thần của rợ Đông Di, rồi mời các tù trưởng rợ Đông Di đến để cúng tế, thì các tù trưởng ấy lại không thèm đến.
Sử liệu nầy chứng tỏ rằng vào thời Chiến quốc các nhóm Việt đã bắt đầu bỏ tục mần thịt người để tế thần, mà trái lại chính người Tàu lại làm, mà không phải là bắt chước rợ đâu, mà là hành động theo một thói xưa mà di tích còn chảy trong huyết mạch của họ.
Sau đó Sở Thành Vương bắt tội Tống Tương Công về cái điểm định dùng người thay cho thú vật để làm lễ tế thần. Nhưng buồn cười thay, chính một ông vua Sở, cũng là người Tàu, Sở Văn Vương, sau chiến tranh với nước Thái bắt được chúa nước Thái đem về thì rồi cũng định mần thịt Thái chúa để tế nhà Thái miếu.
Cả hai người, Tống Tương Công và Sở Văn Vương đều là người Tàu chớ không phải là “man di” chút nào, Sở Văn Vương cai trị dân man di rất đông thì còn có thể cho là ông ấy bị ảnh hưởng của ngoại giới, chớ như Tống Tương Công thì không hề trị “man di” lần nào hết thì rõ ràng là người Tàu còn nhớ thói cũ, mà thói ấy thì chắc chỉ được bỏ không lâu.
Họ có danh từ “Huyết nhục”. Danh từ ấy chỉ trỏ một con vật bị hy sinh trước bàn thờ thần, máu chảy ròng ròng. Nhưng đó là dấu vết của tục cũ hơn mà con vật đó là con người, là kẻ thù hoặc một tên nô lệ.
Khoa dân tộc học đã bắt được bằng chứng “Huyết nhục” là tàng tích của sự tế người, nơi xã hội Chàm. Khi họ giết trâu để tế thần thì họ khấn vái theo cổ thời, mà nghe lời khấn thì ai cũng hiểu rằng kẻ bị giết, không phải là con trâu mà là con người.
Địa lý của Tống Ngọc thật là huyền hoặc ở hướng Đông, nói theo huyền thoại Hậu Nghệ, nhưng rất rõ ở ba hướng kia. Hướng Bắc chỉ Ngoại Mông và Tây Bá Lợi Á, hướng Tây chỉ sa mạc Tân Cương, và hướng Nam thì chỉ một thứ dân xâm trán và nhuộm răng đen.
Bài thơ Chiêu hồn chỉ là một thi phẩm, nhưng nó lại là một tài liệu sử địa vô cùng quan trọng. Các cổ thư Trung Hoa tả người Việt xâm mình (Văn thân) nhưng Tống Ngọc lại tả họ xâm trán (Điệu Đề).
Chi tiết đó giúp ta theo dõi được họ trong không gian và thời gian, và chúng tôi đã chỉ đích danh được dân nào hiện nay (1970) còn xâm trán, nhuộm răng đen và nhứt là nói một thứ tiếng Việt Nam rất là cổ sơ.
Đây là biệt sắc thứ sáu mà chúng tôi cho biết ở một chương trước rằng chỉ sẽ tiết lộ ở một chương sau.
Có nhiều thứ dân Việt trong dòng Bách Việt, nhưng chúng tôi chỉ theo dõi có thứ người mà Tống Ngọc đã nói đến, bởi không phải tất cả nhóm Việt nào cũng Nam thiên, và trong các nhóm Nam thiên có xâm mình, cũng chỉ có một nhóm độc nhứt là xâm trán trong khi các nhóm khác xâm mình.
Và chúng tôi bám sát nhóm mà Tống Ngọc ám chỉ vì chúng tôi tìm ra dấu vết họ ngày nay tại Đông Dương. Sự kiện xâm trán và nhuộm răng tuy là chứng tích đáng kể, nhưng chứng tích mạnh mẽ nhứt như đã nói, là họ dùng ngôn ngữ Việt tối cổ mà người ta mới khám phá ra đây thôi.
Và giữa người xâm trán của Tống Ngọc và người ngày nay còn nhiều cái khoen nối kết nữa cho thấy sợi dây xích Việt đó không có bị đứt đoạn.
Sở đã dời đô tới Thọ Xuân, thuộc tỉnh An Huy, và bọn Lạc Điêu Đề mà Tống Ngọc nói đến, phải lùi về Nam An Huy, có lẽ dưới đời vua Sở Chiêu Liệt Vương vào năm 300 T.K. năm mà kinh đô của Sở được dời xuống Thọ Xuân (An Huy) chăng?
Không. Người ta không bao giờ dời đô đến giữa đất “man di”. Thọ Xuân phải là một thành phố mà người Tàu đã ở đông đảo từ lâu đời lắm rồi. Thế thì sự kiện tổ tiên ta thiên di trước đó, trước năm 300, phù hợp với sự kiện Hoa hóa của Thọ Xuân vào năm 300 T.K. Bọn Lạc Điều Đề chạy về phương Nam của Thọ Xuân, tức phương Nam của tỉnh An Huy ngày nay, trước năm 300 T.K. rất lâu, vì Thọ Xuân đã bị Hoa hóa rồi vào năm 300 đó.
Tại sao họ không chạy ra Giang Tô hay Triết Giang ở phương Đông? Vì nơi ấy đã có chủ rồi, nước Ngô và nước Việt hai nước nầy đã bị diệt hay chưa vào năm 350 hoặc 400 chẳng hạn thì ta không cần phải kiểm soát lại vì:
a) Nếu họ chưa bị diệt, và mặc dầu họ cũng là Việt, họ vẫn không cho quá đông khách vào xứ họ.
b) Nếu họ bị diệt rồi thì đó là đất của Sở tức của kẻ thù, không lùi vào được. Họ chỉ còn có một con đường độc nhứt là phương Nam của Thọ Xuân. Cái phương Nam của Thọ Xuân, bất hạnh thay, lại là tỉnh Giang Tây!
Đất của tỉnh Giang Tây là đất thó, tức đất sét trắng, một ngàn năm sau, Giang Tây sẽ nổi danh khắp thế giới về công nghệ đồ sứ, nhưng bọn Bộc Việt chỉ biết làm ruộng để ăn cơm, phải chết đói nơi đó, nếu dừng chơn quá lâu năm tại đó. Vì thế mà rồi tuy Giang Tây là đất không chủ, Bộc Việt lại phải Nam thiên nữa, trên đường vạn lý trường chinh. Có lẽ chính nhờ hoàn cảnh khốn đốn đó nên nó trui rèn tâm chí ta mà tổ tiên ta về sau mới chống được với Trung Hoa, trong khi bao nhiêu nhóm Việt khác đều bị tiêu diệt cả.
Dân Do Thái và dân Nhựt Bổn giỏi, không phải vì trời sanh họ ra là họ đã có tài rồi, mà chính vì họ quá khốn đốn, đó là do chính miệng người Do Thái và người Nhựt giải thích chớ không phải ta. Trên thế giới từ cổ chí kim, không có thuộc địa nào của Trung Hoa mà thoát ách được cả, chỉ trừ Việt Nam và Đại Hàn mà thôi.
Tại sao Bộc Việt lại không ghé Phúc Kiến? Vì đó là địa bàn của Thất Mân, tuy cùng một chi Lạc, nhưng đất ấy cũng đã có chủ. Nhưng đi qua khỏi Phúc Kiến rồi, họ cũng không ghé Quảng Đông được vì đó là đất của chi Thái, như ta đã thấy, mà nước Tây Âu lại quá đông dân, nhứt là sau khi đã thâu nạp cộng đồng Ba Thục, và các nhóm Lê từ trên chạy xuống đó.
Chỉ còn lưu vực sông Hồng Hà là dân Mã Lai lưỡi rìu tay cầm còn quá thưa, là dung nạp họ mà thôi.
Chúng tôi nói đến lộ trình Sở - Hồng Hà, trước khi trình đủ các dây liên hệ, vì tiện việc khi nghiên cứu về vị trí của Thọ Xuân nơi mà Tống Ngọc làm bài thơ Chiêu hồn. Thế nên giờ xin trình bày một dây liên hệ khác giữa Lạc Sở và Lạc Nhị Hà.
Biệt sắc thứ sáu là sự kiện Điêu đề, rất cần cho chương sau nên chúng tôi để biệt sắc ấy ở chương sau, trong khi đáng lý gì phải trình cả hai cái khoen nối kết Lạc Sở và Lạc Hồng Hà ở đây là Điêu đề và tôn giáo.
Từ nãy tới giờ chúng tôi gọi họ là tổ tiên ta, lại cho rằng họ từ Hoa Nam di cư xuống, còn ở các chương khác, chúng tôi lại chứng minh rằng Mã Lai Hoa Nam chỉ là dân bổ sung chớ không phải tổ tiên ta có người cho rằng mâu thuẫn. Nhưng không có mâu thuẫn. Xin nhắc rằng đây là nhóm Bộc Việt tức gốc Lạc Việt Bách Bộc ở Hoa Bắc, họ khác hẳn các nhóm Lạc Hoa Nam, mặc dầu tất cả đều sẽ đến Cổ Việt hết thảy. Chúng tôi theo dõi nhóm nầy là vì thế, bởi không thể theo dõi Lạc bộ Trãi đi bằng đường biển thì tạm theo dõi Lạc bộ Trãi đi bộ vậy.
Sợi dây liên hệ mà chúng tôi trình ra đây là sợi dây thứ nhì, đó là tôn giáo đồng bóng của Bộc Việt và Lạc Việt.
Bách Việt giống nhau, nên ta cần thu hẹp những đặc thù của họ, mới truy ra đúng nhóm nào là tổ tiên của Lạc Việt, không thôi ta sẽ đi lạc mất trong khối Bách Việt minh mông.
Giữa Bộc Việt và Lạc Việt, chúng tôi tìm thấy được thêm một tương đồng nữa là tôn giáo đồng bóng, và sự thờ mặt trời.
Ngày nay thì dân tộc nào ở Đông Nam Á cũng có đồng bóng hết. Nhưng đồng bóng của Lạc Việt và của Bộc Việt có vài đặc điểm khác đồng bóng các dân tộc khác. Đồng bóng Bộc Việt là đồng bóng nguyên thỉ, không dân tộc nào theo đúng hết chỉ trừ Lạc Việt. Thế thì đó là một tương đồng rất là quan trọng rồi vậy, chớ không còn là sự vay mượn lai căng như nơi các dân khác.
Cũng nên biết rằng riêng lấy nó, đồng bóng không phải là một tôn giáo. Nó chỉ là việc tế lễ của tôn giáo thờ trời, và các bà đồng là một thứ cán bộ của tôn giáo đó, hơn thế là một thứ nữ tăng chức của tôn giáo đó.
Dân Bộc Việt thờ trời và thuyết của Lăng Thuần Thanh về thiên Đông Quân trong Cửu Ca, rất đúng.
Năm 1960, đã khai quật được ở Đào Thịnh (Yên Bái – Lào Kai) một bình đồng lạ lắm. Về mặt mỹ thuật, bình nầy đẹp hơn các trống đồng. Nắp bình cũng khắc hình mặt trời và chim, ở hông bình cũng có thuyền, tóm lại vật ấy thuộc nền văn minh gọi là Đông Sơn.
Và những gì liên thuộc về bình đồng Đào Thịnh đều dính líu với Bộc Việt, tức một thứ Việt khác Việt Hoa Nam, Việt gốc sông Bộc tức Mã Lai gốc Hoa Bắc.
Trên nắp của cái bình đó có bốn vật rất lạ mà các đồ vật khác của nền văn minh Đông Sơn, không món nào có cả. Đó là bốn cặp bình rời (ronde bosse) tượng hình bốn đôi nam, nữ đang giao hợp với nhau.
Trong quyển “Introduction à l’art ancien du V.N.”, tác giả, ông Trần Văn Tốt, cho đó là một “chủ đề hoàn hảo về phiền thực” (parfait thème de fécondité). Chủ đề ở đây là chủ đề tôn giáo. Nhưng chúng tôi lại thấy khác, khi đọc được bản nghiên cứu của ông H. Maspéro về bài thơ Cửu Ca trong tập Sở từ.
Ông H. Maspéro nghiên cứu Cửu Ca vì mục đích khác, chớ không đồng mục đích với Lăng Thuần Thanh. Còn chúng tôi dựa vào bài nghiên cứu ấy vì mục đích khác nữa. Hóa ra bài thơ Cửu Ca, dùng được cho cả ba cuộc nghiên cứu khác nhau (thế mà bài ấy chưa được dịch ra Việt ngữ trong khi các bài Sở từ khác lại được dịch nhiều lần, do nhiều dịch giả khác nhau).
Cửu Ca là một bài giả tế ca (semblant de chant lithurgique) cũng như Chiêu hồn là một bản chiêu hồn giả, cả hai bài đều chỉ được sáng tác để chơi vậy thôi, chớ không phải là tế ca thật sự. Lời thơ kêu gọi thần linh, y như là chủ bái kêu gọi, nhưng nó chỉ là lời thơ, vì nó có tả cảnh. Chủ bái thật sự không tả cảnh trong lời khấn vái bao giờ. Đó là chi tiết không ai thấy.
Chúng tôi không có bản Sở từ nào trong tay hết và dưới đây là lượm lặt những phân tách của Granet, Chavannes và nhứt là của H. Maspéro. Những vị nầy phân tách Cửu Ca vì mục đích khác chớ không phải để dùng làm chứng tích như Lăng Thuần Thanh hay như chúng tôi, nên hóa ra cuộc phân tách của họ có tánh cách khách quan tuyệt đối, đối với luận cứ của chúng tôi. Chúng tôi có thể phân tách cho nó nghiêng ngả theo ý mình muốn nhưng quý vị trên đây làm sao biết được về sau chúng tôi muốn gì về thổ dân của nước Sở, để mà phục vụ chúng tôi.
Cửu Ca gồm 11 bài tất cả, nhưng các nhà nho Tây trên không cho biết các ông nghiên cứu riêng bài nào và có lẽ là nghiên cứu chung cả 11 bài, khác với Lăng Thuần Thanh chỉ nghiên cứu riêng bài Đông Quân, chú mục ca ngợi thần mặt trời trong đó, ca ngợi ấy ăn khớp với hình mặt trời của trống Đông Sơn. Ba nhà nho Pháp nói trên có cho biết thêm nhiều chi tiết khác nữa.
Tác giả Cửu Ca tả các bà đồng ăn mặc rực rỡ như các vị thánh mà các bà chầu mời (Thần Mưa, Gió, Mây, Núi, Sông, Mặt trời, v.v.), y phục các thần thánh cũng được tả, rồi các bà múa theo nhịp trống kèn càng lúc càng quay cuồng. Lời Chầu mời tỏ lòng tưởng nhớ các thánh thần đó, nhưng không có hạ mình trước các thánh thần, chỉ coi các thánh thần là bầu bạn mà thôi. Các bà nhại các chuyến đi đến nơi ngự của thánh thần bằng những cuộc múa vũ. Và lời tỏ lòng tưởng nhớ bắt ta nghĩ đến tình yêu hơn là lòng thành khẩn đối với thánh thần.
Các bà vừa múa vừa kêu gọi thánh thần như vậy cho đến khi các bà lả người, ngã xuống là lúc các bà đã đến nơi rồi. Các bà bèn có những cử chỉ, những lời lẽ mời thánh thần giao hợp với các bà. Có như thế, những gì các bà nói, mới chắc chắn là lời thánh nói, bởi sự giao hợp có giá trị như là nhất hóa hai nhân cách (Union de deux personnalités à tous les points de vue).
Thì ra, đó là thơ tả một hoặc các buổi lên đồng chớ không có gì lạ cả. Tuy nhiên chỉ những người ở trong một xã hội có việc lên đồng mới là hiểu được những bài thơ đó, những người nước khác thì không, thí dụ người Hoa Bắc thì mù tịt.
Việc lên đồng trong xã hội Việt Nam, không thấy có cái pha gay cấn cuối cùng đó, vì các bà đồng ta về sau theo lễ giáo Khổng Mạnh, nên phải bỏ đi, nhưng xưa thì có.
Ông H. Maspéro cho biết rằng, trong xã hội Gia Rai, các bà đồng vẫn còn mời thánh giao hợp với các bà, mà cứ theo nghiên cứu ngôn ngữ của nhà ngôn ngữ học Cabaton thì người Gia Rai là người Mã Lai thuần chủng nhứt ở Đông Nam Á vì ngôn ngữ của họ không có mang lấy một danh từ Phạn hay Á Rập nào hết như ngôn ngữ Chàm, Phi Luật Tân, hay Anh-đô-nê-xia. Và theo chúng tôi nghiên cứu ở chương ngôn ngữ thì Gia Rai thuộc đợt hỗn hợp, tức y như Việt Nam.
Đồng bóng trong Cửu Ca vẫn có nam thánh và nữ thánh như đồng bóng của ta ngày nay, nhưng ở nước Sở và ở xứ ta, Tam Phủ hay Tứ Phủ gì cũng Trời là tối cao.
Bốn tượng đồng ấy không thể nào mà không tượng trưng cho việc mời thánh giao hợp với bà đồng.
Hơn thế, hai chiếc thuyền trên bình đồng Đào Thịnh cũng khác lạ hơn thuyền ở trống đồng. Hai thuyền nầy chiếc sau chạm mũi vào lái của chiếc trước, nhưng được hai vật gắn ở mũi và lái của hai chiếc làm trái độn. Hai con vật nầy đụng chạm nhau trong cái dáng giao hợp của loài bò sát mà có chơn. Chỉ trong có một cái bình mà có đến hai loại hình giao hợp thì quả đó là việc vô cùng quan trọng của tôn giáo ấy (đồng bóng). Chỉ có giao hợp với Thánh, lời của các bà đồng bóng mới là lời thiêng, bằng không các bà sẽ chỉ là người đàn bà thường như bất kỳ ai.
Ngày nay không ai nhận đồng bóng là một tôn giáo nhưng nó vẫn cứ là tôn giáo như thường, vào cổ thời, không thể chối cãi được.
Hồi tiền chiến, người Pháp ở Hà Nội, quan cai trị Virgitti đã có thử cấm đồng bóng, nhưng đồng bóng đã tranh đấu, thách đố chánh quyền Pháp chứng minh rằng họ không phải là tôn giáo. Người Pháp không chứng minh được, nên rồi lịnh cấm bị bãi bỏ.
Đó là tôn giáo của dân Việt, ít ra cũng của nhóm Bộc Việt ở nước Sở, tồn tại vào thời Chiến quốc, chớ không phải là tôn giáo của Trung Hoa.
Trong Nho giáo, Trần Trọng Kim nói rằng vào cổ thời, Trung Hoa có bà đồng Vu và ông đồng Hích, đành thế, nhưng chắc những sách mà Trần Trọng Kim tham khảo, hiểu quốc gia Trung Hoa như dưới đời Tần, tức là có nước Sở trong đó. Hiểu như vậy và nói như vậy là đúng. Nhưng hiểu rạch ròi hơn thì cái thứ tôn giáo cổ sơ mà bà đồng là cán bộ ấy, bắt nguồn tại nước Sở, thuở xưa hơn, thuở còn biệt lập với Trung Hoa. Mà người nước Sở tức người Trung Hoa thuần chủng hay lai với chủng Việt ở đó, cũng bắt chước thổ dân để lễ tế theo lối bà đồng thôi, chớ họ cũng không có phát minh ra thứ tôn giáo ấy. Không có văn kiện Hoa Bắc nào tả việc lên đồng cả mà chỉ có Sở từ mà thôi.
Bằng chứng rằng người Trung Hoa không có phát minh ra tôn giáo lên đồng được thoáng thấy ở sự kiện trào đại nhà Chu cấm đoán đồng bóng mãi mà không được, nên bắt buộc phải đặt quan Tư Vu để kiểm soát và chế ngự bớt bọn đồng bóng (Theo sách Chu Lễ).
Thời cổ, tất cả các trào đại Trung Hoa đều noi theo tiền nhơn, tiền hiền, nhà Chu thì kính cổ nhứt. Nếu đồng bóng do tiền nhơn Trung Hoa phát minh ra, thì nhà Chu chắc chắn là không cấm đoán.
Không có trào đại Trung Hoa nào mà cấm đoán các tin tưởng đúng hay quàng xiên của các đời trước cả, những tôn giáo cổ sơ của họ tự nhiên mà biến hình biến dạng theo nhịp biến chuyển của xã hội, của tư tưởng. Các nho gia muốn cấm đoán tin nhảm, nhưng vua chúa không y tấu. Dưới đời Hán, đạo Nho được xem là quốc giáo, nhưng vẫn không cấm đồng bóng. Sở dĩ nhà Chu cấm đồng bóng là vì hy vọng cấm được, mà hy vọng ấy bắt nguồn từ ở cái điểm đạo ấy không phải của dân tộc họ, mà là đạo ngoại lai.
Vua thì như thế mà sĩ phu Trung Hoa cũng như thế.
Trong quyển Luận hành nhà danh nho Vương Sung đời Hán đã phải công kích dữ trò đồng bóng đã du nhập vào Trung nguyên của nước Tàu. Cuộc công kích ấy chứng tỏ rằng đồng bóng là một tôn giáo ngoại lai. Sĩ phu Trung Hoa chỉ công kích tôn giáo ngoại chớ không hề công kích tôn giáo của họ, cả đến những tin nhảm, dị đoan của dân chúng họ, cũng được họ mặc nhận.
Trung Hoa không bao giờ có phát minh đồng bóng mà chỉ mượn của Việt thôi, bằng chứng là họ không hiểu Cửu Ca muốn nói gì.
Người Trung Hoa, kể cả trí thức, thường phàn nàn Sở Từ khó hiểu là vì vậy, chớ không phải vì lối hành văn của Sở Từ hơi khác lối hành văn Hoa Bắc. Khi mà một nhà thơ tả những nghi lễ kỳ dị, mà không chịu giải thích rằng là mình tả một nghi lễ ngoại quốc thì ngoài các nhà bác học không ai hiểu được hết.
Ta phải dám nghĩ rằng tác giả Cửu Ca không phải là người Tàu mà chính là một người Việt đã bị đồng hóa trở thành trí thức Trung Hoa (Cái thuyết cho rằng Cửu Ca là của Khuất Nguyên, nay rõ là sai). Chỉ có người Việt mới không giải thích gì hết khi sáng tác bài thơ đó, vì y tự nhiên mà hiểu những lễ nghi ấy, và tưởng lầm rằng ai cũng tự nhiên mà hiểu. Nếu tác giả Cửu Ca là người Tàu di cư đến Sở, y sẽ biết ngay rằng người Tàu sẽ không hiểu gì hết, và y có một vài câu thơ giải thích ở đầu bài chẳng hạn:
Ngồi buồn xem rợ Việt
Cúng kiến, vui, lạ tuyệt,
Thầy cúng là đàn bà,
Họ múa may cuồng nhiệt.
Đàng nầy thi sĩ bắt đầu y như đó là chuyện rất phổ thông mà độc giả nào cũng thấy rồi cả, nhiều lần trong đời họ.
Ta ráp nối Cửu Ca và bốn tượng đồng Đào Thịnh và ta thấy rõ ràng là hình đó tượng trưng cho việc giao hợp với thánh. Tất cả công trình kiến trúc, điêu khắc trang trí của người xưa đều phục vụ tôn giáo, không có ngoại lệ thì hình ấy cũng vậy, mà không có tôn giáo nào có việc mời giao hợp cả, trừ tôn giáo thờ trời với nghi lễ lạ kỳ của các bà đồng thời đó, và còn dấu vết trong dân tộc Gia Rai.
Một người bạn của chúng tôi, cùng nghiên cứu bình đồng Đào Thịnh với chúng tôi cho rằng chủng Mã Lai gồm Việt, Miên, Dravidien, v.v. đều thờ dương vật và âm vật và bình đồng Đào Thịnh là sự tượng trưng cho sự thờ phượng đó.
Về sự kiện Mã Lai, Việt, Dravidien thờ dương vật và âm vật thì đúng, mà cho đến nay vẫn tồn tại tại Việt Nam, từ Bắc Việt đến Nha trang, nhưng trong bình đồng Đào Thịnh không phải là dương vật hay âm vật mà là giao hợp. Người nghệ sĩ cho thấy sự giao hợp mà không cho thấy hai vật kia, hay có mà không rõ như là sự giao hợp.
Hơn thế giao hợp chung quanh mặt trời thì rõ ràng là đồng bóng nguyên thỉ, còn việc thờ dương âm vật thì không hề có mặt trời.
Cũng nên nói thêm một chút ít về đồng bóng trong xã hội ta ngày nay. Đồng bóng, cũng như bao nhiêu thứ khác, đã phải mang quá nhiều lớp sơn Trung Hoa quá dầy, như các Gia Thần, Thổ Thần, Thần Thành Hoàng, Thần Ngũ Nhạc đều là Thần của Trung Hoa (đừng lầm Thần làng của ta và Thần Thành Hoàng mà có rất nhiều người lẫn lộn). Chúa Liễu Hạnh, Từ Vương Mẫu cũng là của Trung Hoa.
Tuy nhiên ngôi thứ nhứt là Ngọc Hoàng Thượng Đế vẫn còn mà đó là của Việt, tôn giáo thờ Trời là của riêng ta mà Tàu bắt chước, sẽ nói đến lát nữa đây.
Những Tả Chầu Mán, Hữu Chầu Mường, v.v., không biết là dấu vết cổ thời hay mới thêm thắt tại địa bàn Nhị Hà, bởi vào thời cổ dân Việt vẫn sống chung với Mèo, Mán, Thổ, Thái, tại địa bàn Hồ Bắc (xin xem lại chương nước Tây Âu).
Các bà đồng ta nay không còn “thăng” thật sự như xưa. Thăng là ra khỏi trạng thái xuất thần và cuồng loạn ở cái pha cuối cùng mời thánh giao hợp. Không có xuất thần thật sự thì không thăng thật sự làm gì, mà không có mời thánh giao hợp thì không xuất thần làm gì.
Tuy nhiên các bà đồng của riêng miền Nam vì chịu ảnh hưởng cổ của Gia Rai, của Chàm, nên có xuất thần và có thăng, thường thì là xuất thần (transe) giả, thăng cũng giả, nhưng vẫn có làm và có trao lời thánh lại cho các đệ tử.
Trong tập nghiên cứu “Đạo Chamanisme của người Mèo” ông Guy Moréchand viết: “Ta không nên kết luận rằng đó là tôn giáo riêng của người Mèo. Lại còn không nên rút ra từ đó những kết luận về sử. Người ta muốn thấy trong vài bài thơ đời Chu (ý tác giả ám chỉ Cửu Ca) dấu vết của đạo Chamanisme của người thiểu số ở Trung Hoa. Đó là tôn giáo Trung Hoa hay sơn cước? Kết luận là quá liều”.
Tác giả ám chỉ Granet, Maspéro, v.v.
Nhưng cả tác giả và ba ông kia dùng danh từ không chính xác. Riêng chúng tôi, chúng tôi chỉ nói đến đồng bóng mà thôi, mà Chamanisme không có nghĩa với đồng bóng. Tất cả các ông ấy đều gán cho danh từ Chamanisme cái nghĩa đồng bóng là sai.
Danh từ Chamanisme trỏ nhiều thứ tôn giáo cổ sơ không rõ rệt, tôn giáo cổ sơ Mông Cổ cũng được gọi Chamanisme, mà tất cả những thứ ấy đều khác đồng bóng rất xa.
Nhưng nếu cho là đúng đi nữa, đồng bóng của người Mèo mà ông Guy Moréchand tả, khác hẳn đồng bóng của Bộc Việt và Việt Nam. Trong đồng bóng Bộc Việt trong Cửu ca và đồng bóng của Việt Nam, người lên đồng luôn luôn là bà đồng, còn đồng bóng của người Mèo là đàn ông không có ngoại lệ.
Hơn thế ông G. Moréchand thú nhận rằng không thể biết các ông đồng đi đến cái thế giới huyền bí bằng cách nào, lời chầu mời và cử chỉ các ông không cho ta biết rõ gì cả. Trong khi đó thì các bà đồng Bộc Việt trong Cửu Ca và các bà đồng Việt Nam ngày nay thường đi thuyền (có cầm chèo).
Cái vụ đi bằng thuyền và cầm chèo, lại ăn khớp với hình thuyền có chèo quanh mặt trời khắc ở các cổ vật Đông Sơn.
Các ông Tây cứ nói đến việc rước hồn của người Dayak ở Bọt Nê Ô, nhưng các ông không biết đến việc rất gần trống đồng Đông Sơn là các bà đồng đều cầm chèo, chèo thuyền để đi tới thánh ngự.
Chúng tôi xin ông H.T.N. Hội trưởng Hội Việt giáo phục hưng cho xem một buổi lên đồng đúng cách nhất hiện nay tại một đền thánh Phú Nhuận, và quả thấy các bà có cầm chèo thật sự.
Những nhà bác học Pháp nói trên cũng chỉ nói qua vậy thôi, chỉ có chúng tôi là xem Cửu Ca là một bằng chứng lớn.
Nhưng như đã nói, đồng bóng chỉ là một nghi lễ, một cuộc tế lễ của một tôn giáo, cái tôn giáo mà các ông Tây cho là thờ Mặt trời. Riêng chúng tôi, chúng tôi thấy rằng không phải thế. Đó là tôn giáo thờ Trời. Mặt trời chỉ là một hình vẽ tượng trưng.
Chủ trương của chúng tôi dựa vào ba bằng chứng:
1. Thứ nhứt, các bà đồng chỉ thờ Thượng đế, tức Trời, là đấng tối cao, mà không thèm biết đến mặt trời.
2. Chi Bộc Việt thiên di ra biển đông biến thành Nhựt Bổn (đã có chứng minh) cũng chỉ thờ Bà Trời, chớ không buồn biết tới mặt trời.
(Tại sao Nhựt Bổn thờ Bà trời mà không thờ Ông trời như Bộc Việt? Đã bảo Nhựt Bổn di cư quá sớm, thuở còn theo mẫu hệ, thì thần của họ dĩ nhiên phải là bà.
Có thể trước Cửu Ca toàn thể Bộc Việt cũng thờ Bà trời, và người lên đồng hẳn là đàn ông, chớ không phải đàn bà. Sử Tàu cũng đã cho biết rằng có ông đồng mà họ gọi là Hích, nhưng không cho biết là các ông Hích biến mất rồi các bà Vu mới nối nghiệp vào năm nào.
Rồi họ tiến đến phụ hệ, và Bà trời lại hóa ra Ông Trời. Vì lệ mời thánh giao hợp cứ còn, nên các ông Hích phải nhường chỗ cho các bà Vu).
Nội hai danh từ Vu và Hích, đủ chứng minh rằng đó là tôn giáo Việt vì đó là hai danh từ phiên âm rõ ràng. Hiện người Sumatra gọi bà đồng là Puyang, mà Pu là Vu của Tàu, còn Yang là thần thánh hay ma quỷ, có mặt trong bất cứ ngôn ngữ của nhóm Mã Lai nào, mà người Việt miền Nam biến thành Dàng.
3. Tôn giáo thờ trời là của dân Bộc Việt.
Từ cái ngày mà một ông vua Tàu nào đó bịa ra rằng ông ta là con trời, thì ông ta giành quyền thờ trời, bởi chỉ có con mới có quyền thờ cha. Các ông khác, đời đời, cố giữ độc quyền đó, người dân Trung Hoa không được phép thờ Trời.
Đến đời nhà Chu, trào đại suy vi, chư hầu muốn phản loạn thì chư hầu Tần làm cái hành động tượng trưng cho việc phản loạn là thờ trời và tế Dao. Vua nhà Chu sợ, không dám bắt tội.
Chúa nước Trịnh, nghe Tần thờ Trời, tế Dao, bèn xin với vua nhà Chu được thờ Trời, tế Dao, Vua từ chối. Chúa nước Trịnh tức giận nói: “Việc thờ Trời, tế Dao là nghi lễ tổ tiên ta bày ra, sao Tần được phép thờ, Chu được, còn ta thì không?” Nói rồi bèn cứ thờ Trời và tế Dao.
Đừng quên rằng nhau rún của dân Bộc Việt là sông Bộc mà sông Bộc là trung tâm của nước Trịnh (trên Bộc trong dâu). Chúa nước Trịnh là người Tàu, nhưng ông tổ ban đầu đã mượn tôn giáo đó của Bộc Việt, nên ông ta cứ xem như tôn giáo đó là phát minh của tổ tiên ông ta, nên mới có luận cứ ấy.
Nhưng tôn giáo thờ Trời lại không hề bị cấm ở Việt Nam. Vua chúa ta, mỗi mỗi theo Tàu, nhưng lại nhắm mắt cho dân thờ Trời. Trước năm 1945 ở thôn quê ta, trong 100 nhà, có ít lắm là 80 nhà có bàn thờ ông Thiên.
Vì đó là tôn giáo gốc của dân chúng, nên mặc dầu bắt chước Tàu, các ông vua ta vẫn không dám cấm, khác hơn ở Trung Hoa mà sự cấm đoán rất dễ bởi đó là tôn giáo ngoại quốc, tôn giáo của dân Bách Bộc, mà vua Tàu ở nước Trịnh đã bắt chước theo trước tiên hết.
Hễ cái gì là gốc tổ thì không ai cấm được, còn cái gì ngoại lai thì rất dễ cấm đoán.
(Trong Da Kao, có đền thờ Ngọc Hoàng của một tư nhơn Trung Hoa, nhưng cứ theo nghiên cứu của cụ Vương Hồng Sển thì đền thờ đó là của một vong thần nhà Minh lập ra với ý chí quật cường y như Tần và Trịnh, chớ không phải là của dân thường).
Các trào đại Trung Hoa, Nhựt Bổn và Việt Nam đã nhiều lần tàn phá Phật giáo, nhưng không bao giờ tàn phá những tôn giáo cơ sở của họ, có vẻ quàng xiên hơn nhiều, chỉ vì Phật giáo là tôn giáo ngoại lai, các trào đại ấy hy vọng tàn phá được, còn những tôn giáo quàng xiên kém cao thâm hơn nhưng toàn dân đều tin tưởng nhiều hay ít, nên họ không dám động tới.
Sự kiện cho phép dân chúng tự do thờ trời của các trào đại Việt Nam nói lên quá rõ ràng rằng đó là tôn giáo chánh của chủng Việt mà chủng Hoa bắt chước.
Ở một nơi khác chúng tôi cũng lại đã cho thấy rằng tôn giáo thờ cúng tổ tiên cũng là tôn giáo chánh của chủng Việt mà Hoa chủng đã bắt chước. Những điều chúng tôi nói đều được chứng minh bằng sự kiện cụ thể, chớ không phải là ức thuyết nhờ một sự thoáng thấy, nhờ linh cảm hay cảm giác nào.
Xem thế, ta thấy giữa hai nhóm Bộc Việt ở bình nguyên Vân Mộng và Lạc Việt, ở lưu vực Nhị Hà có nhiều mối tương đồng lớn mà không phải nhóm Việt nào khác cũng có.
1. Việt nước Sở họ Mị, Việt Âu Lạc cũng họ Mị (Tư Mã Thiên)
2. Việt nước Sở có trống đồng, Việt Đông Sơn có trống đồng (Lăng Thuần Thanh và các nhà khảo cổ Âu Mỹ)
3. Việt Đông Nam Sở Điêu Đề (Tống Ngọc), Việt lạc hậu ở Đông Dương Điêu Đề (B.N.L. ở chương sau). Dân Lạc Việt Điêu Đề (Tư Mã Thiên)
Nhưng dùng chứng tích của Tống Ngọc về tục Điêu Đề, sẽ còn phù hợp với khoa khảo cổ hay không về mặt thời điểm? Đó là điều ta nên kiểm soát. Ở xứ ta phương tiện định tuổi bằng các-bon 14 không được dùng, vì trước 1945 chưa có các-bon 14, nhưng nếu có phương tiện ấy cũng có thể sai đến 300 năm, thế nên các nhà bác học Âu Châu định tuổi cho cổ vật đồng rất khác nhau.
M. Heine Geldern, phỏng định là cổ vật ấy cổ lối thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch, tức cách đây 2.700 năm.
Bernard Karlgren thì cho là cổ vật được chế tạo vào thế kỷ IV trước Tây lịch, tức cách đây 2.300 năm.
Stein Callenfels định là 609 năm trước Tây lịch, tức trước đây 2.500 năm.
Không có gì chắc chắn, nhưng dầu sao, cũng cứ trước Tống Ngọc.
Như vậy, ta dùng tài liệu Tống Ngọc được. Không ai biết Tống Ngọc sanh, tử năm nào, chỉ biết rằng liền sau Khuất Nguyên mà Tư Mã Thiên thì ước lượng Khuất Nguyên mất năm 277 T.K. Vậy ta ước lượng Tống Ngọc làm bài Chiêu hồn 30 năm sau đó, tức năm 247 T.K. Từ năm 247 T.K. đến nay là 247 + 1969 = 2.216 năm.
Truyền thuyết Mường đã cho thấy thật đích xác rằng vua Hùng Vương không có phát minh trống đồng và mượn của một thứ dân nhập cảnh bằng đường biển. Truyền thuyết ấy ăn khớp một trăm phần trăm với khoa khảo tiền sử, đã cho biết chủng Cổ Mã Lai di cư tới Việt Nam làm hai đợt, đợt trước cách đây 5.000 năm, sau biến cố Hiên Viên, Xy Vưu, đợt sau cách đây 2.500 năm, sau biến cố Sở bành trướng ra Đông Nam.
Tất cả những nhà bác học nghiên cứu Đông Sơn đều không biết những điều trên đây vì họ không biết truyền thuyết về trống đồng hay biết mà bất kể đến vì lý do tinh thần khoa học ấu trĩ, bất kể truyền thuyết.
Ta phải kể đến truyền thuyết vì ngày nay ta không còn có quyền khinh thường truyền thuyết như khoa học của đầu thế kỷ 19. Truyền thuyết xét ra luôn luôn có chứa một phần sự thật. Và những truyền thuyết có vẻ hoang đường của ta đều giải thích được hết, một cách hữu lý và khoa học.
1. Tổ tiên ta có địa bàn cũ ở Hoa Bắc, nhưng chỉ lập quốc ở bờ Nam Dương Tử. Trí nhớ của dân ta chỉ có thể trở về nguồn tới thời lập quốc mà thôi, và truyền thuyết rằng thuở xưa ta có biên giới phía Bắc là Hồ Động Đình đúng sự thật.
2. Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cũng có sự thật trong đó, dĩ nhiên là một sự thật rất hạn chế: Địa bàn của Lạc luôn luôn giáp ranh với địa bàn Âu tức Thái và từ 5 ngàn năm rồi từ thời Hiên Viên, đã có nhóm Lạc Lê. Và sự kiện đáng để ý nhứt là địa bàn của Lạc luôn luôn ở đầm lầy, hoặc gần biển, cái địa bàn mà Âu Mỹ gọi là Malais maritime, còn địa bàn của Âu luôn luôn ở trong lục địa, núi rừng (bà Âu Cơ là tiên nên dẫn con lên rừng). Âu Mỹ gọi là Malais des jungles. Đó là Rồng (Lạc) và Tiên (Âu).
Cũng nên biết rằng người Mường không nói Âu Cơ mà nói Ngu Kơ. Và họ nói đúng. Chính dân của nước (Tây) Âu tự xưng là Ngu, Tàu (Quan Thoại) nhại đúng và đọc là Ngê U. Tại các nhà Nho ta đọc sai cái chữ đó là Âu, chớ kẻ tự xưng (Thái) và người phiên âm (Tàu) với lại nhơn chứng (Mường) đều đọc đúng. Người Mường đọc đúng vì họ không có học chữ Tàu với các cụ đồ của ta là kẻ đọc sai. Họ đọc theo tổ tiên của họ đã nghe dân (Tây) Âu tự xưng.
Phê bình Khâm Định Việt Sử, vua Tự Đức cho rằng chuyện một trăm đứa con không thể đúng sự thật vì con đâu mà nhiều quá thế. Vua Tự Đức có vợ chánh và vài chục quý phi với lại vài ngàn cung nữ, nhưng vua hiếm con, nên chẳng biết rằng bao nhiêu đàn bà ấy có thể đẻ ra đến một ngàn con chớ đừng nói là một trăm con.
Vua Tự Đức lại dốt về gia phả của họ Nguyễn Phúc. Chính ông tổ 8 đời của vua Tự Đức là chúa Nguyễn Phước Châu có đến 146 người con (theo thế phả trào Nguyễn), may là chúa Nguyễn Phước Châu tu đạo Phật đấy, chớ nếu không tu, chúa có thể có đến 500 con.
Tuy nhiên trong truyền thuyết nầy, dân ta chỉ nói chuyện tượng trưng chớ không phải nói đích xác là một trăm con.
3. Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương cũng có phần nào sự thật. Chính sử Tàu đã chép truyện nhà Ân của họ đánh giặc với nước Quỹ Phương và chúng tôi đã chứng minh rằng nước Quỹ Phương là một quốc gia Lạc Thái ở Nam Quý Châu.
3. Truyền thuyết về Thần Nông Viêm Đế cũng có thể có sự thật, như đã xét đến rồi.
Một chú Tàu lai thuộc loại lang bạt kỳ hồ, có thể len lỏi vào cộng đồng Cổ Việt, rồi nhờ thông minh hơn họ, thống nhứt các bộ lạc rồi làm vua, sự kiện ấy có thể có, nhưng sự kiện ấy không chứng minh rằng dân ta là Tàu lai bao giờ.
Nhiều nhà học giả ta chống truyền thuyết nầy dữ lắm, chính vì cái vụ Tàu lai đó.
Có vài nhà, liệu chống không được, bèn nói rằng Thần Nông là của ta, chớ không phải của Tàu. Nếu của ta, sao trong truyền thuyết ta không có tổ trực tiếp là Thần Nông mà chỉ truyền thuyết Tàu mới nhận Thần Nông là tổ trực tiếp?
Ông vua tổ ấy có máu Tàu cũng chẳng sao, phương chi ông ta đã lai giống đến hai ba đời rồi.
Vua Tự Đức, Nhượng Tống, Phan Thanh Giản, Nguyễn Phương cứ mắng soạn giả Đại Việt là bịa càn. Thật ra những sử gia ấy chỉ chép truyền thuyết chớ không có bịa gì hết.
Bịa là dân chúng đã bịa chuyện thật cho đẻ ra truyền thuyết đó thôi.
Vì đó là truyền thuyết của dân gian chớ không phải là sáng tác của sử gia như vua Tự Đức đã ngỡ nên ta phải xét kỹ vậy.
Những truyền thuyết khác, có khung cảnh ở ngay Bắc Việt thì tương đối để giải thích hơn, nên chúng tôi không xét đến.
Nên nhớ rằng theo khoa khảo tiền sử thì bọn Nam Man “Điêu Đề” mà Tống Ngọc nói đến, chỉ đi xuống lưu vực sông Nhị Hà để bổ sung cho các đợt trước, chớ thật ra thì họ không phải là đợt đầu, vì đợt đầu là hậu duệ của Xy Vưu, bọn lưỡi rìu tay cầm.
Chúng tôi có bằng chứng rằng họ không phải là đợt đầu, nhưng chúng tôi phải theo dõi họ vì đó là nhóm Việt của ta, nhóm Việt Điêu Đề, tuy chỉ cho thấy giai đoạn Nam thiên cuối cùng mà thôi nhưng ta vẫn thấy được cái giai đoạn cuối ấy chớ còn giai đoạn Nam thiên đầu, lâu đời hàng 5 ngàn năm thì rất khó theo dõi.
Dầu sao, bọn Lạc sau, cũng chỉ là bọn Lạc trước từ Hoa Bắc di cư xuống vì Bách Bộc là Lạc Hoa Bắc, Lạc sông Bộc, là Đông Di, sử Tàu chép rõ ràng là Lạc đó đã di cư, biến thành Lạc Tam Hàn Bộ Trãi, đúng y theo khoa khảo tiền sử, vì Tam Hàn là Cao Cú Lệ, tức Cao Càn Ly và Tân La với lại Bách Tế, tức Triều Tiên sau đó và Đại Hàn ngày nay.
Chỉ có cuộc di cư bằng đường bộ vượt sông Hoàng Hà thì khoa khảo tiền sử không có nói đến, nhưng sử Tàu lại cho ta thoáng thấy bằng danh xưng Bộc Việt ở Dương Tử liên hệ với Bách Bộc ở Bắc Hà Nam.
Mà bằng chứng quan trọng hơn nữa là ta thấy cả hai bọn đều đồng ngôn với nhau: Trời, Trăng, Bông, Sông, Non, Cây, Lá, Cẳng (Chơn), Tay, Ma, Mã, Mẹ, Cha (Nạ, Bố), v.v.
Ta theo dõi đợt hỗn hợp từ nãy giờ, vì đợt I không để dấu chân quá rõ, nhưng rõ ra thì đợt hỗn hợp chỉ là hậu duệ của đợt I thì tức là y như ta theo dõi thuở ban đầu rồi vậy, tức thuở Xy Vưu bị diệt, và Mã Lai bỏ xứ mà đi.
Ở chương tới chúng ta sẽ gặp người Điêu Đề ở Trường Sơn và nói tiếng Việt tối cổ có màu da thổ chu (Xích Quỷ) cao 1m70, sống trong rừng và lãnh đạo chủng Mê-la-nê, cao 1m50 y hệt như ở hang Làng Cườm.
Tài liệu tham khảo riêng cho chương nầy:
Khổng Tử: Kinh thư, Bản dịch
Khổng Tử: Xuân Thu, Bản dịch Sở từ (chỉ được đọc bản dịch ra Pháp văn và Việt văn)
Tả Khâu Minh: Tả Truyện, Bản dịch Legge
(?): Chu Lễ, Bản dịch Legge
(?): Phương dư kỷ yếu giản lãm, Đài Loan
(?): Độc sử phương dư kỷ yếu, Đài Loan
Lăng Thuần Thanh: New Intapretations of the decorative desinges on the Bronge Drums of Southeast Asia.
Trần Văn Tốt: Introduction à l’art ancien du Viet Nam, Saigon, 1969
H. Maspéro: Les religions chinoises, Paris, 1950
Tối tân Trung Quốc phân tỉnh đồ, Đài Loan
Guy Moréchand: Le Chamanise Hmong, Paris
Hưng Thế Nguyên: Việt giáo phục hưng, Saigon
O. K. Ghéquier: La littéature chinoise, Paris
Trần Trọng Kim: Nho giáo, Saigon
Lưu An: Hoài Nam Tử, Đài Loan
Mã Đoan Lâm: Ethn. Des peuples étrangers à la Chine, Bản dịch H.S.D., Paris, 1871
L. Dollot: Les migrations humaines, Paris, 1958
L. Bézacier: L’Archéologie au Viet Nam d’après des travaux de l’E.F.E.O. FA, 1958
O. Jansé: Archaological Rescarch in Indo China, Y.Y., 1947
Tư Mã Thiên: Sử Ký, Bản dịch
Ngụy Chí: T.Q.N.T.N.S., Đài Loan
Chương X. Làng Cườm sống dậy
A. Khả Lá Vàng
Trong việc khảo về tiền sử ở Việt Nam, các nhà bác học đã tìm thấy chứng tích chủng Cổ Mã Lai (Anh-đô-nê) sống chung với chủng Mê-la-nê và chủng Négrito ở nhiều hang động, nhứt là Làng Cườm (cổ 5 ngàn năm).
Sự kiện đó ai cũng ngỡ chỉ xảy ra trong thời tiền sử Việt Nam mà thôi, nhưng hiện vẫn còn. Điều đó chứng tỏ rằng sự tồn tại của con người thật là ngoài sức tưởng tượng.
Và hiện nay, người Việt Anh-đô-nê còn sống chung với chủng Mê-la-nê y như vào cái thời tiền sử xa xôi đó, mà đây là Mê-la-nê thuần chủng với màu da đen, tóc quăn quíu, chớ không phải là Mê-la-nê đã lai giống hàng ngàn năm rồi như phụ nữ Mường đâu.
Những chủng thấp hơn về mặt nhơn thể tính, như chủng Négrito, cũng cứ tồn tại trong lãnh thổ Việt Nam và ta sắp tìm lại được họ đây, và hình ảnh của Làng Cườm bỗng sống dậy, linh động hơn bao giờ cả.
Quan niệm diệt chủng, không thể thành sự thật được, như ai cũng tưởng. Người Thái Tây Âu thì đã biến thành Tàu, nhưng đó là một thứ Tàu rất là Thái, phát minh là Cấm chi, tức Kim thĩ, tức Porc doré, tức heo quay, mà không có nhóm Trung Hoa nào khác biết làm cả.
Các cổ thư Trung Hoa tả dân Việt với năm biệt sắc: Tiển phát, Văn thân, Tả nhậm, xem bên trái là bên thuận, nhuộm răng đen.
Cả năm biệt sắc ấy ta đều có, trừ biệt sắc thứ nhứt mà sự thay đổi qua các thời đại khiến nó không thành biệt sắc vĩnh cửu.
Nhưng không phải chỉ riêng có ta là có cả năm biệt sắc ấy mà tất cả dân Đông Nam Á đều có.
Thành thử muốn biết ta là hậu duệ của nhóm nào, ta cần ít lắm là một biệt sắc nữa.
Cái biệt sắc ấy, ông Lê Chí Thiệp nói là sự búi tóc mà dân Giao ở Nam Dương tử có. Nhưng một bức ảnh trong sách nầy lại cho thấy rằng không phải chỉ có dân Giao là búi tóc mà người Mã Lai Dravidien Nam Ấn cũng búi tóc.
Hơn thế biệt sắc búi tóc lại không dính với nhiều chi tiết khác nó củng cố mạnh thêm dây liên hệ giữa ta ngày nay và các nhóm ngày xưa có biệt sắc thứ sáu.
Ông Lê đã viết chữ Dao với tử âm D khiến chúng tôi phải suy luận theo ông mà nói đến người Hyas, tức người Mán, một chi của Miêu tộc đã di cư đến Bắc Việt. Nhưng chúng tôi tin rằng là ông muốn nói đến dân Giao (G) là người Giao ở sông Dương Tử. Nhưng Dao hay Giao gì cũng không thể nối kết với dân ta được, vì búi tóc thì Nam Ấn có nhóm búi tóc đã cho thấy.
Chúng tôi nghĩ rằng biệt sắc Điêu Đề mà Tống Ngọc tả trong bài thơ Chiêu hồn khi nói đến dân Việt ở Nam Thọ Xuân mới là biệt sắc quyết định vì chỉ có họ và ta là có mà thôi, và biệt sắc đó lại bao gồm nhiều biệt sắc khác nối kết dân Điêu Đề với dân Việt Nam hiện tại.
Vì thế mà khi tìm tài liệu, chúng tôi bám sát vào dân Điêu Đề.
Biệt sắc thứ sáu, Tàu không có nói là biệt sắc, nhưng có ghi. Đó là sự búi tóc của dân Giao ở sông Dương Tử. Nhưng chúng tôi đã bác bỏ vì Mã Lai Ấn, dân Dravidien cũng búi tóc, mà họ thì không là dân Giao.
Thế nên chúng tôi bám níu vào biệt sắc thứ sáu khác là sự Điêu Đề nó có tánh cách quyết định nhiều hơn.
Và cũng nhắc lại những cái khoen nối kết:
A. Ở Nam Sở có man di Điêu Đề (Tống Ngọc).
B. Dân Giao Chỉ Điêu Đề (Xâm trán) (Từ Hải).
C. Binh sĩ của Đinh Bộ Lĩnh Điêu Đề (Mã Đoan Lâm).
D. Dân Âu Lạc Điêu Đề (Tư Mã Thiên).
Hiện nay ở cái địa bàn mà trước năm 1945, Tây gọi là Đông Pháp (Indochine Francaise) còn những ai Điêu Đề?
Chỉ có hai nhóm người thật nhỏ là còn giữ tục đó. Đó là nông dân Chàm sống hẻo lánh ở Bình Thuận và một thứ dân kia ở trên Trường Sơn, được quen gọi là dân Khả?
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng Chàm là Lạc Việt. Nhưng đó là một người bà con, tuy cật ruột nhưng không thẳng dòng, nên chúng tôi theo dõi người Khả tha thiết hơn.
Cũng nên biết rằng dân Lạc Hoa Bắc, con cháu của Xy Vưu không bao giờ được tả hết, vì dưới thời Hiên Viên chưa có chữ mà trí nhớ của con người thì rất giới hạn.
Vậy người Khả không bắt buộc phải là nhóm Mã Lai đợt II, mặc dầu họ cũng Điêu Đề như người Chàm và như Việt Tống Ngọc. Chẳng những thế, lại còn có bằng chứng rằng họ thuộc đợt I.
Ta là Lạc Hoa Bắc đa số, Ngôn ngữ Khả lại giống ngôn ngữ ta hơn là ngôn ngữ Chàm (Hoa Nam) đã giống thì Khả phải là Lạc Hoa Bắc, tức Lạc đợt I.
Từ bao lâu nay, ít ai biết người Khả, mà số người biết rằng người Khả có xâm trán (Điêu Đề) lại càng ít hơn. Chỉ có một bài báo của ông Malleret là có nghiên cứu tục Điêu Đề của một nhóm kia tên là Khả Ta Quảng Nam và chúng tôi nhớ có thấy trong một quyển sách Việt một câu rất ngắn như thế nầy: “Người Khả là người Mường di cư sang Lào”.
Sự hiểu biết về người Khả nghèo nàn như thế thì không dùng để chứng minh cái gì được hết, nếu không có cuộc khám phá của một ông quan cai trị người Pháp tại xứ Lào năm 1944.
Trước hết Khả không phải danh xưng, mà chỉ là một danh từ Thái Lào có nghĩa là “Man di”.
Ông quan cai trị nói trên đã khám phá rằng họ là người Lạc Việt cổ thời. Dân Thái Lào mà dám gọi Việt Nam là man di, tiết lộ cho ta biết nhiều điều lạ lùng lắm, dân Thái Lào chỉ mới di cư từ đất Lào vào thế kỷ XIII tức cách đây không tới 700 năm.
Hiện nay họ kém hơn ta nhiều bực, mà thuở di cư tới, họ cũng kém hơn ta nhiều bực.
Thế mà gọi nhóm Lạc Việt đó là man di, tức nhóm ấy không có tiến, từ Tây lịch, hoặc họ đã giỏi lắm, nhưng bị thoái hóa vì một nguyên nhơn bí mật nào đó. Cũng nên biết rằng từ dãy Trường Sơn đến xứ Lào có rất nhiều nhóm bị Lào gọi là Khả, tức như Mọi của ta. Trong hàng chục nhóm Khả đó, chỉ có bốn nhóm là người Lạc Việt còn thì tất cả đều là Miêu tộc hoặc Mê-la-nê.
Thế ta nên thận trọng về những thứ dân mà Lào gọi là Khả và những thứ dân không bị họ gọi là Khả, vì có nhiều nhóm như Phu Tơng là Lạc Việt một trăm phần trăm, lại không bị gọi là Khả.
Và trước khi phổ biến nhận xét về khám phá nói trên, chúng ta nên lội ngược dòng thời gian trở về hai ngàn năm trước.
Một nhà địa lý Hy Lạp là Ptolémée đã sang phương Đông hồi đầu Tây lịch kỷ nguyên bằng đường thủy, đã tả một nơi mà ông ấy gọi là Kattigara mà đa số người trong giới bác học đoán là Óc Eo nhưng nhà bác học R.A. Stein lại đối chiếu lời văn miêu tả với khung cảnh Bình Trị Thiên và thấy rằng Kattigara phù hợp với Bình Trị Thiên mà không phù hợp với Óc Eo (Tạp chí Hán học, Bắc Kinh, 1947).
Hơn thế, quyển Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo Nguyên cũng tả một sự kiện y hệt như Ptolémée, nhưng họ Lê thì đặt sự kiện ấy đích xác tại Cực Nam Nhựt Nam (tức Bình Trị Thiên).
Sự kiện ấy nói đến một cuộc Thầm mặc giao dịch của một thứ dân kia ở đó, họ buôn bán với dân bổn xứ bằng cách thầm mặc, tức chỉ để hàng hóa rồi lánh mặt, rồi sẽ trở lại lấy tiền.
Nhưng tiền mà họ đòi hỏi phải là vàng nguyên chất và họ sành vàng cho đến đỗi họ chỉ ngửi mùi là biết nó có quả thật là nguyên chất hay không.
Trong câu chuyện ấy có ba chi tiết khiến ta phải đặc biệt chú ý tới:
Việc thầm mặc giao dịch là lối cư xử của nhơn loại thời cổ sơ chớ vào đầu Tây lịch thì không còn dân mà thầm mặc giao dịch nữa hết, và nếu còn thì hẳn phải có một lý do rất quan trọng: thứ dân đó còn cần trốn tránh tất cả mọi người.
Một dân tộc biết đòi hỏi thanh toán bằng vàng và sành xem vàng đến thế, phải là một dân tộc văn minh, nhưng lại có thái độ kém hơn thổ dân kém mở mang ở nơi đó nữa, thì thật là bí hiểm.
Thổ dân kém mở mang ở Trường Sơn gần lối đó, hiện nay được biết thuộc ba chủng: Mê-la-nê, Négrito và Albinos (sẽ thấy ở một trang sau).
Vậy thứ người đó nhứt định không thuộc ba chủng thổ dân nói trên, ba chủng ấy, cho tới năm nay vẫn chưa biết giá trị của vàng. Nhứt định họ cũng không phải là người Chàm, vì vào thuở ấy người Chàm đã ra mặt làm chủ nhơn ông ở đó không cần trốn ai cả.
Tài liệu Ptolémée và của Lệ Đạo Nguyên chỉ có bấy nhiêu đó và tưởng không dùng được vào việc nào cả.
Nhưng ta lại xuôi dòng thời gian trở về đầu thế kỷ nầy với cố đạo L. Cadière là người cai quản họ đạo ở Quảng Bình (Tam Tòa).
Cố đạo Cadière đã đi tìm bốn thứ người đó, nhưng không bao giờ gặp: Mê-la-nê, Négrito, Albinos và người thầm mặc giao dịch (Commerce silencieux). Loại người thứ tư, có vẻ huyền hoặc hơn hết lại được cố đạo chú ý tới nhiều nhất vì chính người Việt Nam ở Quảng Bình đã quả quyết có thấy nhà cửa họ, và gọi họ là Quỷ lá vàng, quỷ vì họ luôn luôn biến mất, chỉ để lại nhà thôi. Còn lá vàng là như thế nầy: họ che chòi bằng nhánh cây tươi, ở được một thời gian ngắn, lá khô trổ vàng là họ không còn tại đó nữa.
Đó là dấu hiệu đi trốn, vì màu vàng dễ bị lộ hơn màu xanh và sợ định cư lâu ngày, có thể chạm mặt với dân khác.
Cố đạo L. Cardière thấy ngay dây liên hệ giữa Quỉ lá vàng và người thầm mặc giao dịch của Ptolémée và của Lê Đạo Nguyên.
Nhưng sau đó có một hạ sĩ quan không quân Pháp là Gorgorio và đại tá Roux vượt Trường Sơn ở lối đó và có mang được tài liệu về cho cố đạo.
Hai quân nhân trên đã có phúc trình tại Viện Viễn Đông Bác Cổ về người Quỉ lá vàng mà họ gặp và có chụp hình nữa, nhưng viện chưa kịp công bố thì Nhựt đã có hành động quân sự để lật đổ người Pháp, tài liệu của Viện mất rất nhiều, không ai tìm lại được hết, mặc dầu sau 1946, Viện đã hoạt động trở lại.
Trong khi đó thì người có bản sao về tài liệu ấy là cố đạo L. Cadière cũng bị Bắc Việt bắt cầm tù năm 1945, đến năm 1953 được phóng thích thì giấy tờ đã mất hết, thành thử không ai biết Quỉ lá vàng là dân nào hết, cho đến năm 1949 thì sự thật mới hiện ra nhờ mớ tài liệu của một ông quan cai trị Pháp là ông A. Fraisse, quan đầu tỉnh ở Thakkhet, được công bố.
Năm 1944, ông A. Fraisse tỉnh trưởng tỉnh Thakkhet nghe viên chức Ai Lao cho biết trong vùng đó, trên dãi núi Phu Ac có một thứ „Mọi“ không chịu đầu phục, tên là „Mọi lá vàng“, tiếng Lào là Khả thong long.
Ông A. Fraisse nghĩ ngay đến Quỉ lá vàng của cố đạo L. Cadière vì dãi núi Phu Ac nằm gần ngang vĩ tuyến với động Phong Nha ở Quảng Bình, nơi mà dân có thấy chòi của Quỉ lá vàng. Hai dân tộc sống gần nhau là Lào và Việt có thể gọi một thứ dân thiểu số có mặt ở cả hai lãnh thổ bằng một tên chung vì cái biệt sắc của dân thiểu số ấy, biệt sắc lá vàng.
Từ Quảng Bình đi Nam Lào, ngày xưa có con đường mòn vượt đèo Mụ Già, còn vào năm đó thì đường mòn ấy đã thành đường xe hơi chạy được, dân hai nới có thể qua lại với nhau một cách dễ dàng.
Ông A. Fraisse đã vào Trường Sơn từ hướng Tây, tức từ xứ Lào, ngược lại với đại tá Roux và hạ sĩ quan Gorgorio, và ông dùng con đường Mụ Già, thay vì leo Trường Sơn như đại tá Roux.
Nhưng cả hai đều gặp một thứ dân, đó là Quỉ lá vàng, bằng vào ký ức của một thính giả đã nghe phúc trình tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội năm 1942, ông ấy đã cho biết như vậy trong tạp chí B.S.E.I rằng đại tá Roux đã nói đến Quỉ lá vàng lúc thuyết trình.
Nhưng cái ký ức của một thường dân không dùng được, nên ta chỉ dùng khảo sát của nhà khoa học A. Fraisse mà thôi, bởi cả hai đều gặp Quỉ lá vàng thì dùng một trong hai, tuy không đủ, nhưng không còn cách nào khác.
Ông A. Fraisse bèn quyết đi tìm họ, không phải để bắt họ đầu phục, mà để nghiên cứu họ. Dưới đây là kết quả của cuộc nghiên cứu của ông A. Fraisse, có lẽ cũng trùng hợp với tài liệu của hai quân nhân nói khi nãy, tài liệu mà cố đạo L. Cadière đã đánh mất trong lúc bị bắt, và Viện V.Đ.B.C. cũng bỏ thất lạc.
Sở dĩ họ được gọi là lá vàng, vì họ sống lang thang, che chòi bằng nhành cây mà ở tạm nơi nào đó, đến chừng lá các nhánh cây vàng úa thì họ bỏ chòi mà đi, bởi thực phẩm quanh họ đã hết rồi, mà nhứt là họ sợ bị lộ tung tích, y như ở Quảng Bình.
Còn sở dĩ người Lào gọi họ là „Mọi“ (Khả) còn người Việt gọi là Quỉ vì người Việt không thấy họ, chỉ gặp chòi, còn người Lào thì có thấy, có biết, và ông A. Fraisse sở dĩ tìm họ được nhờ người Khả văn minh hướng dẫn vào rừng núi.
Ông A. Fraisse cho biết một chi tiết sau, rất là quan trọng, là cái làng ông tới được, chỉ đông có 10 người, vậy mà có hai chủng tộc trong đó, chủng Cổ Mã Lai cao 1m70, nước da màu thổ chu (Xích quỉ đấy, ông Nhượng Tống ơi !) chủng nầy lãnh đạo, còn chủng bị lãnh đạo chỉ cao 1th50, nước da đen, tóc còn khá quăn quíu, tức là đã có hợp chủng chút đỉnh với cấp lãnh đạo.
Tại sao bọn sống lang thang ấy lại có lập làng ? Là vì ở Lào mỗi năm có nước lụt một lần và vào mùa lụt lội thì họ không đi lang thang được nữa nên họ lên núi lập làng sống tạm, qua mấy tháng lụt rồi thì họ mới đi kiếm ăn được.
Cấp lãnh đạo không ai đâu xa lạ. Họ là người Khả lá vàng đồng chủng với người Khả văn minh sống gần người Ai Lao, họ nói tiếng Khả. Chính người hướng dẫn và thông ngôn cho ông A. Fraisse là một người Lá vàng đã bỏ nhóm về sống với Lào và được chúng tôi tạm gọi là Khả văn minh, và mang về chợ một người vợ thuộc chủng Mê-la-nê.
Năm xưa người phụ tá với cố đạo L. Cadière là cha sở P. Guignard không biết làm cách nào mà ghi được vài câu nói của người Quỉ lá vàng và xem lại thì đó là một thứ tiếng Việt cổ sơ hơn tiếng Mường nhiều lắm. Nay ông A. Fraisse xác nhận rằng người Khả lá vàng nói cái thứ ngôn ngữ Việt cổ sơ đó.
Người Khả lá vàng, nói tiếng Việt cổ sơ hơn Khả văn minh nhiều lắm, tức theo thứ bực tiến bộ ngôn ngữ thì như sau:
1.- Việt Nam
2.- Mường
3.- Khả văn minh
4.- Khả lá vàng.
Chúng tôi tạm dùng danh xưng Khả văn minh, chớ thật ra Khả lá vàng cũng văn minh y như Khả văn minh, chỉ có khác là họ trốn tránh trong rừng và sống chung với một chủng lạc hậu, theo nếp sống của chủng đó chớ không có gì lạ. Nếp sống đó là không định cư, không trồng trọt, nhưng họ vẫn biết trồng trọt vì họ là người Lạc Việt, họ trồng bắp trong mùa nước lụt.
Tại sao họ lại theo nếp sống lang thang của cái chủng tộc mà họ lãnh đạo ?
Dưới đây là giải thích của một ông quan cai trị khác, cũng là người Pháp, tên là J. Bondet de la Bernardie, ông nầy đã khảo sát người Khả văn minh ở cao nguyên Bolovens, nhưng cũng biết rằng trong rừng có Khả lá vàng. Theo ông Bernardie thì sở dĩ họ phải sống đời sống cầm thú đó là vì họ bị người Cao Miên bắt họ làm nô lệ, người Cao Miên từ đầu kỷ nguyên K.T. đến thế kỷ thứ XIII, còn người Xiêm, người Lào thì từ thế kỷ XIII đến khi Pháp tới nơi.
Xin nhắc rằng dân Khơ Me lập ra nước Chân Lạp, không phải tại xứ Cao Miên ngày nay, mà ở trên Lào. Nước Cao Miên ngày nay cộng với Nam Kỳ là đất của quốc gia Phù Nam.
Đầu thế kỷ thứ 6 thì Chân Lạp diệt quốc gia Phù Nam, thiên đô xuống phương Nam, nhưng vẫn còn làm chủ đất Lào cho đến thế kỷ 13 thì dân Thái Lào tràn tới cướp đất của Cam Miên cho đến ngày nay.
Pháp tới nơi, cấm việc „buôn mọi“, và Cao Miên và Xiêm cũng không còn xâm nhập vào các tiểu vương quốc Ai Lao ở đó được nữa, nhưng có nhiều nhóm Khả không hay biết, cứ tiếp tục trốn tránh mãi.
Có khác một chút là Xiêm Lào ít hà khắc hơn, và bắt nô lệ ít hơn Cao Miên nên mới có được những nhóm Khả ra mặt sống tự do trên cao nguyên Bolovens. Khả lá vàng thì lẫn trốn trên núi Phú Ác là dãy núi ít ai lên được.
Ông A. Fraisse có ở lại với họ một đêm, được họ cho ăn gà nướng và măng nấu với cua đồng, tức họ đã văn minh chớ không dã man, và chỉ có chủng bị lãnh đạo là còn kém cỏi lạc hậu mà thôi. Và cái món cua đồng nấu canh ấy đích thị là món ăn của dân tộc Việt Nam vậy, mà các dân tộc ở Đông Nam Á không có.
Ông quan cai trị ấy rất thạo về chủng tộc học, và mặc dầu không có mang dụng cụ theo để đo sọ, ông A. Fraisse cũng khảng định được rằng Khả thuộc chủng Cổ Mã Lai có mang ít nhiều nhân thể tính Mông Gô Lích y hệt như lạc bộ Trãi cách đây 5 ngàn năm, còn người bị lãnh đạo thuộc chủng Mê-la-nê.
Vì không có ở lâu trên núi Phú Ác được nên ông A. Fraisse không có đo sọ của họ, và khảng định của ông chỉ dựa vào việc quan sát sọ mà thôi. Ông bảo rằng sọ của người Khả lá vàng có tánh cách Brachycéphale, tức tánh cách của sọ Mã Lai.
Đây mới là hình ảnh làng Cườm trung thực, trung thực hơn nơi xã hội Mường nhiều lắm vì trong xã hội Mường, chủng Mê-la-nê đã văn minh, nhờ cấp lãnh đạo là người Mường có đời sống sung túc và theo nông nghiệp, còn cấp lãnh đạo ở đây phải theo nếp sống của Mê-la-nê vì hoàn cảnh trốn tránh ngăn họ định cư và trồng trọt.
Họ thoái hóa theo chủng Mê-la-nê chớ không phải nâng chủng Mê-la-nê lên nền văn minh Anh-đô-nê.
Tính cách Mông Gô Lích mà ông A. Fraisse ám chỉ đến, cho ta biết rằng người Khả Lá Vàng khác người Mường vì người Mường thuộc Mã Lai đợt II, không có tánh cách Mông Gô Lích của chi Mã Lai đợt I.
Thế thì họ không phải là Mường di cư mà lại là Việt Nam đợt I. Nhưng cũng không phải là Việt di cư nữa vì ta sẽ thấy họ đã lập quốc và bị Chân Lạp diệt quốc.
Ở chương ngôn ngữ chúng tôi có chứng minh được rằng những danh từ Việt Nam chỉ những gì mà họ có trước khi người Tàu đến như nhà, sông, núi, tay chơn, v.v. không giống của nhóm Mã Lai nầy thì giống của nhóm Mã Lai khác chớ không phải là tiếng Tàu như hai giáo sư đại học Nguyễn Phương và Lê Ngọc Trụ đã nói. Tuy nhiên vẫn có lối 4 phần trăm danh từ không giống danh từ của bất kỳ nhóm Mã Lai nào hết.
Ta có thể ước đoán mà không sợ sai lầm rằng đó là danh từ của chủng Mê-la-nê, chủng mà dân Lạc Việt đã lãnh đạo từ thời Làng Cườm cho đến nay. Đó là tên những cái cây, những con thú mà chỉ có người thổ trước Mê-la-nê mới có và dân Lạc Việt đến sau, bắt buộc phải vay mượn.
Thí dụ bất kỳ cây đại thọ nào mà gỗ rắn chắc đều được người Khả Lá Vàng và Khả Văn Minh gọi là Lin, mà Lin thì không khác xa Lim của Việt Nam bao nhiêu.
Đã bảo rằng bất kỳ thổ sản địa phương nào cũng bị các nhóm Mã Lai gọi khác hết, vì hồi họ sống chung với nhau ở bên Tàu, thì không có những thứ ấy.
Nhưng di cư tới Đông Nam Á, rồi thì mỗi nhóm học với thổ dân ở các địa bàn định cư, mà thổ dân đó thì không giống nhau. Chúng tôi đã đưa ra thí dụ điển hình nhứt là danh từ Dừa.
Việt Nam: Dừa
Cao Miên: Đôn
Thái Lào: Prao
Chàm, Mã Lai: Nyor
Còn tại sao họ bị bắt làm nô lệ, còn các nhóm thiểu số khác ở đó kém hơn thì không? Ông A. Fraisse không biết, nhưng ta có thể suy luận là dân Miên và dân Xiêm chỉ bắt dân văn minh chớ các dân kém cỏi không biết làm gì hết, mà cũng không chịu đựng được lối sống văn minh của Miên, Xiêm, thì bắt họ về họ sẽ ngồi đó, cho tới ngày họ chết vì đau ốm bởi bất phục thủy thổ, bất phục khí hậu và cách ăn ở của dân văn minh.
Trải qua lịch sử thế giới, các dân thống trị bắt nô lệ, luôn luôn bắt dân khá văn minh hoặc văn minh hơn họ mà yếu thế quân sự, chớ không bắt dân dã man bao giờ, thí dụ người Cao Miên đã bắt toàn thể thợ Môn để xây đền Angkor cho vua chúa họ vì người Môn của nước Dvaraveti văn minh rất cao, còn người Cao Miên thì không biết kỹ thuật xây cất bằng đá.
Có lẽ dưới trào đại Angkor, người Môn làm thợ, còn người Khả thì làm nông nô, vì người Khả cũng không thạo kỹ thuật xây cất bằng đá, nhưng lại rất giỏi canh nông.
Vì hôm đó là mùa lạnh họ không đi kiếm ăn được nên ông Fraisse thấy họ trồng bắp quanh làng.
Người Cao Miên hiện nay cũng đã giỏi canh nông, nhưng thuở ấy làm chủ đất Lào toàn núi non, họ chưa biết trồng trọt đáng kể, và họ chỉ giỏi nhờ học với nô lệ Khả.
Một tiết lộ khác nữa, đó là nhóm người sơn cước độc nhứt mà đàn bà đẻ “nằm bếp”, tức nằm giường, dưới giường có bếp lửa. Đích thị đó là phong tục Việt Nam, ngoài việc nhuộm răng đen, nói tiếng Việt cổ.
Tiết lộ quan trọng vào bực nhứt là người Khả Lá Vàng cao 1m70, có sọ Mã Lai, màu da thổ chu (Ocre rouge) xâm trán, và tự xưng là Alak.
Người Việt cũng bắt chước Lào, gọi họ là Khả, nhưng ngỡ Khả là tên dân, không dè nó chỉ có nghĩa là man di mà thôi.
Người Khả được người Pháp đặt tên theo từng nhóm, những tên nầy thường dựa vào địa lý, thí dụ Khả Phu Ac, Khả Nam South.
Nhưng họ tự xưng là gì, đó mới là điều quan trọng, và rất bất ngờ.
Họ không bao giờ tự xưng là Khả đâu. Mà họ tự xưng là Alak.
Ta xét một biểu đối chiếu danh từ Khả xem sao:
Chó = Acho
Cá = Aka
Vậy thì Alak hẳn phải là Lạc.
Đích thị họ là Lạc Việt.
Ông A. Fraisse không biết gì hết về cổ sử ta nhưng ông gom góp tất cả những gì ông biết và trình ra hết một cách tạp nhạp để cho người khác lựa chọn mà dùng. Ông A. Fraisse đã nghĩ sai khi ông cho rằng vì họ có buôn bán với người Việt nên mới biết tiếng Việt. Một thứ dân trốn tránh trong rừng từ hai ngàn năm rồi, làm thế nào mà có buôn bán với ai được.
Vả lại họ nói tiếng Việt cổ tức nếu có tiếp xúc thì chỉ có tiếp xúc vào cổ thời, còn nay thì không. Mà đó là một điều vô lý hết sức. Hồi cổ thời không có đường sá, nay đường đèo Mụ Già cam nhông chạy được, sao họ lại mất liên lạc với ta?
Việc tự xưng là Lạc và việc xâm trán (Điêu Đề) của họ cũng rất hùng biện.
Tới đây, ta nên xem lại sử Tàu, sử Tàu khá giỏi, đã biết thật rõ và thật đúng nguồn gốc của nước Cao Miên.
Ta biết rằng nước Lào nay, xưa kia là nước Chân Lạp của người Cao Miên, còn nước Cao Miên ngày nay thì xưa kia là nước Phù Nam.
Vậy người Cao Miên đã lập quốc tại xứ Lào và lập ra sao, tên gì, được ai khai hóa, đều được khoa khảo cổ phối hợp với sử Tàu cho biết rất đích xác, và ta sẽ thấy ở một quyển sách khác, các ông Tây viết sử Cao Miên, Phù Nam, Chiêm Thành, hồi tiền chiến đã sai hết.
Nhưng sử Tàu còn biết nhiều hơn nữa.
Họ biết rằng trước cả Cao Miên, tức trước Tây lịch kỷ nguyên, chủ đất ở đó là một thứ dân kia lấy tên nước là Đạo Minh. Có lẽ đó là danh từ do Tàu phiên âm theo nước ấy.
Sử Tàu tả nước Đạo Minh ấy ở Bắc nước Phù Nam, và phía Tây quận Cửu Chân. Đích thị đó là xứ Lào mà Cao Miên đã là chủ 13 thế kỷ liên tiếp.
Nhưng nước Đạo Minh đó không phải chỉ là một quốc gia thông sứ với nhà Hán, tức vào đầu Tây lịch, mà nó lại xưa hơn nhiều.
Ở cánh đồng Chum, các nhà khảo tiền sử đã đào được lưỡi rìu tay cầm, món vũ khí quan trọng vào bực nhứt, nó đánh dấu tất cả những nơi di cư của dân cổ Mã Lai từ Hoa Bắc cách đây năm ngàn năm. Đó là dân Lạc bộ Trãi.
Có thể nói rằng vì Điện Biên Phủ đất xấu nên Lạc ở đó đã bỏ, đi xuống xa hơn một tí và lập ra một quốc gia tại các đất mà vào đầu Tây lịch Cao Miên tràn tới, tức đất Lào ngày nay, nên sử nhà Hán không chép là nước Đạo Minh ở Tây Giao Chỉ, mà chép là ở Tây Cửu Chân.
Chúng tôi có cho biết rằng thổ dân Điện Biên Phủ ngày nay thuộc một chủng thấp bé, chỉ cao 1th50 thứ người bé ấy đã cho biết là những cái chum đá ở cánh đồng chum là của những ông khổng lồ làm ra, tức những người Khả Lá Vàng cao 1th70, tự xưng là Lạc.
Màu da thổ chu của Khả Lá Vàng cắt nghĩa được tại sao ta có tên nước là Xích Quỷ mà Nhượng Tống phủ nhận, cho là không lẽ ta lại lấy tên nước xấu quá như vậy.
Nhượng Tống không biết rằng nước Xiêm, đã tự xưng là nước Tù Binh chính vì không hiểu danh từ Syâm mà Cao Miên dùng để chỉ họ, thì Lạc cũng có thể tự xưng là Xích Quỷ chính vì không hiểu dạng từ mà Tàu dùng để chỉ họ hồi họ còn lập quốc ở Hoa Nam.
Người Tàu dùng tiếng Quỷ không phải luôn luôn để chỉ con quỷ, mà để chế giễu những kẻ mà họ không trọng, thí dụ họ gọi Âu Châu là Bạch Quỷ.
Dân Lạc là chủ nước Xích Quỷ ở Hoa Nam, phía Nam nước Sở, bằng vào bài thơ Chiêu hồn của Tống Ngọc tả người Điêu Đề.
Khả Lá Vàng là dân tộc duy nhứt mang hai dấu vết Xích Quỷ và Điêu Đề. Dấu vết thứ ba là họ tự xưng là Lạc, dấu vết thứ tư là tánh cách Brachycéphale của sọ của họ, dấu vết thứ năm là sự cao 1m70 mà chúng tôi đã cho thấy dân Lạc Lê cao hơn thế.
Khả Lá Vàng chỉ còn cao có 1th70 vì đã lai với Mê-la-nê rồi, chớ trước đó, họ phải cao hơn, thế nên Hiên Viên mới sợ Xy Vưu và Cửu Lê.
Ta đã biết rằng người Hoa Bắc cao lớn như Tây. Thế mà họ cho là Cửu Lê quá dữ tợn, vậy thì dân Mã Lai Hoa Bắc không nhỏ bé như dân Việt ngày nay. Sở dĩ ta bé đi, vì ta trót hợp chủng với Mê-la-nê, kẻ đã gọi ta là ông khổng lồ.
Những chứng tích phụ là ăn canh cua đồng, nói tiếng Việt tối cổ và đàn bà đẻ nằm bếp.
Chứng tích sau đây cũng quan trọng lắm là họ bị Cao Miên bắt làm nô lệ từ đầu Tây lịch, tức từ năm họ bị Cao Miên diệt quốc tại nước Lào ngày nay để lập ra nước Chân Lạp.
Nhưng ta cũng nên kiểm soát lại:
Khâm Định Việt Sử, không biết lấy tài liệu ở đâu mà bảo rằng nước Đạo Minh ở dựa biển lớn cách Nhựt Nam 7.000 dặm (3.500 cây số) về phía Bắc.
Tài liệu mà K.Đ. dựa theo, chắc chắn là sai vì Bắc Nhựt Nam, không bao giờ có vịnh lớn từ 10 ngàn năm nay, theo khoa địa chất học.
Theo Quan Thoại thì Đạo Minh, đọc là Tù wẫn, hơi giống Tava, và có thể đồng hóa với Dvarati, nhưng Dvarati lại ở Tây Nam Nhựt Nam chớ không phải Bắc và được Tàu gọi là Đôn Tuyên, không là Đạo Minh.
Thế nên chúng tôi loại bỏ tài liệu Khâm Định Việt Sử rất khả nghi, mà đi tìm theo nẻo khác có đủ bằng chứng cụ thể và khoa học hơn.
Vì có ở Kontum, chúng tôi biết hai nơi ở đó mà địa danh là địa danh Khả Lá Vàng rõ ràng.
Đó là ĐĐÁK Tô và ĐĐÁK Sút.
ĐĐÁK Tô= Nước Vú (tức sữa)
ĐĐÁK Sút = Nước ong (tức mật ong)
ĐĐÁK là hình thức thứ nhì của nước. Tất cả âm Đ của Mường, Sơ Đăng, Bà Na ở Kontum đều có giá trị ngang hàng với âm N của Việt Nam. Đạ, Đák là hình thức nguyên thỉ.
Việt Nam: Nước
Mường: Đắk
Khả: Đắk
Cao Miên: Tứck
Thượng Việt: ĐĐáa
Mạ: Đạ
Tại ĐĐák Tô, ở các hông đồi, nước thường tự nhiên phún ra. Dân chúng kê miệng vào đó uống như uống sữa mẹ, nên nơi đó gọi là ĐĐák Tô, tức Nước Vú.
Và cũng nên biết rằng trong ngôn ngữ Mường, những chữ Dâu, Vu, Vú gì cũng đều nói Tô hết, thí dụ : Lá dâu họ nói là Lá Tô, Vú cũng là Tô.
Chúng tôi tin rằng Đắk Tô và Đắk Sút là địa danh Khả, vì năm 1948, chúng tôi lên Kontum thì nhận thấy điều nầy. Người Thượng ở đó còn giữ địa danh cổ Đắk Sút, nhưng chỉ Mật ong, thì họ nói là Đak ung, tức họ đã bước từ Suk sang Ung (theo Việt), còn Khả thì không.
Ở chương ngôn ngữ, chúng tôi đã cho thấy rằng danh từ của các thứ dân ở Kontum và Pleiku như Bà Na, Sơ Đăng, v.v. là danh từ Việt cổ nhưng bị pha rất nhiều tiếng Miên vì về sau những nói đó trở thành thuộc địa Cao Miên. Các ông Tây đã sai lầm mà cho rằng người Bà Na, Sơ Đăng là người Miên.
Người Miên chỉ có tới số 5. Số 6 thì họ nói 5 với 1, còn người Bà Na và Sơ Đăng là thuộc địa của họ lại có tới số 10 y như Việt. Thế là dân thống trị kém hơn “Mọi” hay sao?
Ông A. Fraisse lại còn cho biết chi tiết nầy nữa là người Khả và người Sơ Đăng ở Kontum nói chuyện với nhau được, tức họ không xa nhau lắm, cũng như Nam Việt, Bắc Việt vậy thôi.
Mặt khác cổ sử Trung Hoa nói đến nước Đạo Minh ở đó lúc họ chưa nói đến nước Chân Lạp ở đó, mặc dầu đó là địa bàn Chân Lạp về sau. Thế nghĩa là Đạo Minh đã lập quốc rồi còn dân Khơ Me thì chưa di cư đến, chớ không làm sao mà hai dân đều lập quốc tại độc một địa bàn được.
Ta lại có truyền thuyết về đèo Mụ Già kể chuyện ngày xưa hai nước Lạc tranh chấp, rốt cuộc vua Hùng Vương mở cuộc thi chạy đua và lấy đèo Mụ Già làm biên giới.
Hai nước hòa giải theo lối đó hẳn phải là hai nước anh em và ta có thể ức đoán rằng đó là nước Văn Lang và nước Đạo Minh, chớ không phải là nước Chàm như nhiều người tưởng. Với Chàm thì chỉ có đánh để thắng hoặc thua chớ không thể hòa giải như vậy, vả lại đèo Mụ Già không phải là biên giới Bắc Nam mà là biên giới Bắc Tây, ăn khớp với nước Đạo Minh, chớ không ăn khớp với nước Lâm Ấp.
Ta có thể suy đoán rằng cái nước Đạo Minh đó là nước của người Khả Lá Vàng, và nó ăn ra tới Kontum, bằng vào sự sống sót của hai địa danh của tỉnh Kontum, giống hệt địa danh Khả Lá Vàng.
Sau khi đã biết Thượng Việt vì sao phải mất Trung Việt, chạy lên Kontum, ta lại suy đoán rằng có lẽ Mã Lai đợt I đã dựng nước rồi ở Trung Việt, bị Mã Lai đợt II đánh đuổi, thì một mớ chạy lên Cao nguyên qua ngã đèo Mụ Già và qua nẻo Trà My Ngọc Lĩnh rồi lập quốc tại Trung Lào, lập ra nước Đạo Minh. Nhưng rồi Đạo Minh bị diệt, dân chúng bị Chân Lạp bắt làm nô lệ, nhưng Kontum một phần của quốc gia đó thì thoát, vì dân Sơ Đăng ở núi, người Cao Miên thấy rằng đuổi theo nhọc xác lắm, nên để yên họ. Ngày nay tất cả người thiểu số ở vùng đó đều hiểu nhau dễ dàng: Khả, Sơ Đăng, Alak, Nha Hồ Nam, Oy, y hệt như Nam Việt với Bắc Việt. Dân Bà Na cũng cùng chung số phận với Sơ Đăng nhưng không thuộc vào nước trên, vì họ nói khác hơi xa dân kia một tí.
Việc gì xảy ra, khi cấp lãnh đạo chết hết? Ông A. Fraisse cũng đã chu đáo nghĩ đến điều đó. Họ bị Cao Miên bắt làm nô lệ quá nhiều rồi sau đó là Xiêm, Lào, nên họ bị thiểu số trong rừng sâu. Dân của cái làng tạm bợ mà ông A. Fraisse trải qua một đêm ở đó cho biết xưa kia họ đông trên 30 nhưng chết lần, chết mòn hết, nay chỉ còn có 10 người thôi.
Khi cấp lãnh đạo chết hết thì chỉ còn lại chủng Mê-la-nê, không còn biết trồng bắp khi nước lụt, không tìm thực phẩm được nữa. Đó là trường hợp của nhóm Khả Kim Lang, họ đâm ra nói tiếng Việt bậy bạ hết cả, chẳng còn biết là họ dùng ngôn ngữ nào nữa hết. Nhứt là họ cũng không biết cất nhà sàn theo lối người Đông Sơn như các nhà lãnh đạo của họ hiện đang biết cất để trú thân vào mùa mưa lũ. Họ sống y hệt như cầm thú.
Nhưng Khả Lá Vàng là Lạc đợt I hay đợt II? Chúng tôi đã chứng minh rồi là họ thuộc đợt I vì tánh cách Mông Gô Lích, và ta còn tin chắc rằng họ thuộc đợt I vì danh từ Người của họ không phải là ORANG như trong ngôn ngữ Chàm và Nam Dương mà là P’Nùi.
Các nhà khảo tiền sử lại tìm được lưỡi rìu tay cầm từ cánh đồng Chum xuống tới đó, mà vũ khí của đợt II lại chỉ là lưỡi rìu hình chữ nhựt.
Như vậy là đợt I, khi di cư tới thì đã lập ra hai quốc gia ở vùng đó nằm cạnh nhau: Văn Lang và Đạo Minh. Đạo Minh kém hơn, vì địa bàn quá xấu không tiến nhiều được như Văn Lang nên mới bị Khơ Me diệt vào cuối đời Chu. Chúng tôi sẽ đưa ra bằng chứng là Khơ Me chỉ mới tới đó vào cuối đời Chu, đó là chi tiết mà sử Tây và sử Tàu đều không biết.
Khả Lá Vàng là cái khoen nối kết người Điêu Đề của Tống Ngọc với người Mường vì ngôn ngữ Việt của họ gần Mường mà xa ta, và nhờ ngôn ngữ của họ mà ta biết chắc tiếng cổ Lạc Việt đa âm, y như tiếng Mã Lai, hay nói cho đúng ra là nhị âm, vì thật ra tiếng Mã Lai cũng chỉ có nhị âm thôi, tại các ông Tây mắc bệnh viết dính lại rồi cho là đa âm, với lại tại ảnh hưởng Aryen đã đa âm hóa thật sự một mớ danh từ Mã Lai về sau Tây lịch.
*
* *
Chúng tôi đã cho đối chiếu danh từ Khả Lá Vàng ở chương Ngôn Ngữ, nhưng cũng xin cho đối chiếu thêm một số danh từ nữa ở đây giữa Việt, Khả, Mường, để cho thấy Khả cổ hơn Mường.
Việt Nam |
Mường |
Khả |
|
|
|
Người |
Mwai |
P’nùi |
Ăn, Nhắm |
Ang và Lam |
An |
Gạo |
Gạo |
Chiao |
Uống |
Uông |
Ốc |
Nước |
Đák (M = Đ) |
Đá |
Sông |
Không |
Hong |
Con gái |
On kai |
Kuan gôi |
Con trai |
On đưa (con đứa) |
Kuan trui |
Tay |
Tay |
Tai |
Chơn |
Chơn |
Jơng |
Cá |
Ka |
Aka |
Chim |
Chim |
Tiêm |
Bông (Hoa) |
Pong |
Bươ |
Trái |
Plái, Tlái |
Plai |
Trâu (V.N. kim) |
Tlài |
Salu |
Ruồi |
Ruoy |
Ruêi |
Ngày |
Ngay |
Tngai |
Mây |
May |
Muil |
Mưa |
Mừa |
Mừa |
Gió |
Gio |
Yưl |
Sét (sấm sét) |
Set |
Krèd |
Sao |
Jao |
Tua |
Cù lao |
Cu lao |
K’ơlo |
Nó |
No |
Han (Hắn) |
Có |
Ko |
Kớt |
Ngoài |
Ngoai |
Hòi (người Bình Định cũng nói là Hòi) |
Đất |
Tất |
Ptès |
Chó |
Cho |
Acho |
Lá |
La |
Sula |
Con |
Kon, on |
Kuan |
Túp lều tranh |
Túp lều tranh |
Túp |
Bố |
Bô |
Po |
Me |
Me |
Mơ |
Lấy |
Lế |
Lố |
Ngựa |
Ngừa |
Mngu |
Chết |
Kết |
Kết |
Một |
Một |
Môy |
Hai |
Hal |
Hal |
Ba |
Pa |
Pa |
Bốn |
Sươm |
Pon |
Năm |
Kim |
Dam |
Sáu |
Sau |
Prao |
Bảy |
Pai |
Po |
Tám |
Sam |
Than |
Chín |
Chín |
Kin |
Mười |
Mươl |
Muy, Chet (chục) |
Nhà |
Nhà |
H’Nion (xem lại xâu H’niê = H’nia = Nhà |
Việt Nam: Con gái muốn hái ba mươi cái bông
Mường: On kai muôn be (bẻ) pa mươi (ba mươi) pong (bông)
Khả Lá Vàng: Kuan gôi muônh pèsèb (bẻ) pè chêt (ba chục) bươ (bông ).
oOo
Việt Nam: Bà già ăn cá
Mường: Ba gia ăng ka
Khả Lá Vàng: Yơ k’rà an aka.
oOo
Việt Nam: Mẹ giết trâu (V.N. trung cổ Tlu)
Mường: Mê giêt tlu
Khả Lá Vàng: Mơ kchet salu.
oOo
Việt Nam kim: Chim ăn trái, ăn lá
Việt Nam trung cổ: Chim ăn tlái, ăn lá
Mường: Sim ăng tlái, ăng la
Khả Lá Vàng: Tiem an plái an sula.
oOo
Việt Nam: Bọn hắn chết
Mường: Bọn hán chêt
Khả Lá Vàng: K’pang hán kèt
oOo
Việt Nam: Một con trai ba ngày tới
Mường: Một on đứa pa ngai tơi.
Khả Lá Vàng: Muôi kuan trùi pè t’ngai tơl
oOo
Việt Nam: Ngựa về trong chòi
Khả Lá Vàng: M'ngu wir ho túp (Túp lều tranh).
oOo
Việt Nam: Cơm như vàng ròng
Mường: Kơm như yang rong
Khả Lá Vàng: Tiao (gạo) mui yêng rớp
Việt Nam |
Khả |
|
|
Rét |
Dèsh |
Rất nhiều |
Dư |
Bèn |
Bènh |
Nam Việt: Và (tức nó, đứa) |
Rà |
Ngực |
K’rưk |
Bàn chơn |
Pang jơng |
Hông |
Nog |
Mũi |
Mu |
Môi |
Bươ (xin xem lại xâu chuổi: Bô, Buôi, B’bôi, Môi) |
Óc |
H’tóc |
Xương |
K’tương |
Lời |
Trrôi |
Cười |
Kat |
Hửi (Ngửi) |
Hứt |
Khạc |
K’hé |
Nghe |
Sẹ |
Cạp |
Kap |
Chính |
Chat |
Trẻ |
Plở |
Già |
Krà |
Gù |
Gô |
Lé mắt (Lác mắt) |
Mat nhè |
Ngồi |
Ngo |
Muốn |
Muônh |
Nam Việt: Vầy nè (Thế nầy) |
Yang nè |
Vàng |
Yêng |
Bạc |
Brak |
Sải (bề dài của 2 tay dang ra) |
Lài |
Ngày nay |
T’ngay nè |
Hóc (Xó) |
Hôi |
Con nhím |
Nhiêm |
Heo cúi |
Kon Kui, Kon Kur |
Bắn |
Pénh |
Cành |
Kừng |
Trăng |
Trênh |
Chim cu |
Tiêm Kur |
Bướm |
Bùl |
Nhện |
Chuênh |
Việc đối chiếu Va của Nam Kỳ với Rà của Khả Lá Vàng, cho thấy rằng Bắc Việt đã mất ngôn ngữ rất nhiều, và Nam không có sáng tác danh từ đâu. Quả thật thế, Khả, nếu có giống ai thì là giống Bắc chớ không thể giống Nam vì thời xưa làm gì có người Nam. Thế mà Nam có Va, Khả có Rà, tức Bắc đã đánh mất đại danh từ Va.
Bằng chứng họ là Bắc, thấy được trong danh từ Harak của họ và của Sơ Đăng mà miền Bắc biến thành Hắc (Lào), miền Nam nói theo Chàm là Lác.
Nhận xét
Những danh từ Acho là con chó, Aka là con cá, Sula là Lá cho ta thấy rõ tiếng Việt thượng cổ nhị âm, y hệt như Mã Lai ngữ.
Và bằng vào danh từ Tua là ngôi sao, ta biết Khả ngữ là Việt ngữ tối cổ.
Có hai danh từ rất ngộ nghĩnh là đại danh từ ngôi thứ nhứt hồi thượng cổ, là Ai, nơi người Khả chớ không phải là Tôi như ngày nay. Hồi Trung cổ, theo các sách của các cố đạo thì ngôi thứ nhứt cũng không phải là Tôi mà là Min, hình thức ban đầu của Mình. Tiếng ta biến đổi sâu xa mà ta không dè.
Ngôn ngữ đã cho thấy rõ họ là người Việt, cổ hơn người Mường.
Theo ông Bernardie thì người Khả không có man di chút nào hết, bằng chứng là người Lào thích vào xứ Khả để biến thành người Khả. Ông nói các nhà bác học Tây phương bảo rằng người Khả đã bị Lào hóa nhưng ông chỉ thấy người Lào bị Khả hóa mà thôi.
Những người Khả mà chúng tôi tạm gọi là Khả văn minh, tức người Khả không trốn tránh, ra mặt sống như người Ai Lao, thì lanh lợi và giỏi giang hơn người Ai Lao.
Có một điểm ly kỳ là màu da thổ chu của dân Lạc Điêu Đề ấy, mặc dầu ăn khớp với quốc hiệu Xích Quỷ, nhưng không hề thấy cổ thư Trung Hoa nào tả dân nào có màu da thổ chu hết.
Sự dang nắng chỉ làm cho con người đen da, chứ không có tô màu thổ chu lên da họ. Đó là màu tự nhiên của da người Lạc Điêu Đề. Nhưng được tả với sáu biệt sắc, tức khá đầy đủ tại sao Tàu lại bỏ quên biệt sắc thứ bảy là màu da?
Bằng như nói họ không phải là Lạc Việt Điêu Đề thì không thể nói được, các biểu đối chiếu ngôn ngữ đã quá hùng biện.
Chúng tôi xin nhắc lại điều nầy đã nói đến rồi ở một chương trước, là dân thổ trước ở Mỹ Châu mà Âu Mỹ gọi lầm là dân da đỏ, thật ra là da vàng. Họ chỉ trét thổ chu lên mặt vì lý do nào không rõ lắm. Ngày nay Âu Mỹ lại khám phá được rằng họ là Mã Lai di cư sang đó.
Chúng tôi có giả thuyết rằng họ trét thổ chu lên da họ, có lẽ để tưởng niệm tổ tiên họ có màu da đó mà họ để mất đi vì một cuộc hợp chủng nào không rõ. Xin chờ những khám phá mới nữa về dân da đỏ, vì người Mỹ nghiên cứu dân da đỏ chưa xong. Họ nói dân đó tô thổ chu lên da vì lý do vệ sinh và tôn giáo, nhưng không lấy gì làm chắc lắm, trong khi đang có một nhóm Mã Lai có da màu thổ chu thật sự.
B. Người Phu Tơn
Cũng cứ cái ông A. Fraisse đã khám phá ra người Khả Lá Vàng, ông nầy lại còn nghiên cứu một thứ người Việt nữa mà cho tới nay, ai cũng lầm, cho rằng họ là người Thái. Đó là người Phou Theng (đọc là Phu Tơn) vì ai cũng thấy họ nói tiếng Lào. (Xin đừng lầm với người Pou En ở cánh đồng Chum, thuộc chủng Mê-la-nê).
Nhưng ông A. Fraisse lại thấy khác. Người Phu Tơn mang tánh cách Anh-đô-nê lai với chủng Mông Gô Lích chớ không phải Thái, hay cổ Mã Lai thuần chủng, về nhơn thể tính, thì họ gần với Việt Nam ngày nay hơn cả người Mường nữa.
Cả hai, Khả Lá Vàng và Phu Tơn, đều có mang tánh cách Mông Gô Lích, còn người Mường thì không. Thế thì, bằng vào quan sát nhơn thể tính, Khả Lá Vàng và Phu Tơn là Lạc Hoa Bắc, đợt I, còn Mường là Lạc Hoa Nam đợt II, vì khoa đó cho biết bọn đợt II là Mã Lai thuần chủng, không có lai giống với Mông Gô Lích như đợt I.
Họ sống như công dân Ai Lao, tức lập thành làng gần Vientiane chớ không sống hẻo lánh như người Khả Bolovens, hay lẩn trốn như Khả Lá Vàng.
Họ nói tiếng Lào, tuy nhiên có ngôn ngữ riêng của họ, mà đó là Việt ngữ rất cổ. Âm Th của Việt Nam thành âm Kh của người Mường, nhưng nơi người Phu Tơn thì là âm S. Thí dụ:
Sua = thua, tháng = sáng, tha = sa.
Họ nhuộm răng đen, sống giữa các làng Ai Lao làm dân Ai Lao mà đàn ông luôn luôn ăn mặc theo Việt Nam.
Họ thờ thần làng, y như Việt Nam, và không bao giờ hỏa táng như người Lào. Theo truyền thuyết của họ thì xưa kia họ ở trong nước Việt Nam những vùng rừng núi, nhưng họ lại không biết tại sao tổ tiên của họ lại trôi dạt sang xứ Lào.
Về người Khả Lá Vàng, ta còn lập ra được một giả thuyết, chớ như về người Phu Tơn thì thật không thể đoán biết được một cái gì.
Y phục, ngôn ngữ, tục nhuộm răng đen và tục ăn Tết Việt, cho thấy rằng họ là người Việt. Nhưng họ trôi dạt sang Lào vì lý do gì và từ thời nào? Họ không trốn tránh lang thang, không lãnh đạo chủng Mê-la-nê trong rừng sâu, thì hẳn họ không phải ở trong trường hợp của người Khả Lá Vàng.
Vấn đề không có hai chủng tộc nầy cho thấy rằng những Phu Tơn thuần Việt hơn người Mường và người Khả Lá Vàng nhiều lắm. Chi tiết đó, phụ với sự kiện họ nói tiếng Việt kim thời ngày nay, cho thấy rằng họ di cư sang Lào không lâu lắm, có lẽ vào thế kỷ XIII mà chủng Thái xâm lăng Đông Nam Á, trong đó có thượng du Bắc Việt, và có thể họ là người Việt ở thượng du.
Có lẽ trên bước đường chạy loạn, vì lẽ nầy hay lẽ nọ, họ không về được miền xuôi nên chạy sang Lào, nhưng rồi cũng rơi vào tay Thái. Nhưng họ không chạy nữa vì họ thấy rằng dân Thái không dữ tợn mà cũng gần đồng ngôn với Việt, sở dĩ họ xâm lăng Việt chỉ vì bị Trung Hoa rượt sau lưng, họ không có đất dung thân nên cướp càn đất của dân khác, và khi được đủ đất rồi thì để yên mọi dân tộc.
Như vậy thì giả thuyết của chính chúng tôi, cho rằng khi dân Thái xâm lăng thượng du Bắc Việt thì đất đó là đất bị dân Việt bỏ hoang, không còn đúng nữa.
Mà theo suy luận thì cũng không đúng, ở thượng du và trung du, đất Thái ngày nay, có rất nhiều thung lũng rất lành và đó là đất tốt nhứt của người Thái mà họ rất sợ người Việt cướp lấy.
Như vậy thượng du và trung du không phải nơi nào cũng có sơn lam chướng khí, và chỉ có núi non, mà trái lại có những cánh đồng bằng tốt mà dân Việt Nam có thể định cư được.
Thế thì tại sao dân Bắc Việt cứ phải chịu cảnh chen chúc ở châu thổ mà không lên đó? Hẳn là họ có lên đó và họ là người Phu Tơn ngày nay.
(Theo tiếng Lào Phu Tơn có nghĩa là ở trên núi. Nhưng người Phu Tơn lại ở Vientiane, ngay tại kinh đô của họ. Có lẽ đó là họ gọi theo cổ thời và quả thứ người đó từ rừng núi chạy xuống các đồng bằng Ai Lao).
C. Chủng da đen lùn Négrito
Như đã nói, hai chủng làm chủ lãnh thổ Việt Nam trước khi chủng Cổ Mã Lai tới nơi, là chủng da đen lùn Négrito và chủng Mê-la-nê, da đen, nhưng ít lùn.
Chủng Mê-la-nê đã được nói tới khá nhiều rồi. Ở đây, chỉ còn chủng Négrito là cần xét tới.
Chủng Négrito hiện tồn tại ở Việt Nam.
Ở bài nầy, ta sẽ thấy những chủng quá kém cỏi như thế mà cứ còn sống sót được sau năm ngàn năm bị cướp đất thì không làm sao mà chủng của người Lạc Việt lại bị tiêu diệt, còn người Việt Nam là Tàu thuần chủng được cả.
Một ức thuyết khoa học phải cần được nghiền ngẫm rất lâu, xem nó có mâu thuẫn với cái gì không, có thể ổn được hay không, mà muốn nghiền ngẫm cần phải biết thật nhiều, chớ nghiền ngẫm suông thì không được. Và ta cần biết về ba chủng Mê-la-nê, Négrito, Albinos là vì vậy.
Chủng Négrito (da đen lùn) mà người Pháp thường đồn đại là có mặt ở Quảng Bình, khiến cố đạo L. Cadière đã lầm với Khả Lá Vàng, chủng Négrito đó, không bao giờ có ai gặp cả.
Nhưng theo một tài liệu của một người Pháp ở Nam Vang, ông Erie Piétrantoni, ông nầy không phải là nhà khảo cứu, thì người lùn đen có xuất hiện nhiều lần.
Lần thứ nhứt mà người ta thấy một nhóm người đó là năm 1914, nhưng không nhớ tên ai đã thấy và thấy thật đúng tại chỗ nào.
Lần thứ nhì, sau trận bão năm 1939 thì một người lùn đen bị nước nguồn lôi cuốn, trôi dạt xuống tận một huyện ở Quảng Bình và được cho ở đó nhiều tháng rồi y đi mất vào rừng. Ông sứ ở Đồng Hới tên là Pierrot có phúc trình lên thượng cấp câu chuyện đó, nhưng có lẽ bề trên của ông không chú trọng đến học thuật nên cho tờ báo cáo vào kho giấy.
Lần thứ ba, đại úy Rossigeux đi vẽ dư đồ trên núi Phú Ắc, trái núi mà ông A. Fraisse đã gặp người Khả Lá Vàng, đã bị một nhóm người đen lùn vây khốn. Ông ta bắn chỉ thiên một tiếng súng thế là nhóm người ấy chạy mất.
Hang Làng Cườm, vào thế kỷ XX, thiếu mất chủng Négrito nầy vì trong xã hội Khả Lá Vàng không có chủng đó, có lẽ vì họ lạc hậu quá, không thể sống chung với chủng Cổ Mã Lai được như chủng Mê-la-nê. Hồi cổ thời, sở dĩ có sự kiện sống tay ba vì họ đã sống chung với chủng Mê-la-nê thì chủng Cổ Mã Lai tới, chủng Négrito đã trót được chủng Mê-la-nê chấp nhận, nên có cuộc sống tay ba.
Nhưng ông E. Pietrantoni cho biết một chi tiết đáng chú ý là cái nhóm người lùn đen mà đại úy Rossingeux đã gặp, được một người Đồi mồi lãnh đạo. Thì ra chủng da đen lùn cứ bị chủng khác lãnh đạo mãi.
D. Chủng Đồi Mồi
Nhưng người Đồi Mồi là ai? Đồi mồi một cái bịnh, bịnh thiếu sắc tố, nó làm cho tóc và da con người mang màu trắng, một màu trắng bịnh hoạn (albinisme). Nếu đó là cái bịnh thì chủng nào cũng có cả. Nhưng không, sách Tân Đường Thư của Tàu chép rằng dưới thời Vũ Đức nguyên niên và thời Trịnh Quán nguyên niên (618 – 627) nước Phù Nam có sang cống nước Tàu loại người Đồi Mồi.
Tân Đường Thư cho biết rằng người Đồi Mồi sống trong hang núi ở Phù Nam, bốn bề có núi đá dựng, không ai vào đó được hết.
Như vậy thì đó là một chủng tộc rồi, chớ không còn là một vài thường dân mắc bịnh nữa.
Người Pháp dựa theo lời tả địa bàn Đồi Mồi của Tân Đường Thư và cho rằng đó là núi Voi ở Cao Miên nay.
Thì ra chủng Đồi Mồi xưa cũng vẫn tồn tại. Một chủng như đã nói, tồn tại lâu dài không thể tưởng tượng được, đó là những chủng kém cỏi. Ai bảo dân tộc Lạc Việt bị diệt chủng là không biết gì hết về sự tồn tại của chủng Négrito ở Nam Ấn và ở Lào, và sự tồn tại của chủng Đồi Mồi.
Người Tàu không có chánh sách diệt chủng nơi xứ của dân Lạc Việt, mà nếu có cũng không làm được. Như thế thì dân Lạc Việt đồng bào của bà Trưng đi đâu mà để đất lại cho người Tàu thuần chủng rồi người Tàu nầy lại tự xưng là Việt Nam?
Về sử học cứ tự do xây giả thuyết, nhưng giả thuyết nào có sai cũng còn hữu lý đôi chút, chỉ có giả thuyết Nguyễn Phương là ngoài sự hữu lý.
Họ bỏ nước đi sang Lào để thành người Khả chăng? Cũng không, vì nếu thế thì tại sao người Tàu ở lưu vực sông Hồng Hà lại dùng ngôn ngữ của thứ dân chạy trốn đó? Họ hãnh diện về nền văn minh của họ trong đó ngôn ngữ là yếu tố quan trọng thì tại sao họ lại bỏ ngôn ngữ Tàu, dùng ngôn ngữ Lạc Việt?
Còn nói tiếng Việt hiện nay đích thị là tiếng Tàu như giáo sư đại học Nguyễn Phương đã nói thì chương Ngôn ngữ trong sách nầy đã bác bỏ quá dễ dàng và bất kỳ người thường nào cũng bác bỏ được chớ không cần tới một nhà khảo cứu nào hết.
Như đã nói, khoa chủng tộc học đã biết hết các chủng có biệt sắc rõ rệt trên thế giới, nhưng không hề biết chủng Đồi Mồi.
Nhưng vẫn không gọi họ là một chủng cũng không được vì họ không phải là dân mắc bịnh thiếu sắc tố của nhóm nào như Tân Đường Thư đã nói, mà là một dân tộc sống trong nước cổ Phù Nam, dân tộc ấy có nhỏ bao nhiêu, cũng cứ là một dân tộc, vì toàn dân đều như vậy hết.
Nếu cho rằng vì khí hậu và thực phẩm đặc biệt của một địa bàn nhỏ ở Phù Nam làm cho họ mắc bịnh, chớ họ cũng chỉ là một chủng thường nào đó, chớ không có riêng biệt gì hết, nhưng sao địa bàn núi rừng Ai Lao, khác xa với địa bàn Phù Nam, cũng làm cho họ mắc bịnh y hệt như vậy?
Đây là một điểm mù mờ mà khoa chủng tộc học còn chưa triệt thấu! Ngày nào đó, họ dụ dỗ được một người Đồi Mồi về thế giới văn minh để mà nghiên cứu thì chừng ấy mới rõ trắng đen.
Dầu sao vụ Đồi Mồi cũng nói rõ to lên rằng không thể diệt chủng được. Đồi Mồi chưa chắc là một chủng, mà chỉ là một dân tộc nhỏ xíu, thế mà từ đầu Tây lịch đến nay, họ cứ tồn tại, còn người Lạc Việt biến đi đâu?
Tài liệu tham khảo riêng cho chương nầy:
L. Cadière : Géoraphie historique de Quang Binh d’après les annales impériales BEFEO 1902
Les lieux historiques de Quang Binh, BEFEO, 1903
Dr. Huard – E. Saurin Nguyễn X. Nguyên – Nguyễn Văn Đức : État actuel de la crâniologie Indochinose, Hà Nội, 1931
L. Mallernet : Groupes ethniques de l’Indochine, Hà Nội, 1932
J. Cuisinier : Les Mường, Géographie humaine et Sociologie, Paris, 1946
R.A. Stein: Le Linyi Pékin, 1947
Trần Văn Tốt: Introduction à l’art ancien du V.N., Saigon, 1939
J. Bonder de la Bernadie: Dialecte Kha Bolovens, BSEI, 1949
A. Fraisse: Les sauvages de la Nam Om, BSEI, 1949
Chương XI. Phụ lục và kết luận
A. Lạc Lê và Lạc Lồi
Phê bình giáo sư Kim Định, chúng tôi chỉ nói sơ đến Cửu Lê, không hơn gì ông bao nhiêu, tức không cho thấy rõ dân Lê là ai, Cửu Lê là 9 nhóm Mã Lai chớ không có gì lạ, và vì phiên âm sai nên Lai hóa thành Lê. Cổ sử Tàu không có chỉ rõ từng nhóm, nhưng chúng tôi phân biệt được hai chi trong Cửu Lê. Đó là chi Âu mà về sau ta gọi là Thái và chi Lạc. Chi Lạc gồm ba tiểu chi: Lạc bộ Trãi, Lạc bộ Chuy và Lạc bộ Mã.
Nhưng còn một nhóm nữa mà Tàu có nói đến, đó là nhóm Lạc Lê mà chúng tôi đoán rằng hai nhóm Mã Lai lại giống với nhau.
Nhóm Lạc Lê nầy mất hút trong thư tịch Trung Hoa, ta ngỡ nó nhỏ lắm nên tự tiêu diệt, nhưng nên nó tồn tại cho đến ngày nay.
Đó là cái thứ Mã Lai mà chúng ta gọi là Mã Lai đợt II, chủ đất Hoa Nam, chớ không có gì lạ.
Sở dĩ họ cũng có mặt ở Hoa Bắc vì họ là kẻ nhút nhát, 1.000 năm sau khi đại khối Lạc Lê di cư sang Hoa Nam, họ cứ ở lại đất tổ là chơn núi HiMalaya, nhưng rốt cuộc họ cũng tháp tùng với Lạc để di cư tới Hoa Bắc.
Toàn thể dân Việt ở Hoa Nam đời nhà Hạ, đều là người Lạc Lê nầy, nhưng Tàu không biết, gọi họ là Việt. Họ di cư sang Hoa Nam trước khi Cửu Lê sang Hoa Bắc đến một ngàn năm, tức đồng thời với thứ Mã Lai đi sang chiếm Ấn Độ của thổ trước da đen.
Chúng tôi có chứng tích gì hay không để nói như vậy? Có.
1. Bằng vào những danh từ hiếm hoi lượm được trong sách đời Chu phiên âm ngôn ngữ của Việt Hoa Nam, ta thấy đó là danh từ của Mã Lai Nam Dương ngày nay.
2. Danh từ của Mã Lai Nam Dương ngày nay giống hệt danh từ của thổ trước Hải Nam chưa bị Hoa hóa mà Tàu gọi là Lê.
3. Vậy Lê Hải Nam và Mã Lai Nam Dương là Lê. Nhưng chưa chắc đã là Lê vì chúng tôi sẽ chứng minh rằng họ là Lạc Lê.
Muốn chứng minh rằng thứ dân mà Tàu gọi là Lê, đích thị là Lạc Lê, ta cần biết cổ sử Chiêm Thành đúng hơn sách mà các ông Tây đã viết.
Hai ông Bố Thuận và Nguyễn Khắc Ngữ đã viết Thượng cổ sử Chiêm Thành (Khảo cổ tập san, số 5, 1962).
Chúng tôi thấy là cổ sử Chiêm Thành mà còn chưa được viết đúng, tức những gì xảy ra từ năm 1 S.K. cho đến hai trăm năm về sau đó, ta còn chưa biết đích xác, thì làm thế nào để nói về thời thượng cổ ở đó được như ở cổ Việt Nam mà lưỡi rìu tay cầm đã tìm thấy nằm chung với bao nhiêu vật nhân chứng khác.
Cứ bằng vào danh từ Người của Chàm là ORANG ta phải hiểu rằng họ thuộc nhóm Mã Lai di cư đợt sau từ Hoa Nam, chớ không thuộc đợt Mã Lai đợt đầu di cư từ Hoa Bắc như dân Việt Nam. Người Nam Dương là Mã Lai đợt II, theo tiền sử học, và họ nói như vậy, tức nói Orang chớ không nói Người. Xét tổng quát về ngôn ngữ Chàm thì có 70 phần trăm danh từ đợt II và 30 phần trăm danh từ đợt I.
Như thế thì Chiêm Thành không có thượng cổ sử ở Đông Nam Á được vì Mã Lai đợt II chỉ mới di cư đến Đông Nam Á 500 năm trước Tây lịch mà thôi, khác hẳn với Mã Lai đợt I đã di cư đến Đông Nam Á cách đây 5.000 năm.
Họ không có thượng cổ sử ở Đông Nam Á, mà cổ sử của họ, được các ông Tây viết, thì rõ ra, không đúng. Khi những quyển sử Chiêm Thành được viết thì chưa có ai biết rằng có hai đợt Mã Lai di cư tới Đông Nam Á cách nhau 2.500 năm hết, mà cũng chưa ai dè rằng có Mã Lai đợt I, ngôn ngữ hơi khác Mã Lai đợt II, một đàng nói Chơn, một đàng nói Cẳng, một đàng nói Người, một đàng nói Orang.
Cổ sử Chàm ở giai đoạn nầy không được các sử gia Pháp, Việt diễn dịch quy nạp các sự kiện để viết cho thật đúng, nên còn mù mờ. Nhưng có thể viết đúng được nếu sử dụng tài liệu Tàu một cách khoa học, có dựa vào sách nhà Hán mới không sai lạc, chớ các sách Đường, Tống thì viết loạn hết, cho bất cứ nước nào.
Ta nên ghi những điều căn bản sau đây rồi không được nghe những sách viết tầm ruồng họ nói khác đi:
1) Người Chàm dựng lên nước Lâm Ấp ngay trong lòng thuộc địa Tàu, tại Tượng Lâm là cái huyện cuối cùng của Nhựt Nam thuở đó không phải là dân ta, như ai cũng tưởng, vì qua lịch sử của nhơn loại, không thế nào mà dân tộc A, dựng nước được trong đất mà dân tộc B là công dân. Chi tiết đó rất là quan trọng, nhưng không thấy cuốn sử nào chú ý đến, trái lại các sử gia cứ cho rằng dân của quân Nhựt Nam là dân ta. Một dân tộc có thể cướp hết cả nước của một dân tộc khác, bằng cách xua quân đi xâm lăng, những kẻ dựng nước Lâm Ấp chỉ dùng lực lượng bổn xứ là dân chúng, mà người Chàm thì không làm sao mà lãnh đạo người Việt được trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm như vậy, thế thì cái lực lượng đó phải là dân chúng người Chàm.
Tới đây thì vấn đề dân cư ở Nhựt Nam đã rõ, nó ngược hẳn với quan niệm của các sử gia Pháp, Việt từ xưa đến nay.
2) Vấn đề dân cư của Cửu Chân cũng sẽ được biết rõ, khi ta nhìn vào các sự kiện khác. Thật thế, sử Tàu chép rằng dân Giao Chỉ đã giỏi làm ruộng, có dư thóc để bán cho Hợp Phố và Cửu Chân, dân Hợp Phố chỉ mò trai chứ không trồng trọt, còn dân Cửu Chân thì cứ săn hái, câu kéo. Nhưng ta phải hiểu sử Tàu khác đi một chút là dân Hợp Phố và Cửu Chân đã biết làm lúa rẫy. Lối hiểu nầy hoàn toàn do suy luận dựa theo điều mắt thấy tai nghe ngày nay: là dân săn hái không biết ăn cơm, không cần cơm, như thế nếu dân Cửu Chân là dân săn hái, họ không mua gạo của Giao Chỉ làm gì hết. Hiện nay các bộ lạc lạc hậu trên thế giới đều thế cả, dân săn hái không biết ăn thứ mễ cốc nào cả. Trái lại dân hỏa canh thì vì kém cỏi, sản xuất thiếu nên luôn luôn mua mễ cốc của dân định canh vào mùa giáp hạt, trên Cao nguyên hiện nay như thế đó. Lối hiểu của chúng tôi không có gượng ép chút nào hết, mặc dầu chỉ hiểu bằng suy luận chớ không phải nhờ tài liệu vì tài liệu Tàu nói khác. Nhưng tài liệu đó vô lý thì ta phải hiểu khác đi cho đúng sự thật, nó vô lý ở cái điểm dân săn hái lại biết ăn gạo, cần mua thóc.
Hiểu như vậy rồi ta thấy có một sự chênh lệch lớn lao, về văn hóa giữa Giao Chỉ và Cửu Chân. Mà không thế nào mà vua Hùng Vương lại để hai vùng của một nước chênh lệch nhau đến như thế, nếu dân Cửu Chân không phải là dân khác và đất không phải là đất của dân khác.
Ta có bằng chứng rằng đó là thuộc địa của vua Hùng Vương mà nhà vua chưa kịp khai hóa, rồi mất nước trong tay An Dương Vương, Triệu Đà, Lộ Bác Đức.
Truyền thuyết ta có kể chuyện vua Hùng Vương đi đánh giặc Chàm, thắng trận rồi, về ngang qua núi Khả Lao ở Thanh Hóa có xây đền thờ thần trống đồng cổ mà cái trống thờ đã được ông V. Goloubew bắt gặp tại bến đò An Định.
Cuộc chiến tranh của vua Hùng Vương còn một chứng tích nữa. Đó là danh xưng Cổ chiến loan trong đất Cửu Chân, do Mã Viện ghi lại, theo sự nghe thấy của họ Mã.
Đó là lần đầu tiên mà quân Tàu đi xuống khỏi Cư Phong, thì thử hỏi ai đánh với ai mà nơi đó được xem là cổ chiến trường, nếu không phải là Hùng Vương đánh với Chàm.
3) Thế thì ta biết chắc hai điều, dân ở hai nơi Nhựt Nam và Cửu Chân đều không phải là dân ta, và là thuộc địa mới của vua Hùng, ông vua cuối cùng hay ông nào chưa biết đích xác, nhưng không lâu đời lắm, vì ta chưa kịp khai hóa vùng đó thì bị mất nước. Điều thứ ba, ta cũng có thể biết chắc được là Cửu Chân và Nhựt Nam là một.
Đây cũng là một điểm sử đã bị ta hiểu sai. Toàn thể sử gia ta đều hiểu rằng hai nơi đó khác nhau.
Tập san Sử Địa số 19-20 có trích của Đào Duy Anh một số dư đồ và chua rằng (không biết chua theo họ Đào hay tự ý chua): “Nước Âu Lạc chỉ có hai quận: Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhà Hán đã lấy thêm đất phía Nam để đặt thành quận Nhựt Nam”.
Sự thật thì Lộ Bác Đức không hề đánh lấy thêm đất nào cả. Ta nên nhớ điều nầy là sử Tàu chép rõ rằng Lộ Bác Đức sợ viêm nhiệt, không dám ra khỏi thành Phiên Ngung, thế mà khi thắng Triệu Đà rồi, lão ta không có đánh ai nữa hết mà bỗng dưng lão ta có thêm đất để đặt tên là quận Nhựt Nam.
Không có ai chú ý đến điều kỳ lạ đó cả. Và khi ta nhìn kỹ vào đó, ta sẽ biết rằng họ chỉ chia quận Cửu Chân quá dài ra thành hai quận mà thôi, chớ không có gì lạ.
4) Ta biết chắc rằng dân ở Cửu Chân, Nhựt Nam không phải là dân ta, nhưng họ là dân nào? Truyền thuyết ta đã bị kể sai. Danh xưng Chàm, mãi cho đến thế kỷ thứ 9 sau Tây lịch mới xuất hiện, thì làm gì vua Hùng Vương lại đánh giặc Chàm được. Nhưng có người kể đúng. Họ kể rằng vua Hùng Vương đi đánh giặc LỒI. Danh xưng Lồi, được cố đạo L. Cadière bắt gặp trong một truyền thuyết thứ nhì ở Quảng Bình, truyền thuyết ấy kể rõ hơn nữa. Đó là giặc Lạc Lồi. Theo luật lười biếng, ta đã đánh mất tiếng Lạc trong danh xưng đó. Cửu Chân, Nhựt Nam gì cũng là của dân Lạc Lồi cả, mà Lạc Lồi là ai. Đó là danh xưng tối cổ của người Chàm. Tất cả các phế thành Chàm miền Trung đều được sách vở chữ nho ta gọi là Lỗi thành, dân chúng gọi là thành Lồi (chữ Lồi viết ra Hán không được nên các nhà nho biến nó thành Lỗi).
Dân miền Trung mắng con: “Mày ăn mặn như Lồi”. Dân miền Nam ở nông thôn, hà tiện xà bông, dùng cát Lồi, là cát mua của người Chàm Ninh Thuận, trong đó có chất bồ tạt. Vậy Lạc Lồi = Chàm.
Biên giới cực Bắc của Lạc Lồi là sông Mã, là sông có vàng.
Chàm: |
Mah |
= Vàng
|
Thượng: |
Mah |
|
Mã Lai: |
Êmas |
Trên đây là bốn điểm sử lớn chưa bao giờ được viết rõ về Cửu Chân và Nhựt Nam. Nó thuộc vào cổ sử Chiêm Thành đấy vì Chàm là Lạc Lồi, tức Mã Lai đợt II.
5) Vậy Mã Lai đợt II di cư xuống, một nhóm ở trọ với vua Hùng Vương, nhóm đó là tổ tiên của người Mường. Nhóm khác chiếm đất ở ngoài Lạc Việt của vua Hùng Vương, từ sông Mã cho đến mũi Cà Mau và cho đến xứ Cao Miên nay, tổ quốc của dân Phù Nam vì Phù Nam cũng là Mã Lai đợt II, như ta sẽ thấy. Nhóm sau lập quốc riêng rẽ. Có đến hai nước: nước Tây Đồ ở Trung Việt và nước Phù Nam. Hoặc nhóm sau thật ra là hai nhóm riêng rẽ, mặc dầu cũng cùng đợt di cư với nhau. Nhưng ta nên kể như họ là hai nhóm, vì ta nghiên cứu cổ sử Chiêm Thành chớ không phải cổ sử Phù Nam.
Ở đây xin trở về các chương trước để xét lại coi Lạc Lê Hoa Bắc là thứ người ra sao mà chúng tôi chỉ nói mù mờ về họ mà thôi.
Chúng tôi biết được họ là ai, hiện tồn tại hay không, nhưng không thể nói ra ở các chương về cổ dân Hoa Bắc, sợ phải nói quá dài, làm loãng mất nội dung chánh của các chương đó, và đợi tới bây giờ mới nghiên cứu lại họ được vì đã đến lúc phải nói tới họ.
Đó là một nhóm Mã Lai lai căn lớn nhưng không phải là lai căn giữa hai chủng tộc khác nhau, mà lai căn nội bộ, y như ở Cao nguyên ngày nay mà nhóm Cổ Mã Lai nầy lai với nhóm Cổ Mã Lai khác mà chúng tôi đã ám chỉ ở chương I. Mà họ cũng không lai căn tại Hoa Bắc, mà lai căn tại đất tổ là HiMalaya.
Toàn thể dân Việt ở Hoa Nam đều là thứ dân đó, bằng vào ngôn ngữ của Việt Hoa Nam mà ta biết lõm bõm qua lối một trăm danh từ Mã Lai còn sống sót cho đến ngày nay ở Triết Giang, ở Phúc Kiến, ở Quảng Đông, và vài danh từ Việt Hoa Nam được Tàu phiên âm vào đời Chu, mà ta lượm lặt được trong sách vở.
Đó là tiếng Mã Lai ở Nam Dương ngày nay. Nhưng dân Mã Lai Nam Dương bị chúng tôi gọi là Mã Lai đợt II, còn Lạc Lê thì lại bị gọi là Mã Lai đợt I, vì chúng tôi gọi theo lịch trình di cư chớ không gọi theo dân tộc tính. Nhưng rốt cuộc phải nói rõ Lạc Lê là ai, khi mà chúng tôi biết được họ là ai.
Lạc Lê là nhóm lai căn đó. Họ đã di cư vào Hoa Nam, y hệt như Hoa chủng là một chủng lai căn, phải xâm lăng Hoa Bắc, vì chủng mẹ không đủ đất nuôi dân lai căn.
Họ di cư từ HiMalaya sang Hoa Nam có lẽ cùng lúc với bọn Dravidien di cư sang Ấn Độ, tức 1.000 năm trước khi Cửu Lê di cư đi Hoa Bắc. Nhưng họ không đi hết trong nhóm Cửu Lê Hoa Bắc, mới có một nhóm Lạc Lê nhỏ, đi sau nhóm đầu.
Bây giờ, chúng tôi xin nối kết Lạc Lê và Lạc Lồi. Lạc Lê là tiếng Tàu đọc theo nhà nho ta, còn Lạc Lồi là tiếng Việt thuần túy. Lạc Lê Quan Thoại đọc là Ló Lỉa, có lẽ chỉ là nhại giọng đọc của ta, chớ không có gì lạ. Nhưng đó chỉ là đoán mò. Phải có chứng tích cụ thể, rõ ràng mới đúng với phương pháp làm việc của chúng tôi.
Và đây là dịp độc nhứt mà ta biết Lê là gì, Lạc Lê là gì, chớ cả giáo sư Kim Định, lẫn chúng tôi đều chỉ nói mơ hồ về Cửu Lê mà chưa ai cho thấy rõ họ là ai. Chúng tôi có trình diện thật đích xác hai nhóm trong Cửu Lê đó là Lạc bộ Trãi và Lạc bộ Chuy. Nhưng Lê và Lạc Lê thì chưa được tiết lộ họ là ai.
Chúng tôi đã nói rằng Lê chỉ là phiên âm sai của (Mã) Lai vào buổi ban đầu, trong đó có Âu, có Lạc, có Khuyển Nhung. Nhưng chúng tôi biết không đủ 9 thứ, và xin trình diện thứ nào mà chúng tôi biết rõ. Và đây là nhóm Lê thứ ba trong Cửu Lê, nhóm Lạc Lê.
Thấy hai danh xưng hơi giống nhau rồi lôi kéo họ vào nhau là liều lĩnh nhưng chúng tôi nói Lạc Lê = Lạc Lồi, không phải vì thấy hai danh xưng ấy hơi giống nhau, mà bằng vào sử liệu và ngôn ngữ.
Quả thật thế, Hán thư gọi dân Hải Nam là dân Lạc Việt, y như gọi dân ta, còn người Tàu đời nay thì gọi dân Hải Nam còn ở trên núi, chưa bị Hoa hóa là dân Lê. Như vậy có phải chăng Lê = Lạc Việt? Không sao bác cái đẳng thức đó được hết, mặc dầu H. Maspéro bảo rằng dân Hải Nam là Thái đen. H. Maspéro đã nói càn. Chúng tôi có học ngôn ngữ của họ và thấy rằng họ nói tiếng Mã Lai Nam Dương. Như vậy họ không bao giờ là Thái đen cả.
Nhưng Hán thư cũng không đúng vì Lạc Việt nói một thứ tiếng mà trong đó chỉ có 30, hoặc 40 phần trăm Mã Lai Nam Dương chớ không phải 100 phần trăm như Lê Hải Nam. Như thế thì Lê Hải Nam chỉ có thể là Lạc Lê mà thôi, vì là Lạc Lê nên mới dễ bị Hán thư lầm là Lạc Việt.
Mặt khác, người Chàm, tức người Lạc Lồi, cũng ăn nói y hệt như người Hải Nam. Hơn thế trong Thủy Kinh Chú, Lệ Đạo Nguyên bảo rằng dân Hải Nam giống dân ở Nhựt Nam mà chúng tôi đã chứng minh rằng dân Nhựt Nam là Lạc Lồi chớ không phải Lạc Việt.
Như vậy thì dân Lê ở Hải Nam là dân Lạc Lê rõ rệt, mà cái dân Lạc Lê đó lại nói giống hệt dân Nam Dương thế thì Lạc Lồi là Mã Lai đợt II về mặt dân tộc tính. Chúng tôi nhấn mạnh về điểm dân tộc tính, để ta nhớ mà phân biệt rằng trong cuộc di cư đợt I cũng có Lạc Lê nữa, nên phải phân biệt Lạc Lê với dân khác bằng ngôn ngữ chớ không bằng các đợt di cư được.
Ta có thể nói rằng toàn thể dân Hoa Nam mà Tàu gọi là Việt, dân Sở, dân Ngô, dân U Việt, dân Mân Việt, đều là Lạc Lê, bằng vào ngôn ngữ và tiền sử học. Lạc Lê là Lạc bộ Mã. Tiền sử học cho biết rằng người Nam Dương là Mã Lai di cư từ Hoa Nam, còn ngôn ngữ Mân Việt, Hải Nam đều cho thấy là giống nhau hết thảy.
Mân Việt: |
Náng |
= Người |
Hải Nam: |
Nàng |
|
Chàm: |
Orang |
|
Nam Dương: |
Orang |
Sở ngữ phiên âm: Nậu Ô Đồ
Quan Thoại đọc là: Nù Ú Tù
Nam Dương đọc là: Mâu Sú Sú
Cả ba đều có nghĩa là sữa cọp, vú cọp.
Bọn Lạc Lê Hoa Bắc là một nhóm lai căn nhỏ xíu, theo chơn Xy Vưu để di cư sang Hoa Bắc sau khối Lạc Lê lớn đã di cư sang Hoa Nam. Vì nhỏ xíu nên Lạc Lê Hoa Bắc bị chìm mất luôn.
Lạc Lê Hoa Nam mà ta gọi là Lạc Lồi di cư đến Trung Việt đánh đuổi bọn Mã Lai đợt I ở đó (Cổ vật Tam Tòa cho biết như vậy) để cướp đất. Bọn Mã Lai đợt I ở đó chạy lên Cao nguyên (cổ vật Darlac cho biết như vậy) qua ngã Trà My, Ngọc Lĩnh, qua ngã Ninh Hòa, Cheo Reo, và biến thành Thượng Việt ngày nay. Từ Quảng Nam trở xuống, đất tốt hơn, nên Lạc Lồi dựng nước trước, đó là nước Tây Đồ. Từ Thừa Thiên lên tới sông Mã, vì đất đai và khí hậu xấu, dân không tiến, mà cũng không bị bọn ở dưới thống nhứt vì đèo Hải Vân ngăn trở, nên bị vua Hùng Vương thống nhứt. Ông R. A. Stein đã đối chiếu lời mô tả của Thủy Kinh Chú với cảnh vật hiện nay, và thấy quận Tượng Lâm chỉ ăn khớp với Thừa Thiên mà không ăn khớp với bất kỳ nơi nào cả, và ta kết luận được rằng Tây Đồ ở khít ranh với Lâm Ấp phải là Quảng Nam, còn Lâm Ấp phải là Thừa Thiên.
Hiện nay người Chàm còn bị ta gọi là người Lồi, sau khi ta đánh mất tiếng Lạc.
Tóm lại, Lạc Lê = Việt Hoa Nam = Lê Hải Nam = Lạc Lồi = Mã Lai Nam Dương
Cổ sử Chiêm Thành sẽ được chúng tôi viết kỹ hơn ở một nơi khác. Và họ không hề có thượng cổ sử ở Đông Nam Á.
B. Bí mật của Mã Viện
Trước khi nói đến bí mật của hai ngàn năm trước, ta nên xét lại một đoạn sử của ta, mà chúng tôi đã có nói qua rồi ở chương Lạc Lồi.
Đó là quận Nhựt Nam. Sử Tàu chép rằng nhà Hán gởi quân xuống diệt nước Nam Việt của Triệu Đà. Như ta đã thấy, nước Nam Việt gồm một phần của nước Tây Âu là quận Nam Hải tức tỉnh Quảng Đông nay và Âu Lạc tức Văn Lang. Những lầm lẫn về Tượng Quận, Tây Âu, Nam Việt, đã được giải rõ ở chương II và III.
Âu Lạc có một thuộc địa chưa lâu đời do vua Hùng Vương cướp của một thứ dân tên là Lạc Lồi. Khi lọt vào tay Triệu Đà thì họ Triệu chia hai Âu Lạc cho 2 điền sứ cai trị, một tại Giao Chỉ (Cổ Bắc Việt) và một tại Cửu Chân là nơi nào thì đã thấy. Đó là Cửu Chân + Nhựt Nam.
Lộ Bác Đức chỉ đánh chiếm đất của Triệu Đà mà thôi và không hề có đánh chiếm thêm đất nào nữa cả, thế mà bỗng dưng nhà Hán lại có thêm một quận thứ ba ở dưới Cửu Chân, đặt tên là quận Nhựt Nam.
Sau đó hai bà Trưng nổi loạn để thu hồi độc lập và Mã Viện được gởi xuống nước ta.
Họ Mã diệt hai bà ở Giao Chỉ rồi đuổi theo tàn quân của hai bà và diệt tàn quân đó tại huyện Cư Phong (Thanh Hóa). Thế là xong.
Nhưng Hậu Hán Thư lại có hai câu nữa rất là mâu thuẫn với nhau:
1) Các nhóm rợ phía dưới nữa, tự nhiên tan rã.
2) Mã Viện đã đưa quân xuống cực Nam của Nhựt Nam để dẹp loạn mà rợ Tây Đồ Di gây ra.
Rợ ở dưới tự nhiên tan rã, thế sao còn rợ Tây Đồ Di nào mà còn phải đi đánh dẹp nữa?
Thế thì ta phải hiểu rằng có hai thứ người nổi loạn, đó là dân ở cực Nam Nhựt Nam. Bọn tự nhiên tan rã là bọn đó. Nhưng bọn Tây Đồ Di thì không có nổi loạn gì hết, bởi không hề có sách nào nói Mã Viện thắng hay bại.
Nếu Mã Viện thắng thì Tàu không khỏi vui mừng, chụp lấy để phô trương oai đức của họ. Bằng như Mã Viện bại, thì y đã không về nước được đâu, vì nhiều trăm năm sau Mã Viện, mà tướng Tàu được đưa xuống đó đánh Lâm Ấp, tuy có thắng, cũng chết đường chết sá hết ráo.
Sử Tàu rất mù mờ ở nhiều điểm, mà người ta đành phải bỏ trôi luôn. Nhưng ở đây thì ta không bỏ trôi, vì ta biết được cái gì. Cái đó là một bí mật quốc gia của Trung Hoa, không dính líu đến sử ta, nên chúng tôi để vào phần phụ lục nầy.
Bí mật đó là cuộc tiếp xúc của Mã Viện với nước Tây Đồ Di, tiếp xúc chớ không có đánh nhau, một là vì dân đó không có nổi loạn, hai là vì lính Tàu không chinh chiến lâu ngày được ở vùng đó vì bất phục thủy thổ, có chiến thắng cũng không giữ được.
Ta nên nhớ rằng vào thời đó, nước Lâm Ấp chưa thành lập mà còn là một huyện của Tàu và Tây Đồ Di phải ở dưới huyện Lâm Ấp.
Ở Chương Lạc Lồi chúng tôi đã trình bày Tây Đồ Di là ai rồi. Có vài quyển sử Tàu đời sau, viết bướng rằng nước Tây Đồ Di là một tiểu quốc được thành lập do lính của Mã Viện để lại để giữ trụ đồng.
Ấy, thế là lại mâu thuẫn nữa. Nếu thế thì vào năm Mã Viện đến đó, phải chưa có nước Tây Đồ Di, thì Mã Viện đánh dẹp nước Tây Đồ Di nào kia chớ?
Nhưng đó là sử đời sau chuyên môn viết bậy bạ, ta cứ nên lấy Hậu Hán Thư làm căn bản, và nước Tây Đồ Di có thật, có trước Mã Viện, và chúng tôi đã cho biết họ là ai ở chương Lạc Lồi.
Lại cũng nên nhắc đến cực Nam của quận Nhựt Nam là ở đâu và nước Tây Đồ Di ở đâu.
Cực Nam của quận Nhựt Nam là huyện Tượng Lâm, nơi mà người Chàm lập ra nước thứ nhì (chớ không phải nước thứ nhứt) của họ và lấy tên là Lâm Ấp.
Nhưng ranh giới Tượng Lâm là ở đâu? Theo L. Aurousseau dựa theo các cuốn sử sai của đời sau, cho rằng là Phú Yên, còn theo R. A. Stein thì là Thừa Thiên, không kể cái thuyết huyền hoặc của nhà nho Nguyễn Siêu, ông ấy cho rằng Nhựt Nam là nước Phù Nam.
Chúng tôi tương đối tin R. A. Stein hơn hết. Trong một số tạp chí Hán Học, xuất bản tại Bắc Kinh năm 1947, dầy gần 500 trang mà chỉ đăng có một bài, bài ấy là của ông R. A. Stein, nghiên cứu về huyện Tượng Lâm đó.
Đó là một quyển sách đồ sộ rồi chớ không còn là một bài báo nữa và R. A. Stein đã làm việc rất tỉ mỉ và cẩn thận. Tài liệu chủ lực của R. A. Stein là quyển Thủy Kinh Chú, mà ta cũng nên biết sơ qua về soạn giả để có thể tin được. Soạn giả Thủy Kinh Chú là Lệ Đạo Nguyên.
Lệ Đạo Nguyên không phải là một tay vừa. Ông ta là một viên Thái Thú Giao Chỉ đấy. Sở dĩ sử Tàu về Giao Chỉ không có nói đến ông ta vì vào thời ông ta cai trị, không có cuộc nổi loạn nào hết. Mọi việc đều trôi chảy.
Muốn biết rõ về địa lý của Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhựt Nam, không có sách nào bằng quyển Thủy Kinh Chú, và muốn biết những bí mật về những gì xảy ra ở vùng đó, cũng không có sách nào bằng Thủy Kinh Chú.
R. A. Stein nhận diện được các sông núi đầm lầy mà Lệ Đạo Nguyên tả, xưa mang tên khác nay, nhưng vật chưa đổi sao chưa dời, nhờ thế mà R. A. Stein biết được nơi Khu Liên nổi loạn dựng nước Lâm Ấp, nơi đó là Thừa Thiên.
Các sử gia ta cho là ở Quảng Bình, Quảng Trị thì sai, vì khung cảnh Quảng Bình, Quảng Trị không ăn khớp với lời tả của Thủy Kinh Chú, được R. A. Stein kiểm soát lại cũng không ăn khớp với vị trí Quảng Bình, Quảng Trị.
Nhưng các sử gia lầm vì về sau, quả cực Nam của Nhựt Nam là dãy núi Hoành Sơn, sự kiện ấy tương đối mới hơn nên được ghi chép kỹ nên dễ thấy.
Sự ngộ nhận ấy đã xảy ra vì, như đã nói, người Chàm Bắc tiến để chiếm lại đất cũ là Nhựt Nam và Cửu Chân và có thành công cho tới dãy Hoành Sơn mà họ làm chủ rất lâu trong thời cổ sử.
Không thế nào mà Chàm lại dựng nước ở Quảng Bình, Quảng Trị vì không ai lại dựng nước khít cạnh một địch thủ rất dữ. Quảng Bình, Quảng Trị chỉ là biên khu của nước Lâm Ấp chớ không là trung ương của Lâm Ấp. Nơi Khu Liên dựng nước phải ở dưới xa hơn nhiều.
Nhưng nãy giờ ta nói chuyện từ năm 192 S.K. trở về sau, chuyện dân Khu Liên, Mã Lai đợt II, dựng nước trong lòng đất của dân Lạc Lồi, Mã Lai đợt I.
Hai trăm năm sau Mã Viện, người Tàu đưa quân xuống Tượng Lâm để đánh Lâm Ấp, quân thắng trận trở về chết hết 2/3 còn tướng thì chết dọc đường cũng cứ vì sơn lam chướng khí. Vậy nếu không có gì quan trọng hẳn Mã Viện không dại mà tiến quân xuống nữa.
Mã Viện đã phải hành quân cực nhọc đến thế, nhưng Hậu Hán Thư chỉ bố thí cho cuộc viễn chinh đó có sáu tiếng ngắn. Đó lại là một bí mật nữa mà ta cần khám phá và chúng tôi sẽ khám phá xem tại sao Hậu Hán Thư lại nói úp mở về cuộc viễn chinh đó.
Các ông Tây, viết sử cho người Chàm bằng cách cóp sử Tàu nhưng chỉ cóp từ chuyện Lâm Ấp, mà bỏ sót chuyện 150 năm về trước là chuyện Mã Viện viễn chinh khó nhọc để dẹp một thứ giặc bí mật là Tây Đồ Di.
Ở đây, hình như không phải là các ông Tây không có đọc kỹ Hậu Hán Thư nhưng các ông bị sử Tàu các đời sau chuyên viết bậy bạ, đánh lạc hướng các ông.
Quả thật thế, các sử Tàu đời sau sáng tác rằng Tây Đồ Di là nước được dựng lên do lính Tàu mà Mã Viện để lại hầu giữ trụ đồng ở Nhựt Nam.
Đó là nói bá láp vì Mã Viện, nếu có để lính Tàu ở lại thì chỉ có thể để vào năm 42 S.K. năm chuyển quân xuống đó, còn trước đó, làm gì đã có Mã Viện, có lính Tàu nào do ai để lại mà lập ra nước Tây Đồ Di? Sao lại đi dẹp một tiểu bang Trung Hoa nào trong khi ông ta chưa đặt lính Tàu ở đó? Vả lại nếu tiểu vương quốc ấy do người Tàu lập ra thì sử Tàu đâu có gọi họ là “di”.
*
* *
Nhưng chúng tôi đã nói rằng quận Nhựt Nam là đất Chàm, và nước Tây Đồ Di không có nằm trong đó mà dân cũng không phải là người Tàu. Đó là một cuộc gặp mặt thật sự giữa Tàu và Tây Đồ Di, chớ không phải là loạn trong quận Nhựt Nam đâu.
Hậu Hán Thư chép là Mã Viện bình định Tây Đồ Di, nhưng không nghe nói có chiếm nước họ, có đặt quan cai trị gì hết thì hẳn là chỉ đánh cho nước đó lui binh rồi thôi chăng? Không, không có đánh gì cả, và có một bí mật lớn thuộc bí mật đại sự của Trung Hoa ở giai đoạn nầy mà ta sẽ khám phá. Chỉ biết rằng sau khi nước Lâm Ấp dựng lên xong rồi thì không còn nghe đến Tây Đồ Di nữa.
Sử Tàu giả thuyết rằng Lâm Ấp kiêm tính Tây Đồ Di. Chắc chắn là như vậy. Họ phải thống nhứt chớ.
Tây Đồ Di văn minh hơn nhưng cấp lãnh đạo Lâm Ấp chính là dân tộc Khu Liên, người Tây Đồ Di, thì cuộc thống nhứt rất dễ dàng.
Hậu Hán Thư chỉ nói có sáu tiếng là: Bình định nước Tây Đồ Di.
Nhưng tại sao chỉ bố thí cho cuộc viễn chinh ấy có sáu tiếng trong khi đó là một cuộc viễn chinh khó nhọc hơn là việc đánh dẹp hai bà Trưng nữa? Quả thật thế, mấy trăm năm sau Mã Viện mà quân đội Trung Hoa xuống đó rồi thì binh sĩ chết vì sơn lam chướng khí đến 3 phần 4. Có lắm viên tướng chết dọc đường vì bịnh, không về được tới Giao Chỉ nữa chớ đừng nói là về Tàu.
Vậy mà Mã Viện đã đánh xuống, mặc dầu sử Tàu chép rằng loạn quân ở dưới tự nhiên tan rã sau khi hai bà Trưng bị diệt.
Việc giao phó trọng trách cho một viên đại tướng 70 tuổi để đánh hai người con gái man di, cũng có vẻ khó hiểu y như sự tiến quân xuống Tây Đồ Di của Mã Viện.
Trích dẫn Hậu Hán Thư, H. Maspéro có nói rằng Phạm Việp KHÔNG DÁM CHÉP cuộc tiến quân đó. Nhưng tại sao không dám chép thì H. Maspéro cũng chẳng biết. Nhưng ông H. Maspéro đã nói thế là ông có thoáng thấy bí ẩn gì trong vụ đó.
Nhưng chúng ta tìm biết.
Cũng nên nói sơ qua rằng các cuốn sử nhà nước Tàu chỉ nói chuyện bên Tàu, còn chuyện man di thì họ chỉ bố thí cho một vài chương, có lắm chuyện, họ lại không dám chép, như câu chuyện Mã Viện tiến quân xuống đó.
Những quyển sử như Sử Ký, Tiền Hậu Thư, Hậu Hán Thư, v.v. đều là sử nhà nước. Mặc dầu Tư Mã Thiên, Ban Cố, Phạm Việp không bắt buộc phải khô khan, họ chỉ được phép viết theo những gì có trên giấy tờ. Thành thử chính xác sử không phải là sử gia của nhà vua, mới là đầy đủ chi tiết hơn.
Vì vậy mà những ông L. Aurousseau, R. A. Stein và H. Maspéro viết về cổ sử nước ta, và nhứt là địa lý cổ thời nước ta, đã phải dựa vào hầu như độc một nguồn ngoại thư.
Các ông Tây biết sự kiện đó, nên họ đọc sử Tàu để khảo về Đông Nam Á, khác ta. Nhiều bản dịch sử nhà nước của Tàu, ta tự ý bỏ những đoạn quan trọng ấy, mà chỉ dịch những gì nói về nước Tàu. Đó là một việc làm kỳ cục. Nhưng đã nói, những quyển sử nhà nước đó, không chứa đựng nhiều chi tiết về các nước ngoài, có dịch đầy đủ cũng chẳng thấy gì nhiều.
Các ông Tây đọc ngoại thư nhiều hơn, những cuốn sử nhà nước cũng được họ đọc kỹ hơn ta nữa, nhưng sự quan tâm của họ nặng về phía ngoại thư.
R. A. Stein lấy Thủy Kinh Chú để làm chủ lực tham khảo cũng chỉ vì Thủy Kinh Chú là ngoại thư, mà nhứt là vì tác giả của nó có sống ở vùng Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhựt Nam.
Nhờ thế mà ông nhận diện được kinh đô Lâm Ấp là ở Huế, tại làng Nguyệt Biều.
Xin trở lại bí mật của Mã Viện, đó là sứ mạng khoa học thứ nhì mà chúng tôi đã nói đến khi trình bày về sứ mạng khoa học thứ nhứt ở một chương trước là đặt nhựt khuê.
Thường thì ngày xưa, các sách cổ của Trung Hoa hay viết: “Nhà Tần tham châu ngọc của…” hoặc “Triệu Đà tham vàng bạc của…”.
Sau nầy thì luận điệu lại khác: “Bọn thực dân Tàu tham đất của…”.
Thường thì không ai xét lại làm gì những quả quyết trên đây, bởi dầu sao cũng có sự thật trong đó phần nào, với lại hình như là người mình không tò mò lắm về những chuyện có vẻ như là ổn rồi.
Thế nên từ bao lâu nay, ta thường yên trí rằng Mã Viện viễn chinh phương Nam là chỉ đánh dẹp hai bà Trưng, bởi sử Tàu đã viết như vậy và khi họ Mã đuổi theo tàn quân của hai bà tới Cư Phong (Thanh Hóa) đánh tan đạo quân nầy thì họ chấm dứt chương ấy.
Ít có người chú ý đến sự kiện sau đây là các ngoại thư Trung Hoa tả tỉ mỉ cuộc tiến binh của họ Mã xuống cực Nam của quân Nhựt Nam, chớ không phải chỉ bố thí cho có sáu tiếng như Hậu Hán Thư.
Đó là điều mà Hậu Hán Thư KHÔNG DÁM NÓI (theo H. Maspéro), không dám nói, nhưng vẫn có nói đến bằng sáu tiếng là “đi dẹp loạn Tây Đồ Di”.
Có người cho rằng ngoại thư là bịa chuyện, không thể tin được nhưng thử hỏi họ bịa làm gì? Cuộc hành quân thứ nhì không đem lại cho Mã Viện và nước Tàu một chút xíu nào hết thì nghĩ rằng họ bịa chuyện, không ổn đâu.
Hơn thế, còn sáu chữ úp mở của Hậu Hán Thư, bỏ đi đâu đây chớ?
Nên nhớ rằng địa danh Cổ Chiến Loan ngày nay cũng còn, và nếu Mã Viện không có kéo quân xuống đó thì làm gì Mã Viện lại gặp được Cổ Chiến Loan, với lại gọi nó là Cổ?
Đó là lần đầu tiên mà Tàu đặt chơn tới nơi ấy, mà họ gọi nơi đó là Cổ, tức họ có biết chuyện gì xảy ra trước đó, chớ Triệu Đà hay Lộ Bác Đức đều không có đưa quân xuống đó lần nào cả (theo sử Tàu).
Trong tạp chí mà chúng tôi đã có nói đến, ông R. A. Stein có thể kiểm soát lại hành trình về phía Cực Nam của Mã Viện, kiểm soát về mặt địa lý, qua tài liệu (Thủy Kinh Chú) thì thấy rằng đúng cả. Lệ Đạo Nguyên, tác giả Thủy Kinh Chú, không thể bịa một câu chuyện mà hành trình, chẳng những đúng từng li từng tí mà còn giúp cho đời nay, nhờ tài liệu ấy mà biết được đích xác vùng đó.
H. Maspéro cũng viết trong bài “Nghiên cứu Việt sử” (1918): “Tuy nhiên, Phạm Việp (tác giả Hậu Hán Thư) mặc dầu KHÔNG DÁM CHÉP chuyện đó, vẫn có ám chỉ đến câu chuyện trong bài ca ngợi Mã Viện rằng ở phương Nam, Mã Viện đã bình định Giao Chỉ và Tây Đồ Di”.
Tại sao Phạm Việp lại KHÔNG DÁM NÓI? Vì đó là một cuộc hành quân bí mật, không có ghi trong các văn kiện chánh thức, mà Phạm Việp chỉ là một sử gia nhà nước (Annlistes).
Có thể họ Phạm có biết câu chuyện mà không dám nói, mà cũng có thể ông không biết bí mật quân sự, chánh trị của nhà vua. Đôi khi bí mật ấy không lớn lao gì, nhưng nhà vua không cho biết chỉ vì cái lẽ không cần cho biết.
Ở chương Những sai lầm, chúng tôi đã nói rằng Mã Viện có hai sứ mạng khoa học, và đã trình bày rồi một sứ mạng và hẹn sẽ trình bày sứ mạng thứ nhì ở chương nầy. Đây là lúc mà ta cần biết rồi đây.
Chúng tôi thắc mắc ở điểm bí mật đó, bí mật vì Phạm Việp KHÔNG DÁM VIẾT, và thắc mắc rồi tìm tòi, tìm mãi phải ra cái gì.
Chúng tôi đã bắt được một tài liệu lạ.
Đó là một lời chú thích của bác sĩ P. Huard khi ông nghiên cứu về sách y học của Trung Hoa qua các trào đại.
Bác sĩ P. Huard cho biết rằng có một luận án bằng tiếng Anh, nhan đề là The beginning of Alchemy trong đó người đệ trình luận án là ông Homer H. Dubs chủ trương rằng Trung Hoa đã biết bí thuật đó trước Tây lịch và người phát minh bí thuật đó là Tschéou Ven (?) gốc ở nước Sở, đồng thời với Khổng Tử, Lão Tử.
Bí thuật luyện kim đơn (Achemi, Alchimie) là gì?
Đó là kỹ thuật của các nhà khoa học của thời Trung cổ Âu châu, họ có mộng biến chì ra vàng, nhưng phải khổ công luyện và phải giấu kín phương pháp, vì đó là chìa khóa kho vàng.
Vào thời ấy, Âu châu tràn ngập các nhà khoa học không có bằng cấp và các ông sống một đời sống kỳ khôi, bí mật, khiến bị thiên hạ xem các ông là những tay phù thủy nguy hiểm.
Không có bằng chứng nào cho thấy có ông nào thành công nhưng điều chắc chắn là các ông đã phát kiến được nhiều mới lạ về hóa học và vật lý học.
Bí thuật của các ông là cha đẻ ra hóa học ngày nay, nhứt là cha đẻ của Hạch lý học, một ngành quan trọng của Vật lý học.
Bí thuật ấy phát tích ở đất Lưỡng Hà cách đây bốn ngàn năm rồi, và có lẽ được bọn da trắng Ấn Âu truyền sang Trung Hoa, do ngã Cam Túc vào đời nhà Chu, các thứ dân Ấn Âu ấy đến định cư và lập quốc ở Tây Vức, tỉnh Tân Cương ngày nay, và đã thành lập ở đó gần 40 quốc gia, tất cả đều bị Ban Siêu tiêu diệt về sau, dưới đời nhà Hán. Đó là dân Nhục Chi tổ tiên của Tàu.
Người Tàu ở Hoa Bắc vốn thực tế, và óc thực tế của họ gần thành một cái bệnh nên họ không hoan nghênh cái bí thuật không đem lại kết quả nào trông thấy. Nhưng người Trung Hoa ở nước Sở thì hoan nghinh bí thuật đó.
Thuở ấy toàn thể Hoa Nam là đất của dân Việt, chỉ trừ ở nước Sở mới có người Tàu lai Việt. Với tinh thần lãng mạn và hay tin nhảm của người ở xứ tương đối hơi nóng, ở xứ có vẻ huyền bí vì còn núi rừng (ở Hoa Bắc, thuở ấy đã không còn cái cây nào đứng được vì người Tàu Hoa Bắc lại mắc chứng bịnh thứ nhì là rất ghét rừng), người nước Sở thu nhận ngay bí thuật đó, và hơn thế lại còn đi xa hơn là hệ thống hóa nó và cho ra đời thuyết Ngũ hành tương dịch. Đạo Lão cũng bắt nguồn từ bí thuật nầy.
Chúng tôi có thử tìm trong thư tịch Trung Hoa của Tàu, và thư tịch Trung Hoa do người Pháp, người Anh làm, nhưng không tìm được tên của ông Tchéou Ven, có lẽ vì ông ấy không có để lại sách nào cả.
Tác giả luận án trên biết tên ông ấy có lẽ vì tên đó được nói đến trong cổ thư Trung Hoa nào mà chúng tôi chưa được biết. Dầu sao, người đệ trình luận án cũng không bao giờ dám bịa ra cái gì.
Hai tiếng „không dám“ của ông H. Maspéro rất là có tánh cách gợi tò mò. Tại sao lại không dám? Thế mà từ 1921 đến nay, không có ai chú ý đến hai tiếng đó cả.
Có lẽ H. Maspéro cũng đã biết tài liệu Trung Hoa, y hệt như ông Homer H. Dubs, nhưng vì chưa có dịp nói, nên ông chưa giải thích, hoặc vì chưa tìm đủ tài liệu, nên ông chỉ diễn ra sự thoáng thấy của ông bằng hai tiếng không dám mà thôi.
Không dám, vì Mã Viện có dính líu vào bí mật luyện kim đơn mà vua nhà Hán âm thầm phú thác cho họ Mã.
Ngày nay thì người ta đã biến chì ra vàng được rồi và thuyết kim dịch (Transmutation des métaux) rõ ra là đúng. Nhưng thuở ấy, chỉ có một kết quả cụ thể được người đời biết đến mà thôi, đó là luyện đơn sa ra thủy ngân.
Thủy ngân là một loại kim chất lỏng, có sẵn trong thiên nhiên dưới hình thức cát đỏ (đơn sa), Pháp gọi là Cinabre. Y giới Tàu gọi là Châu sa, Thần sa, và vào thuở đó, Tàu đã biết dùng châu sa, thần sa để trị bịnh, mà đó cũng là trị liệu xuất phát từ nước Sở, chắc chắn là của Tschéou Ven bày ra, và Tschéou Ven có lẽ vừa là một y sĩ, một tín đồ Lão giáo, một tay phù thủy. (Có phải chăng Tschéou Ven là tên thật của Quỷ Cốc?).
Đến thế kỷ thứ năm sau Tây lịch, nhà khoa học kim sử gia Hy Lạp Zosimus mới nói đến kim dịch, nhưng thuyết kim dịch rồi lại thất truyền.
Chính thuyết kim dịch cổ mà Trung Hoa còn giữ, được du nhập vào Âu châu hồi Trung cổ do trung gian Á Rập, họ bang giao rộng rãi vào thời Trung cổ ở Âu châu.
Một phát minh tại Cận đông đã phải đi vòng sang Tàu rồi lại sang Âu châu ngang qua Cận Đông, vào thời mà dân Lưỡng Hà đã suy vi về văn hóa rồi, thì nghĩ cuộc phiêu lưu của cái biết của con người thật là quá bất ngờ. Về chuyện Lưỡng Hà, ta chưa hết ngạc nhiên đâu, và ta đã thấy Lưỡng Hà đã ảnh hưởng đến Chàm rất nhiều.
Tới đây, ta cần sang qua tình hình nguyên liệu ở Viễn Đông vào thuở ấy. Không có nơi nào có đơn sa cả, chỉ trừ một nơi mà thôi. Đó là Giao Chỉ. Sử Tàu có chép rằng họ mua đơn sa ở Giao Chỉ.
Chắc quý vị đã thoáng thấy cái gì rồi. Cái nguồn tai họa cho dân ta chính là chất đơn sa vậy.
Nhà Chu loạn lạc mãi, nên người ta chỉ biết mua, chớ không ai nghĩ khác hơn. Nhưng nhà Tần lên thì đã khác rồi.
Sơn hà được thống nhứt, họ đi xâm lăng nước ngoài được, đem chiến tranh nội bộ của họ ra khỏi biên giới của họ. Nhưng họ cũng chỉ đánh được tới đất Lục Lương của nước Tây Âu mà thôi và gặp khí hậu nhiệt đới dưới lằn Bắc Hộ, họ không tiến tới nữa. Và rồi họ lại gặp nội loạn dưới trào Trần Nhị Tuế.
Rồi Triệu Đà phản loạn với chánh quốc của y và chuẩn bị đánh nước Âu Lạc của An Dương Vương là nước mà y tưởng là đang chứa mỏ đơn sa.
Y chinh phục được Âu Lạc, nhưng đơn sa thì không thấy đâu cả. Dân Giao Chỉ cứ có đơn sa hoài mà không bán cho Tàu, nhưng chuyên viên Tàu đi tìm mỏ không bao giờ gặp.
Người Tàu là dân thống trị, dám bắt cả bọn bán đơn sa để tra tấn, hầu biết mỏ ở đâu, nhưng họ lại không bao giờ làm thế, bởi họ biết nếu chẳng may kẻ bị tra tấn mà gan lì, không khai gì hết thì tức thì không còn ai dám bán đơn sa cho họ nữa.
Vậy Triệu Đà vẫn tiếp tục mua đơn sa với giá mắc.
Rồi Lộ Bác Đức diệt Triệu Đà, gồm luôn Âu Lạc, nhưng đơn sa vẫn không thấy đâu hết.
Thế rồi Mã Viện xuất hiện, nước Trung Hoa có nhiều danh tướng, sao lại phải sai một ông già bảy mươi đi vào chỗ rừng sâu nước độc? Ông ấy lại là danh tướng, mà bọn “man di” thì chưa giỏi đáng kể, ai lại phải dẹp Trưng Trắc bằng danh tướng?
Mã Viện chỉ đem có 20 ngàn quân để đánh Âu Lạc, trong khi Đồ Thư phải dùng 500 ngàn để đánh Tây Âu thì hẳn họ biết binh Âu Lạc kém, nhưng mà họ lại dùng thượng tướng! Nhưng ngoài tài đánh giặc, ông Phục Ba tướng quân số 2 lại còn là một bậc danh nho có trước tác, thông chuyện đông, tây, kim, cổ, đó là điều mà vua Tàu rất cần.
Mã Viện đánh giặc có hơi vô lý.
Y rượt theo tàn quân của hai bà Trưng, tận diệt họ tại Thanh Hóa ngày nay. Nhưng cớ sao ông ta không dừng quân mà cứ đánh xuống mãi, mặc dầu ở vùng Nhựt Nam, không có gì lộn xộn cả?
Hậu Hán Thư đã mâu thuẫn khi nói rằng Triệu Đà có tiến quân xuống để dẹp loạn Tây Đồ Di, lại vừa nói rằng man di ở phía dưới Cư Phong tự nhiên tan rã sau khi tàn quân của hai bà bị đánh tan tại Cư Phong.
Đây là mâu thuẫn nó để lộ sự bối rối của một sử gia biết sự bí mật mà không dám viết ra.
Họ Mã đã nhận chỉ thị mật, tìm cho ra mỏ đơn sa mới nghe cho. Nếu Giao Chỉ không có mỏ đơn sa thì nước lân bang của Giao Chỉ có. Đó là nước Tây Đồ Di.
Và họ Mã đã tìm được.
Có một sự kiện lạ lùng nầy mà các nhà học giả ta ít để ý tới, là Trung Hoa không bao giờ chiếm nước Chàm cả, mặc dầu họ thừa sức chiếm, và mặc dầu họ đã vào được kinh đô Chàm để tàn phá đến hai lần.
Mã Viện đã đánh xuống cực Nam Nhựt Nam, tức đã tiến đến biên giới Việt, Tây Đồ Di, nhưng y lại vẫn không chinh phục Tây Đồ Di mà chỉ dừng chơn tại biên giới thôi.
Đó là một sự kiện khó hiểu nữa mà cũng chẳng hề gây thắc mắc cho ai. Dưới cái biên giới đó, Chàm còn đất rất nhiều, từ Quảng Nam đến Bình Thuận, vậy mà Mã Viện lại chê, sau khi chịu lao lực quá sức con người.
Y không đánh nữa là vì y đã gặp mỏ đơn sa rồi.
Thật ra thì mỏ ấy ở trong đất Tây Đồ Di, chớ không phải trong quận Nhựt Nam, nhưng vì một lý do chánh trị, y không chiếm, chỉ tới nơi cho biết là đủ rồi.
Mỏ đơn sa nằm tại Cù Lao Chàm, ngoài khơi tỉnh Quảng Nam, được khai thác cho đến đời nhà Tống mới cạn.
Mã Viện có sứ mạng mật đi tìm mỏ, chỉ vì thế mà trong các văn kiện chính thức không thấy có đề cập tới công tác đặc biệt đó, và các sử gia nhà nước, cho dẫu có biết, cũng không thể chép vào sử được.
Đánh hai bà Trưng, chắc không cần đến 25 ngàn quân như Mã Viện đã huy động (con số nầy thấy được trên tấu sớ của họ Mã) nếu không có việc dùng 12 ngàn để lại giữ an ninh tại Giao Chỉ và 12 ngàn dành cho cuộc hành quân đi Cù Lao Chàm. Mà tưởng không cần đến một ông già, giỏi chữ nghĩa nếu không phải tìm kiếm cái gì khác hơn là chỉ đánh giết.
Những lý do chánh trị xui Mã Viện không đánh chiếm mỏ đơn sa là lý do nào?
Mã Viện thừa biết Giao Chỉ quá xa thì sẽ thỉnh thoảng nổi loạn một lần, mà mỗi lần Giao Chỉ nổi loạn, là không mua được đơn sa, ít lắm cũng vài ba năm.
Vậy cứ để mỏ đơn sa cho Chàm. Khi nào bặt đường Giao Chỉ họ sẽ đi mua bằng thuyền. Mà có lẽ ngay sau đó, họ cũng đã đi mua đơn sa bằng thuyền để khỏi phải qua trung gian Giao Chỉ cho mắc tiền. Tên gia nô Phạm Văn, người Tô Châu, có phải chăng đã đến xứ Chàm bằng thương thuyền? Thế nghĩa là Tàu đã giao thông hẳn với Chàm trước Phạm Văn nữa, quen biết nhau lâu đời nên Phạm Văn mới được trọng dụng.
Sự kiện Mã Viện để lính lại hầu giữ cột đồng cũng đầy ý nghĩa đối với vấn đề đơn sa. Sử Tàu chép sự kiện trên đây và nói rõ là “để giữ trụ đồng”. (Bọn nầy đến đời nhà Tấn, nhờ lấy vợ bổn xứ sanh con đẻ cháu ra, đã đông được 4 động, tức 4 làng, Tấn thư, thiên chí chép như vậy).
Nhưng thử hỏi có đúng hay không? Người học rộng và thông minh như Mã Viện, có làm chuyện điên rồ như vậy hay không? Không có tư nhơn nào đủ sức ăn cắp trụ đồng cả. Còn một dân tộc mà muốn cướp trụ đồng thì mấy mươi tên lính quèn làm sao đủ sức đương cự?
Đó chỉ là những chuyên viên khai mỏ. Mã Viện sợ dân Chàm, kém kỹ thuật rồi lãng phí thứ kim loại quý ấy. Bọn Tàu ở lại, không cần dựa quyền thế nào, chỉ xin làm công cho chủ mỏ người bổn xứ là đủ cho Mã Viện rồi.
(Về nơi chôn trụ đồng Mã Viện, có hàng trăm cổ thư nói đến, mỗi quyển mỗi nói khác nhau, ta đọc xong bao nhiêu quyển sách đó là gần hóa điên rồi. Nhưng chắc chắn là Mã Viện đã trồng trụ đồng ở đây, để kỷ niệm cái nơi cuối cùng mà y đi tới, không thể nào khác hơn được).
Còn huyền thoại của ta về câu dọa nạt mà Mã Viện khắc trên trụ đồng, thì là láo khoét: “Trụ đồng mà gãy thì dân Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt”. Dân Giao Chỉ đâu có mặt tại Cực Nam Nhựt Nam, nơi mà hơn một trăm năm sau, người Chàm dựng nước Lâm Ấp? Nếu y có dọa nạt ai thì kẻ bị dọa nạt là người Chàm ấy chớ sao lại là ta được. Làm như là trụ đó trồng ở biên giới Việt Hoa vậy?
Sử Tàu không hề cắt nghĩa tại sao họ không thừa dịp đó để cướp luôn nước Tây Đồ Di. Họ thấy rằng để như vậy có lợi hơn là cướp, vì họ quá cần đơn sa, mà hễ cướp nước người ta, thì việc buôn bán có thể bị đình trệ vì những cuộc nổi loạn về sau.
Nhưng còn một điều nầy, cũng cần nói rõ ra, là 1932, ông J. Y. Claeys được Viện Viễn Đông Bác Cổ phái xuống Cù Lao Chàm để khảo cổ, ông không tìm thấy nơi đó có một vết tích Chàm nhỏ lớn nào cả, qua các thời đại cổ, trung cổ và cận kim (B.E.F.E.O, 1933).
Thế nghĩa là người Chàm chỉ ra đó lấy đơn sa về bán mà không có ở đó. Cắt nghĩa như vậy thì cũng ổn, nhưng tại sao cả Tàu lẫn ta đều đặt ra một địa danh như vậy: Cù Lao Chàm?
Đó là một điểm tối chưa có thể khai quang, nhưng chỉ nhỏ thôi, không thể gây sai lầm quan trọng nào.
Đến đời nhà Tần một vị quan tại kinh đô Tàu là Cát Hồng, đã xin đi làm tri huyện ở Nhựt Nam, khiến cả trào nhà Tần đều ngạc nhiên, tự hỏi tại sao ông quan tại trào ấy lại xin đi làm quan nhỏ đến thế ở một nơi rừng sâu nước độc mà cho đến những kẻ được gởi đi làm thứ sử cũng sợ hãi, không đi.
Cũng nên biết rằng Cát Hồng, cũng là một y sĩ danh tiếng, tác giả bộ Pháo Phác Tử, và ông ấy rất cần chất đơn sa để nghiên cứu vài trị liệu mới.
Ngồi tại Hoa Bắc mà mua đơn sa thì quá mắc tiền, không như làm tri huyện ở Nhựt Nam là một nơi rất gần gũi với Cù Lao Chàm.
Tây Đồ Di không có hưởng ứng theo hai bà Trưng, vì họ không bao giờ bị Tàu trị, thì họ nổi loạn với ai? Nhưng Mã Viện đã tới biên giới Tây Đồ Di và tìm được mỏ đơn sa mà dân Lạc Việt giấu nhẹm để làm trung gian kiếm lời. Họ Mã thương lượng việc mua bán với Tây Đồ Di, thế là xong, chớ không có loạn nào cả.
Mỏ đơn sa ở Cù Lao Chàm, Quảng Nam đã được Cát Hồng và Thích Đại Sán xác nhận. Vậy nước Tây Đồ Di, quốc gia thứ nhứt của người Chàm phải ở Quảng Nam. Còn nước Lâm Ấp, quốc gia thứ nhì phải ở Thừa Thiên vì sử Tàu cho biết rằng Tây Đồ Di giáp ranh với huyện Tượng Lâm nơi mà dân Khu Liên lập ra nước Lâm Ấp.
Thế là sự tìm vị trí của Tượng Lâm của ông R. A. Stein là đúng.
C. Cái nhìn tổng quát và kết luận
Người ta trách Mạnh Tử hay bài xích kẻ khác. Mạnh Tử đáp: Ta có muốn bài xích đâu, chẳng qua là bất đắc dĩ đó thôi. (Dư khởi hiếu biện tai! Di bất đắc dĩ giã!).
Khi bác sĩ R. Joly nghiên cứu sách vở của y sĩ Hippocrate để lại, thì vị y sĩ thời nay ấy rất ngạc nhiên mà thấy giọng văn trong sách thuốc của Hippocrate mang nặng tánh cách bút chiến mà không thấy Hippocrate chỉ rõ ai.
Cái y học của Hippocrate ngày nay thì đã sai quá nhiều rồi với những phát minh mới, nhưng vào thời ấy chính nó lại là phát minh mới và vì có quá nhiều sách xưa hơn với lại toàn thể dân chúng xưa đều tin mạnh vào những cái cũ, sai hơn nhiều nên mặc dầu làm việc cho một ngành chuyên môn. Hippocrate vẫn có giọng bài xích như một chánh khách, hoặc một triết gia.
Chẳng qua là sự bất đắc dĩ cả. Muốn xóa tin tưởng sai lầm nào mà đã bắt rễ quá sâu thì chỉ có một cách là bài xích và nói đi nói lại mãi những quan điểm mới của ta.
Đó là khuyết điểm của quyển sách nầy mà chúng tôi thấy ngay từ trang đầu, nhưng không sửa đổi thái độ.
*
* *
Hiện nay, nhiều dân tộc lớn trên thế giới cũng không biết về nguồn gốc của họ, thí dụ nước Trung Hoa “vĩ đại”. Nguồn gốc người Tàu, do người Âu tìm ra. Tất cả những cuộc đo sọ ở Hoa Bắc và Trung Hoa đều được Nga, Mỹ, Nhựt, Đức, Pháp thực hiện chớ không có ông Trung Hoa nào biết đo sọ của dân họ cả, vì họ không dè rằng chỉ có sự nghiên cứu cái sọ mới cho biết một dân tộc thuộc chủng nào.
Đo sọ xong, còn phải tìm dấu vết địa bàn của sọ đó, để biết dân được đo sọ từ đâu mà đến. Chừng ấy thì các sử gia mới làm việc được.
Người Pháp đã biết họ thuộc chủng nào, nhưng hoàn toàn mù tịt về nơi phát tích của cái chủng của họ và những bước phiêu linh của nhóm người quy tựu về nước Pháp để thành lập xứ Gaule.
La Mã chinh phục Pháp 95 năm trước khi Mã Viện chinh phục nước ta, và khi J. César kéo quân vào cổ Pháp thì họ gặp những sứ quân chớ không gặp nước Pháp thống nhứt, các sứ quân ấy lãnh đạo những nhóm Vénètes, Rutenes, Arvernes, Eduens không biết từ đâu đến đó và đến vào thời nào và mãi cho đến ngày nay cũng không biết.
Trong khi đó thì Mã Viện đã gặp một quốc gia thống nhứt gồm ba nhóm Lạc mà ngày nay khoa học biết được họ từ đâu đến và riêng chúng tôi biết họ phát tích từ đâu nữa.
Tưởng dân tộc chúng ta là dân tộc hiếm hoi trên thế giới, biết quá rõ nguồn cội của mình, sau cuốn sách nầy người Nhựt cũng đồng chủng, đồng cảnh ngộ với ta vào thời thượng cổ, nhưng họ chưa biết quá khứ của họ rõ như vậy, và họ đang tìm tòi mặc dầu họ văn minh hơn ta và có nhiều phương tiện hơn ta.
Chúng tôi mong mỏi tác phẩm của chúng tôi được công nhận hoặc bác bỏ, vì cái sự thật về thượng cổ thời của ta phải được biết một cách dứt khoát. Nếu sách nầy được công nhận về đại cương, thì là kể như dứt khoát, bằng như có vị nào bác bỏ được, chúng tôi cũng rất hoan nghinh để mà đi tìm học lại, vì sự muốn biết của chúng tôi, chừng ấy sẽ trở lại hành hạ chúng tôi như thuở chúng tôi bắt đầu tìm tòi, tức cách đây hơn mười năm, và tìm tòi là một thú vị vô song.
Nhưng hiện giờ chúng tôi tạm tự tin và nhìn tổng quát, và kết luận theo chiều hướng của cái biết của chúng tôi cho đến ngày nay: Thượng cổ sử ta là thế, là thế, và dân tộc ta là thế, là thế.
Chúng tôi rất tiếc là ông G. Coedès đã ra người thiên cổ để mà biết vua Hùng Vương và hai bà Trưng dùng ngôn ngữ nào. Hai Bà Trưng và vua Hùng Vương hẳn ăn nói như người “Khả Lá Vàng” “Tua rua lăn pchet aka, pchet tum” (Tua rua lặn, chết cá, chết tôm).
*
* *
Tất cả phương pháp của tác giả quyển sử Việt Nam thời Khai sinh, có lẽ nằm gọn trong câu sau đây, ở trang 288: “Chỉ những tài liệu lịch sử mới là những ngọn đuốc chiếu sáng cho chúng ta trên con đường đi về nguồn gốc”.
Sự đổ vỡ của thuyết Nguyễn Phương bắt nguồn ở cái nền móng bấp bênh đó. Tài liệu lịch sử? Nhưng tài liệu đó của ai viết ra? Của một dân tộc xuất hiện đồng lúc với ta, có văn minh hơn ta nhưng không thể biết hết được.
Hơn thế, và đây mới là cái then chốt. Không ai biết dân tộc Việt Nam thuộc chủng nào cả thì có hàng vạn quyển sử liệu về dân ta, cũng không thể biết nguồn gốc của ta được. Sử gia Nguyễn Phương có thử tìm biết chủng của dân ta, bằng NỬA TRANG SÁCH và kết luận ngay rằng ta thuộc chủng Mông Gô Lích, thế nên công phu lớn của sử gia mới nhào xuống hết.
Nếu ta thuộc chủng Mông Gô Lích, thì quá giản dị, tưởng không cần viết quyển sách nào cả. Đó là một phụ chi Mông Cổ đi xa nhất, chẳng có gì phải thắc mắc nữa.
Sử gia cẩu thả, không thèm kiểm soát ước đoán của mình, xem cái ước đoán đó là sự thật rồi cứ tiến sâu vào đó. Nhưng khoa chủng tộc học đã cho thấy rõ ta thuộc chủng Mã Lai với cái sọ Brachycéphale, còn Tàu và Mông Cổ thì sọ Mésocéphale.
Biết chắc điều đó rồi, mới dùng sử liệu được vì sử liệu gạt gẫm như một con cáo già, muốn chứng minh điều sai lầm nào, cũng sẽ có sử liệu cho ta dùng làm bằng chứng cả.
Sử gia đã viết tiểu ri về sử học, trước khi viết sử. Nhưng cái tiểu ri đó lại thiếu mất cái chương quan trọng nhứt: muốn rõ nguồn gốc một dân tộc, phải biết dân ấy thuộc chủng nào, mà cái biết thứ nhì, thì chỉ có khoa chủng tộc học mới là khoa độc nhứt đủ khả năng soi sáng sử gia.
Biết xong rồi thì đã đi được 8 phần mười của đoạn đường, bởi ta đã biết nẻo săn tài liệu, và biết loại tài liệu nào cần săn chớ chưa biết thì ta gặp gì vớ nấy, nó có vẻ ăn khớp với cảm giác của ta, nhưng cảm giác đã sai thì sự ăn khớp cũng phải lệch.
Có ai bác nổi chứng tích chủng tộc học mà chúng tôi đã dùng hay không? Bác được chứng tích ấy của chúng tôi rồi, thì mới lập thuyết được, chớ khi mà sọ của dân ta cứ là Brachycéphale không thể chối, thì xin đừng tìm tòi sang nẻo khác mà uổng công. Khoa chủng tộc học thì học không có khó lắm đâu.
Học nhảy dù, tức tự học, cũng có thể giỏi bằng nhà chuyên môn. Mà chỉ có tốn vài năm để đi thật sâu trong khoa đó. Nó không bí hiểm như triết vậy đâu, vì như đã nói, đó là một khoa học chính xác như toán, tức là cái gì cụ thể, rất là dễ học, chớ không xuôi ngược như khoa học nhân văn vậy đâu. Nó là 2 + 2 = 4.
Kế đó, khoa khảo tiền sử cũng là cây đuốc thứ nhì. Không có sọ Việt ở Hoa Bắc, thế mà giáo sư Kim Định lại nói đến một cuộc hợp chủng Hoa Việt tại Hoa Bắc, nói rằng Lệnh ông không bằng Cồng bà, và kết luận rằng ta tạo ra nền văn minh Tàu ở Hoa Bắc.
Tiểu ri rất cần, nên sử gia Nguyễn Phương mới viết tiểu ri trước. Nhưng phải là tiểu ri đúng kia, mà tiểu ri đúng đòi hỏi phải biết đích xác cái chủng của một dân tộc. Nó lại đòi hỏi phải biết đích xác cái địa bàn định cư của dân tộc đó chớ không phải muốn tưởng tượng rằng ta lập nền văn minh nào ở đâu cũng được, bằng một mớ sử liệu gạt gẫm, nó đã gạt gẫm, nó lại bị chính ta tự gạt gẫm ta, đưa nó về cái hướng mà ta cần đưa.
Mà muốn biết được địa bàn đích xác thì chỉ có tiền sử học với những cuộc đào bới để tìm dấu vết xưa của dân tộc mà ta theo dõi. Đào bới suốt 50 năm ở Hoa Bắc mà không gặp cái sọ Việt nào, xin tha cho thuyết “Lệnh ông không bằng cồng bà” ở Hoa Bắc.
Và nên cố mà hiểu Granet và Maspéro. Hai ông đó chỉ dựa vào truyền thuyết và huyền thoại đời Chu mà vào đời Chu thì quả có “Lệnh ông không bằng cồng bà”, nhưng câu chuyện chỉ xảy ra ở đất Kinh Cức, chớ không phải ở Hoa Bắc thời Hiên Viên. Mà nền văn minh Tàu thì đã thành lập trước đó lâu rồi.
Granet và Maspéro đã chợt biết sự thật, ông ta có nói ra, nhưng không ai chịu nghe đó thôi. Ông ta nói rằng cứ bằng vào Kinh Dịch, thì những chuyện trao đổi văn hóa giữa Tàu và các man di không lâu đời lắm, mà chỉ xảy ra vào cuối Thương đầu Chu mà thôi. Ông ta không nói thêm gì, nhưng phải hiểu rằng vào đời đó thì câu chuyện chỉ có thể xảy ra tại Kinh Cức vì ở Hoa Bắc thì man di đã mất hết cả từ khuya rồi chỉ còn rợ Đông Di ở Cực Đông và rợ Khuyển Nhung ở Cực Tây. Từ thời Hiên Viên đến thời đó Tàu đã làm cỏ man di ở Hoa Bắc, chớ không có hợp tác gì hết ráo.
Cho tới đây, qua nhiều trăm trang sách rồi, ta mới có được cái nhìn tổng quát, mà giáo sư Nguyễn Phương đòi hỏi, chớ trước kia ta làm gì có chỗ đứng để tầm mắt ta bao rộng đến thế.
Thuật ngữ Indonésien có nghĩa là Cổ Mã Lai chớ không có nghĩa là Mọi là Thượng Việt gì hết, cũng không có nghĩa là dân của xứ Nam Dương như danh từ thường là Indonésien.
Chính sự lầm lẫn hai nghĩa của độc một danh từ đã làm chậm trễ công việc tìm tòi về nguồn gốc của dân tộc ta.
Ta thuộc chủng Mã Lai mà không ai dè, kể cả các nhà khảo cứu về nền văn minh Đông Sơn.
Và Mã Lai chủng, cũng không ai dè, là phát tích ở HiMalaya và di cư từ Hoa Bắc, cứ ngỡ là họ phát tích tại Nam Dương.
Không dùng ba khoa học mà chúng tôi dùng, không làm sao mà biết sự thật đó được cả. Trước quyển sách nầy thiên hạ đã thoáng thấy sự thật rất đông đảo, nhưng không nối kết lại bao nhiêu sự thoáng thấy lại thành một hệ thống vững vàng được, nên không ai dám quả quyết cái gì cả.
*
* *
Cũng như bao nhiêu nhà trí thức khác, giáo sư Trần Ngọc Ninh đã chê khoa khảo cổ hẹp hòi, không cho biết được đời sống tinh thần của cổ dân.
Giáo sư Trần Ngọc Ninh chỉ nói đúng có một phần mười.
Sự thật công cuộc đào bới ở Bắc Việt còn quá nghèo nàn, mặc dầu công việc ấy đã được bắt đầu từ đầu thế kỷ nầy.
Tại sao vậy? Là tại không có tiền. Chánh phủ Đông Dương cũ bố thí cho nó quá ít tiền, còn chánh quyền miền Bắc ngày nay tuy có nỗ lực bằng sự tận tâm của các nhà tiền sử học, chớ cũng không bằng tiền, trong khi chỉ có tiền mới làm việc được.
Thế thì không phải là khoa khảo tiền sử dở, mà chính là con người dùng khoa ấy chưa đúng mức.
Sự kiện xảy ra ở nước ta, khác quá xa ở Ai Cập, mà các nước giàu có đổ tiền ra để làm việc cho cái quốc gia tốt phúc đó. Thế nên họ thấy rõ cả lòng đất sâu của Ai Cập.
Quyển sách của chúng tôi chỉ là cái sườn, vì chúng tôi mù tịt về thời tân thạch của ta. Ta nhảy vọt từ cái lưỡi rìu tay cầm bằng đá mài đến thời đại đồng pha, giữa hai giai đoạn ấy, hai ngàn năm lịch sử không được biết.
Nhưng cũng tại rủi ro của dân tộc phần nào. Cứ vài trăm năm thì Bắc Việt bị lụt to một lần, mà mỗi lần lụt to như vậy thì phù sa bồi thêm mặt đất một lớp dày có khi và có nơi đến bốn thước tây. Như vậy dấu vết của vua Hùng Vương thứ I, chắc phải là ở dưới một lớp đất sâu 70 thước, và chắc không bao giờ xuất hiện cả đâu.
Dân ta tới Cổ Việt với cái lưỡi rìu tay cầm bằng đá mài rồi tiến ra sao, qua bao nhiêu lần dò để đi đến lưỡi rìu tay cầm bằng đồng pha thì ta hoàn toàn bí, mà ta bí nhưng không phải vì khoa khảo tiền sử kém khả năng mà vì ngân sách không có tiền để nhờ một ê kíp khảo tiền sử lỗi lạc làm việc với đầy đủ của mọi phương tiện.
Ta chỉ biết có ngôi mộ Việt Khê với chiếc hòm (săng) bằng gỗ khoét ruột, nhưng trước đó ta chôn cất thế nào? Không như ở Ai Cập mà họ biết cả từng giai đoạn biến chuyển, ban đầu dân Ai Cập rào xác bằng rào cây đan, kế đó là hòm bằng đất sét, rồi hòm bằng đất nung, sau rốt mới tới hòm gỗ.
Vật tổ của ta, còn ở trong vòng tranh luận, và những gì chúng tôi viết ra ở chương vật tổ chỉ là tranh luận, chớ chưa chắc đã là sự thật. Nhưng ở Ai Cập thì người ta biết sự thật, bởi trước khi có hình khắc chạm, đã phải có hình thô sơ hơn bằng đá, bằng gỗ mà ta chưa tìm được nhưng các ông Tây đã tìm được ở Ai Cập những “dự thảo” thô sơ đó, xác nhận hình khắc chạm, không ai hiểu tầm ruồng được rằng vật tổ của ta là chim. Nhưng ta chưa tìm được con nai bằng đất nung, bằng gỗ cả.
Chắc phải đợi thái bình và một chánh phủ dám chi tiền với lại một lớp chuyên viên giỏi thật giỏi, ta mới biết hơn được, bằng thiếu ba điều kiện đó, thì ta chỉ có thể biết tới chừng nầy mà thôi, không mong biết hơn được, một cách chắc chắn và khoa học và cứ tiếp tục đoán mò.
Quả đúng rằng khoa khảo tiền sử chỉ biết đại cương. Nó chỉ là một bộ sườn. Nhưng đó là một bộ sườn bằng bê tông cốt sắt, vững chắc hơn bất kỳ suy luận nào cả. Thử hỏi nếu không tiền sử học và chủng tộc học, có suy luận nào đủ khả năng cho ta biết dân ta thuộc chủng nào và từ đâu đến hay không?
Cái hẹp hòi của khoa học, thật ra thì là rộng minh mông vì cái biết đó mới là cái biết lớn, cần hơn bất cứ cái biết nào khác. Giáo sư họ Trần đã thử tìm tòi qua ca dao để biết ta có lịch 10 tháng. Rất ngộ nghĩnh. Nhưng dầu sao nó cũng không căn bản như khoa học đã cho ta biết ta thuộc chủng Mã Lai, phát tích từ HiMalaya, và di cư từ Hoa Bắc đến Cổ Việt, cách đây 5.000 năm. Nhờ tiền sử học và chủng tộc học mà ta biết được cái nó làm cho ta khổ sở từ bao lâu nay, mà ta giống một đứa con rơi, không biết nguồn cội hay chỉ biết qua những lời đồn đãi của xóm giềng. Nghĩ cái biết đó vẫn hơn là biết những gì mà ta có thể suy luận bằng vào ngôn ngữ, ca dao, chẳng hạn lịch 10 tháng.
Ta có lịch 10 tháng hay không, ta có chế độ tĩnh điền hay không, ta có theo mẫu hệ vào cổ thời hay không, nếu biết được thì hay không biết bao nhiêu, nhưng tiền sử học và chủng tộc học cứ đỡ trên hết, mặc dầu sự hiểu biết của hai khoa đó chỉ có giới hạn. Một đứa con không biết cha thì đứa con đó có phát minh ra được phi thuyền liên hành tinh, nó cũng cứ nghe là thiếu cái gì mà cái đó nó thấy là quan trọng hơn là bí mật của vũ trụ nữa, bởi cái đó làm cho nó khổ sở hơn. Hơn thế, nó không vững tinh thần được để mà đi tới vì có người cứ bảo rằng nó là con của mọi, có người cứ bảo rằng nó là con của Tàu.
Không có khoa học nào đủ sức cho ta biết tất cả thì tiền sử học và chủng tộc học cũng thế. Tại ta ngộ nhận, đòi hỏi nơi nó nhiều quá, tưởng nó biết được tất cả, nhưng nó có tự phụ có cái tài ấy bao giờ đâu. Rồi ta không biết hết, chê là nó hẹp hòi thì quá oan cho nó, và còn gây ngộ nhận đối với những người ở ngoài giới khoa học họ tiếp tục tin những gì không đáng tin khi mà hai khoa đó đã bị chê.
Vậy ta nên quan niệm lại là hai khoa học nói trên có cái biết giới hạn. Nhưng sự giới hạn đó là cả một nền móng sắt đá, chở được những gì chồng chất lên đó về sau: lịch 10 tháng hay mẫu hệ, phụ hệ gì đó.
Đại khái, ta có thể ước lượng vua Hùng Vương 1 trị vì vào năm nào chớ không nói mò như thuyết Hồng Bàng với những ba bốn ngàn năm, cổ hơn cả sử Tàu nữa.
Biết năm Thục Phán diệt Hùng Vương 18 là năm 257 T.K. ta ước lượng được vua Hùng Vương 1 trị vì vào năm 617 T.K. bởi không thể có những con người sống hai ba trăm tuổi vào thời xưa, mà vài quyển sử đã cho nhiều cổ vương ta trị vì 150 năm, 180 năm. Trung bình thì cổ kim gì cũng chỉ có hai mươi năm là cùng, bởi có những vì vua chỉ trị có hai năm rồi thì tạ thế.
Còn nhập những trào đại ở Hoa Nam lại với các trào đại ở Việt là một sai lầm to, vì cái nước Văn Lang là nước của Lạc bộ Trãi gốc Hoa Bắc lập ra. Bọn đợt II quả có lập quốc ở Hoa Nam, nhưng những quốc gia ấy hoàn toàn không liên hệ đến nước Văn Lang, không phải là vua Văn Lang tiếp nối những quốc gia đó. Văn Lang chỉ đón nhận những đồng bào mất nước từ Hoa Nam chạy xuống thôi.
Như vậy thì cái “Bốn ngàn năm văn hiến” của ta, phải được sửa đổi lại là 2.587 năm văn hiến, nếu kể đến năm 1970, vì tiến tới chế độ vua chúa rồi, thì mới gọi là văn hiến được.
Cái tánh cách cổ sơ của dân ta quả không kém gì của dân Tàu:
2.000 năm cựu thạch ở HiMalaya
5 năm tân thạch ở Hoa Bắc
2.413 năm tân thạch ở Cổ Việt
2.587 năm kim khí ở Việt Nam
Tổng cộng: 7.005 năm
Nhưng không vì thế mà gọi là 7.005 năm văn hiến được đâu vì con người cựu thạch, tuy đã bắt đầu văn minh đó nhưng có gì là văn hiến cả đâu.
Con người tân thạch cũng không có văn hiến gì hết như hang Làng Cườm đã cho thấy họ nằm hỗn loạn, chẳng có mả mồ gì cả. Suốt thời gian 2.413 năm đó họ phải trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa, hợp chủng, tranh chấp, mà ta hoàn toàn chưa biết được.
Đoán hiểu thì chắc chắn sẽ sai. Có một quyển tự điển của ta dám cho biết vương hiệu của cả 18 ông Hùng Vương. Viết sách đọc giải trí thì muốn phăng te di thế nào cũng được chớ viết sử và làm tự điển thì không nên thế, vì mách phải có chứng, vua Hùng Vương dùng ngôn ngữ nào, thì trước quyển sách nầy không ai biết cả, ông Viện trưởng Viện Viễn Đông Bác Cổ là ông G. Coedès mà còn mơ ước muốn biết hai bà Trưng nói tiếng gì mà hai bà Trưng sống sau vua Hùng Vương thứ I đến 657 năm, tức gần ta hơn, thì làm thế nào để biết ông Hùng Vương nầy hiệu là Hùng Liệt Vương, ông nọ hiệu là Hùng Tuấn Vương, toàn là chữ nho không mà thôi vào cái thời mà ta chưa biết viết một tiếng Tàu nào hết. Nếu ta đã biết Tàu thì Tàu đã biết ta. Nhưng sự kiện không thể chối là họ mù tịt về ta trong trận Ngũ Lĩnh mà chỉ biết có Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu.
Thế thì bọn Mã Lai đợt II đến bổ sung cho đợt I, không lâu khi nước Văn Lang đã được dựng lên.
617 – 500 = 117 năm
500 năm là con số mà tiền sử đúng đã đưa ra chớ các nhà nghiên cứu trống đồng thì sai biệt nhau quá nhiều, có người ước lượng là 250 năm T.K. có người ước lượng là 800 T.K. và giữa đó có lu bù con số, năm trăm là số trung bình chấp nhận được. Và 117 là 5 đời vua Hùng, hoặc tối đa là 6 đời. Như vậy không còn gì là lạ nữa khi ngôn ngữ Việt Nam đầy dẫy danh từ Mã Lai đợt II, và ngôn ngữ Mường đầy dẫy danh từ đợt I, vì họ sống chung nhau đến 12 đời vua là ít, thêm vào đó, thời An Dương Vương, Triệu Đà, Lộ Bác Đức mà họ còn sống chung với nhau. Chúng tôi đã đẩy các trào vua của các quốc gia Việt ở Hoa Nam ra vì Văn Lang không tiếp nối các trào vua ấy.
Nhưng dân chúng, đám bổ sung thì không thể đẩy ra, bởi một là họ với ta đồng chủng, hai là cuộc sống chung suốt 12 đời vua đủ khả năng đúc thành khối cả hai dân tộc khác chủng nữa. Chỉ còn xem coi họ có cùng tâm hồn với ta hay không để cho sự chấp nhận họ vào cộng đồng Văn Lang có một chánh nghĩa nào.
Muốn biết điều đó không nên dựa vào người Mường vì họ đã sống chung với ta quá lâu đời, có thể ta bị ảnh hưởng. Vậy ta nhìn thử Mã Lai đợt II ở địa bàn khác xem sao. Chúng tôi xét ngôn ngữ của Mã Lai Nam Dương và thấy rằng họ và ta đồng tâm hồn với nhau.
Hai thứ Lạc đó, hay nói một cách khác hơn hai thứ Mã Lai đó họ và ta đều đồng ngôn ngữ với nhau, mặc dầu có thổ ngữ khác nhau, vì địa bàn Hoa Bắc và địa bàn Hoa Nam là hai địa bàn quá lớn cách xa nhau nhiều quá, không làm sao mà tránh được khỏi tình trạng ấy được. Tuy nhiên trông lối diễn ý thì họ diễn y hệt như nhau. Thí dụ đợt I nói Chơn trời thì đợt II nói Cẳng trời, tuy là khác danh từ nhưng đồng lối diễn ý, tức đồng tâm hồn, chớ các dân tộc khác thí dụ Pháp nói là Horizon thì chẳng dính lí gì đến ông Trời hoặc đến chơn cẳng hết.
Đợt I nói Sông con, đợt II nói Sông con nít, đợt I nói Cái mắt cá để chỉ cục xương ở trên bàn chân thì đợt II cũng nói y như vậy, chớ các dân tộc khác họ gọi đó là Xương Gu, chớ không là mắt của con gì hết, cho đến đỗi sau ba ngàn năm phân ly họ vẫn còn diễn ý y hệt như nhau. Thí dụ cái Bít tất. Đó là danh từ kép mà ta mượn của Tàu về sau. Tất là đầu gối. Bít tất là món che bít đầu gối.
Người Mã Lai Nam Dương không vay mượn ngôn ngữ của Tàu như ta, chỉ dùng Mã Lai ngữ nhưng cũng diễn ý y hệt như thế để chuyển món đồ vay mượn ấy. Họ gọi đó là Cái quần của cái cẳng tức là món che bít cái tất.
Ta nói Tay chân bộ hạ thì người Mã Lai Nam Dương tức Lạc đợt II nói Tay cẳng bộ hạ. Đúng là cùng tư tưởng cùng tâm hồn.
Đó là không kể những lối nói chung lúc ở chung, thí dụ ta có Bố cái đại vương thì họ cũng có, chỉ khác là họ dùng bốn tiếng đó để làm danh từ, chỉ nhà lãnh đạo, còn ta thì dùng như là nhân danh.
Trên thế giới không có dân tộc nào gọi vợ là Nhà hết, trừ Việt Nam và Mã Lai Nam Dương.
Các nhà ngôn ngữ học đã khám phá ra điều nầy là ngôn ngữ là sự pháp lộ của tư tưởng, mà tư tưởng của chủng nầy khác chủng nọ, nên đồng chủng thì lối nói y như nhau, còn khác chủng thì lối nói khác nhau, còn văn phạm chỉ là chuyện phụ về sau mới có.
Chính lối diễn ý y như nhau đó mới là quan trọng, chớ không phải sự giống nhau của danh từ hay của văn phạm.
Thế thì chấp nhận bọn bổ sung vào cộng đồng của ta được, chỉ cần biết rằng truyền thuyết về các quốc gia ở Hoa Nam là truyền thuyết riêng của nhóm bổ sung, không dính líu về nước Văn Lang hết.
Cuộc di cư cách đây 5.000 năm bằng đường biển, phải là một thiên anh hùng ca, nhưng truyền thuyết, huyền thoại và cổ tích ta, tiếc thay lại chẳng giữ được mảnh vụn nào cả.
Về thời mà hai dân tộc đồng chủng hợp tác với nhau, ta chỉ biết có một điều là trong ngôn ngữ Mã Lai Nam Dương có danh từ hái (Tuái) mà không có danh từ A và Liềm.
Lại có câu ca dao: “Một lưỡi A, bằng ba lưỡi hái”. Thế thì vua Hùng Vương hơn bọn bổ sung rõ rệt, nhờ thế mà ông cứ vững ngôi, không như ở Nhựt Bổn và Chiêm Thành mà bọn đợt II nuốt mất bọn đợt I.
Tuy nhiên tiền sử học, riêng ở Việt Nam không hoàn toàn mù tịt về đời sống tinh thần của tổ tiên ta. Ta đã biết có tôn giáo vật bái chỉ còn phải tranh luận với nhau về con chim hay về con nai nữa mà thôi.
Bốn người giao cấu quanh mặt trời ở bình đồng Đào Thịnh cũng đã cho chúng tôi nối kết được với đồng bóng, tăng lữ của tôn giáo thờ Trời (chớ không phải mặt trời, mặt trời chỉ là hình tượng chỉ ông trời mà thôi).
Khoa kiến trúc về cái đình hiện kim của ta cho ta nối kết cái Thần Xã của Mã Lai Nhựt Bổn và cái Rong của đồng bào Thượng và cái Kêramat của người Nam Dương, tức tôn giáo thờ thần làng (mà có người gọi lầm là thần thành hoàng).
Nhưng tưởng cất nhà, cần đào móng, dựng cột rồi mới đóng vách lợp ngói sau. Cái chủng là nền móng, những gì khác đều là vách mái. Đành rằng cái nhà phải toàn vẹn mới tốt đẹp, nhưng có nền móng vẫn hơn là nóc mái. Muôn ngàn nỗ lực để phanh phui ca dao, ngôn ngữ, cổ tích cũng không bao giờ cho ta biết nguồn gốc của dân tộc Việt Nam thật đúng.
Tài liệu tham khảo riêng cho chương nầy:
L. Deydier: Note sur I tambour de bronge à Batavia, B.S.E.I, 1949
Przyluski: Les Salva, J. A., 1929
H. Mansuy: La Prehistoire en Indochine, Paris, 1931
O. Jansé: V.N. Carrefour des peuples et des civilisations, F.A., 1950
E. Saurin: Station préhistorique de Hàn Gòn, B.E.F.E.O.. 1963
E. Saurin: Un site archéologique à Dầu Giây, V.N.K.C.T.S., 1966
L. Malleret: Objets de bronze communs au Cambodge, à la Malasie et à l’Indonésie Artibus, Asia, 1956
Phạm Việp: Hậu Hán Thư, N.T.N.S.
Nguyễn Phương: Việt Nam thời khai sinh, Huế, 1965
Nguyễn Siêu: Phương Đinh Dư địa chí, Saigon
G. Coedès: Histoire anciene des états hindonésis d’Indochine, B.E.F.E.O., 1944
G. Coedès: Les peuples de la péminsute Indochinoise, Histore et civilisation, Paris, 1962
R.A. Stein: Le Linyi (Tạp chí Hán học), Bắc Kinh, 1947
Tấn Thư: N.T.N.S.
G. Gaspardone: The tomb of Xuân Lôc, J. Greater India Soc, 1937
A. Berfainge: L’Ancien royaume de Campa dans l’Indochine, J. A., 1888
G. Oliver và H. Changoux: Anthropologie de Chanes, B.S.E.I., 1951
H. Maspéro: Le royame du Champa
L. Cadière: Le mur de Đồng Hới
P. Dupont: Tchenla et Penduranga, B.S.E.I., 1949
L. Malleret: Groupes ethniques de l’Indochine, Hà Nội, 1932
J. Boiselier : Statuaire du Champa, Paris, 1963