I. Vai trò của các đô thị lớn
Đô thị là hạt nhân của một xã hội hiện đại, phát triển đô thị là quá trình gắn liền với khai thác, sử dụng tài nguyên nói chung và đất đai nói riêng, đồng thời gắn chặt với bảo vệ môi trường.
Hà Nội vừa kỷ niệm 1000 năm tuổi- là một trong những đô thị có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời trên thế giới. Nghị quyết 15/BTC năm 2000 và pháp lệnh Thủ đô đã nêu rõ: " Hà Nội là trái tim cả nước - Trung tâm đầu não chính trị, hành chính Quốc gia. Trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế".
Với vị trí là trung tâm vùng Duyên hải Bắc Bộ, Hải phòng là cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có nhiều vị trí thuận lợi cho phát triển cảng nước sâu; có hệ thống hạ tầng giao thông tổng hợp (đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển và đường hàng không), giao lưu thuận lợi với các địa phương trong nước và quốc tế; đầu mối quan trọng trong chiến lược phát triển:" Hai hành lang, một vành đai" là cửa biển "vào - ra" của cùng Tây Nam Trung Quốc trên 350 triệu dân, một trọng điểm phát triển kinh tế biển của cả nước.
Hải Phòng là trung tâm lớn thứ hai của miền bắc (sau Hà Nội) về đô thị, văn hóa, khao học, giáo dục, giao dịch Quốc tế và là trung tâm kinh tế lớn có các ngành mũi nhọn như: Công nghiệp cơ khí đóng tàu biển, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ cảng, vận tải biển, thủy sản và du lịch có ý nghĩa vùng và cả nước.
Thừa Thiên Huế là một trong 5 tỉnh thuộc vùng kinh té trọng điểm miền Trung; là vùng đất có vị thế đặc biệt quan trọng về an ninh Quốc phòng. Ở vị trí trung độ, cầu nối giữa 2 miền Nam và Bắc; là vùng có nhiều cảnh quan đẹp, hội tụ nhiều giá trị lịch sử, di sản văn hóa, di sản cảnh quan và có giá trị quan trọng về phát triển kinh tế biển.
Thừa Thiên Huế có diện tích 5054 km2, dân số gần 1,2 triệu người, có thành phố Huế - cố đô của Việt Nam, là đô thị loại 1, thành phố festival, có hai di sản văn hóa thế giới là trung tâm văn hóa du lịch; trung tâm y tế chuyên sâu, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao. Thừa Thiên Huế còn là nơi hội tụ các tiềm năng, thế mạnh về biển, đồng bằng, gò đồi, rừng núi.
Đà nẵng, là đô thị loại 1 cấp quốc gia, được xác định là trung tâm vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây Nguyên, nằm ở 15.055 độ đến 16,014 độ vĩ Bắc và 107,018 độ kinh ĐÔng, Bắc giáp Thừa Thiên Huế, Phía tây - Nam giáp Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông.
Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ liên thông với các nước Lào, Thái Lan, Myanmar thông qua hành lang kinh tế Đông tây với điểm kết thúc là cảng Tiên sa. Nằm ngay trên một trong những tuyến đường biển và đường hàng không quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích tự nhiên trên 2000 km2 giữ ở mức độ ổn định 10-12 triệu người, là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ có vị trí quan trọng của cả nước; đầu mối giao lưu quốc tế, trung tâm công nghiệp, dịch vụ đa lĩnh vực, khoa học công nghệ, đào tạo Quốc gia, khu vực Đông nam á và Quốc tế. Ngoài ra, thành phố Hồ Chí Minh còn là trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh là đô thị cực lớn.
Để góp phần xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, công tác phát triển và quản lý phát triển đô thị đã được Đảng và Nhà nước đặt biệt quan tâm, nhằm xây dựng và phân bố hợp lý các đô thị tạo sự phát triển bền vững, cân bằng giữa các vùng lãnh thổ, có sự cạnh tranh cao giữa các đô thị, tạo môi trường sống tốt, lành mạnh cho người dân, đảm bảo phát triển kinh tế- xã hội với an ninh quốc gia
II. Về kiến thức cảnh quan
Năm 2007, chính phủ ban hành Nghị đinh 29/2007/NĐ-CP ngày 27/2/2007 về quản lý kiến trúc đô thị. Theo tinh thần của nghị định, nhiều đô thị trong cả nước đã lập quy chế quản lý kiến trúc cho toàn đô thị và quy chế quản lý kiến trúc cho từng khu vực của đô thị. Về kiến trúc đô thị 10 năm qua, nền kiến trúc Việt Nam tiến triển nhanh với sự xuất hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị hiện đại, ứng dụng nhanh công nghệ thiết kế tiên tiến của thế giới như: khu ĐTM Linh Đàm, Phú Mỹ Hưng, các phố và đường xã ở Đà Nẵng...
Trong giai đoạn 1999-2009 kiến trúc cảnh quan đô thị tuy có nhiều tiến bộ song vẫn còn tồn tai nhiều vấn đề bức xúc;
- Tại một số đô thi, việc thiết kế kiến trúc cảnh quan chưa được quan tâm đúng mức, nhiều công trình xây dựng đã lấn át tự nhiên, che khuất tự nhiên, kiến trúc còn lộn xộn, lai căng, thiếu bản sắc...
- Một số đô thị ven sông, hồ, biển chưa thể hiện rõ ý tưởng khai thác không gian hướng tới các mặt nước. Bờ mặt nước là nơi có điểm nhìn rộng thì thường bị lấn chiếm hoặc sử dụng làm phần phụ cho các khối công trình, Các dải cây xanh chưa được quản lý sử dụng có hiệu quả.
- Trong các giải pháp quy hoạch tổ chức không gian, bố cục cơ cấu chức năng và xây dựng từng công trình thường chỉ hướng đến đô thị hiện đại mà quá ít đầu tư cho những đặc thù truyền thống của mỗi đô thị.
- Về xây dựng, quan tâm đến khu nhà ở mà chưa quan tâm đến khu vui chơi, trường học, dịch vụ, giao thông nên tạo cho người dân bao khổ cực không cần có như báo Tiền Phong đã đưa:" khổ như ở chung cư cao cấp", nói về nỗi khó nhọc của người dân ở chung cư Keangnam - Hà Nội.
III. Về giao thông đô thị.
Chất lượng phục vụ của giao thông công cộng tại các đô thị, các vùng và trên cả nước ngày càng tốt hơn. Song, xe buýt vẫn là phương tiện giao thông công cộng chủ yếu, còn thiếu các loại giao thông công cộng có sức chở lớn trong đô thị, nhất là ở 2 đô thị đặc biệt và 7 đô thị loại I. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai đầu tư xây dựng các chuyến tàu điện ngậm và đường sắt trên cao trong đô thị.
Hiện đang tiến hành xây dựng cải tạo hệ thống giao thông đô thị của 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, do quản lý chưa tốt nên tỷ lệ phương tiện giao thông cá nhân đã phát triển rất mạnh ở tất cả các đô thị lớn Việt Nam, dẫn đến trình tạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm bụi và tiếng ồn trầm trọng ở các đô thị lớn. Ô nhiễm bụi trong các đô thị Việt Nam thuộc loại cao nhất thế giới. Ô nhiễm tiếng ồn do các loại còi của phương tiện giao thông cơ giới mặc nhiên được chấp nhận, làm giảm đi tác dụng vốn có của nó.
Thành phố Hà Nội, đang thực hiện thí điểm đề án phân luồng giao thông, đã đạt được những thành công bước đầu song lại bắt đầu nảy sinh ra những điểm ùn tắc mới. Tỷ lệ đất dành cho giao thông đô thị đạt thấp
Ở Hà Nội, đã có quy hoạch các bãi đỗ xe những sau đó bãi biến thành siêu thị hay nơi giao dịch, vừa qua, Hà Nội có chiến dịch lập lại trật tự trên 256 tuyến phố, những người dân bức xúc vì không có chỗ gửi xe. Ở Hải Phòng, đang cố gắng xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, xây dựng tuyến đường duyên hải Bắc Bộ tạo nên hành lang kinh tế ven biển.
Thừa Thiên Huế: song song với đầu tư phát triển xã hội là việc phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Hệ thống đường nội trị được xây dựng khá đồng bộ bao gồm lòng lề đường vỉa hè, cây xanh, điện chiếu sáng. Giao thông đối ngoại đã tăng cường nâng cấp một số công trình trọng yếu: cảng Chân Mây, cảng Thuận An, sân bay Phú Bài, cửa khẩu S3,S10, quốc lộ 1A...
Ở Đà Nẵng, ngoài việc hoàn chỉnh các tuyến đường quốc gia qua thành phố, đã chú ý các tuyến đường trọng điểm định hướng kéo dài bờ sông, bờ biển, phát huy về thiên nhiên như đường Phạm Văn Đồng và cầu qua sông Hàn, tạo đà phát triển cho phía đông Sông Hàn.
IV. Về thoát nước đô thị
Về thoát nước đô thị: Ngày 14/3/2002, Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 301/QĐ-BXD về việc ban hành chiến lược bảo vệ môi trường ngành xây dựng đến năm 2010. Trong đó, công tác thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị đã được quan tâm nhiều hơn, có 6 đô thị có quy hoạch thoát nước được phê duyệt (Hà Nội, tp. Hồ Chí Minh, Phan Rang, Vinh, Biên Hòa và Thủ Dầu Một). Năm 2006, có 20 thành phố, thị xã triển khai dự án thoát nước và vệ sinh môi trường.
Nhưng thực tế, việc quy hoạch chưa được tốt: các hồ, kênh, mương, sông ngòi trong đô thị với vai trò điều hòa và thoát nước mưa đô thị vào mùa mưa lũ ít được quan tâm bảo vệ. Tình trạng cống hóa các hệ thống thoát nước mưa trong đô thị đã làm ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và thu hẹp dùng chảy phục vụ thoát nước mưa trong đô thị, đó chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngập lụt đô thị vào mùa mưa lũ.
Hơn 20 năm, trong lĩnh vực cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, vệ sinh môi trường đô thị đã có những chuyển biến quan trọng góp phần không nhỏ vào sự phát triển đô thị, xây dựng đô thị văn minh, hiện đại. Nhưng nếu so sánh với thế giới và khu vực thì đô thị Việt Nam còn nhiều yếu kém. Chất lượng quy hoạch thấp, không đón trước tốc độ phát triển đô thị cho dài hạn, dẫn đến chắp vá; hệ thống hạ tầng luôn chạy theo tốc độ phát triển. Lúc nào, thời kỳ nào hệ thống hạ tầng cũng bị quá tải mà không khắc phục được, nhất là giao thông đô thị, bãi đỗ xe, cây xanh, công viên...đều phát triển theo yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội. Ở đây, tôi chỉ dám nêu những thách thức trong lĩnh vực cấp, thoát nước, xử lý nước thải và vệ sinh môi trường đô thị. Hà Nội bị úng ngập sau những trận mưa lớn, mưa dài ngày, như vụ lụt năm 2008. Thành phố Hồ Chí Minh bị úng ngập khi có mưa to và khi có triều cường lên.
Phần lớn, các đô thị đều có hệ thống thoát nước chung cho cả mặt nước và nước thải; hầu hết nước thải đều chưa được xử lý hoặc mới chỉ được xử lý sơ bộ chưa đạt tiêu chuẩn quy định; hầu hết các đô thị đều thiếu hệ thống thu gom và các trạm xử lý nước thải tập trung. Đến nay, cả nước mới có 17 đô thị có trạm xử lý nước thải, độ che phủ mới chỉ đạt 10- 15% diện tích nội đô, có 11 đô thị khác đang thực hiện dự án đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải.
1. Cây xanh đô thị
Hệ thống cây xanh, công viên đô thị còn chưa được quan tâm đầu tư; tỷ lệ đất cây xanh, công viên đạt rất thấp so với tiêu chuẩn quy định (Hà Nội 5,3m2/người); hệ thống khung thiên nhiên trong đô thị như: địa hình, mặt nước (sông, hồ) bị suy giảm.
Đà Nẵng, đã đầu tư xây dựng các khu công viên cây xanh như: khu công viên Khuê Trung, Công viên biển cuối tuyến đường Phạm Văn Đồng, các khu cây xanh gắn với trung tâm thể thao giải trí ở khu vực quân Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Bà Nà - Suối mơ, ven sông Hàn, đường 2/9, đường cách mạng tháng tám...
- Hình thành các công viên rừng và bảo tồn thiên nhiên tại Sơn Trà, Phước Tường, Bà Nà - Núi Chúa, Đồng Nghệ...
- Chỉ tiêu đất cây xanh đô thị :8-10 m2/người, được xác định và dành đất tại các đồ án quy hoạch.
2. Về đa dạng sinh học.
Việt Nam nói chung và các đô thị lớn nói riêng, nằm ở vùng nhiệt đới được coi là trung tâm có mức đa dạng sinh học cao nhất thế giới.
* Thủ đô Hà Nội
Thủ đô Hà Nội, hiện có 3 khu rừng đặc dụng, đó là rừng quốc gia Ba Vì, rừng đặc dụng Hương Sơn, rừng Sóc Sơn với sự đa dạng về hệ sinh thái và sự đa dạng về các loại động thực vật. Mục tiêu của thành phố phấn đấu đến năm 2015 độ che phủ của rừng phải đạt từ 70-75 %. Định hướng đến năm 2020, thành phố Hà Nội phải bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững đa dạng sinh học về giống, loài, nguồn gien, sinh vật và hệ sinh thái phong phú; giảm thiểu các hoạt động khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên và các đe doa khác đến đa dạng sinh học nhằm góp phần phát triển kinh tế - ã hội, nâng cao mức sống cho người dân khu vực nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái và cung cấp các dịch vụ môi trường của thành phố. Để thực hiện được những mục tiêu trên, thành phố Hà Nội đã đưa ra những giải pháp nâng cao nhân thức của mọi người dân, các tổ chức về tầm quan trọng, giá trị của nguồn tài nguyên, tham gia bảo tồn, sử dụng đa dang sinh học như: hoàn thiên hệ thống tổ chức, cơ chế, chính sách bảo tồn đa dạng sinh học, đầu tư nâng cấp các khu bảo tồn thiên nhiên...
Đất đai, khí hậu Hà Nội thích hợp nhất với nhiều loại cây trồng từ nhiệt đới, á nhiệt đới đến ôn đới (rau, hoa, quả, củ khoai tây thích hợp vụ đông). Nhiều loại cây rừng bản địa hay du nhập phát triển rất tốt trên đất Hà Nội. Nhà nghiên cứu thực vật Hà nội, giáo sư Vũ Quang Chuyên bước đầu đã thống kê, giám định được 1049 loài cây trồng có mặt trên địa bàn Hà Nội, tuyệt đại đa số là cây bản địa, cây rau màu thực phẩm.
Theo tập 6, Bách khoa thư Hà Nội do PGS.TS Nguyễn Đức Khiển chủ biên cho thấy
- Hà Nội có 411 loại cây |
|
- Cây trồng làm cảnh có hoa đẹp |
32 loại |
- cây trồng thành bồn ở các vườn hoa gồm |
20 loại |
- cây có hoa đẹp thường gặp |
52 loại |
- cây có hoa đẹp ít gặp |
27 loại |
- Hoa nhập nội |
4 loại |
- Một số cây nhầm lẫn với lan |
4 loại |
-Dây leo làm cảnh |
30 loại |
- Cây bụi |
37 loại |
- Cây làm hàng rào |
26 loại |
- Cây gô |
87 loại |
- Cây gô trồng làm cảnh |
58 loại |
- Danh mục cây lưu niệm Hà Nội |
77 loại |
- Danh mục cây bóng mát |
148 loại |
- Cây ăn quả hà Nội |
76 loại |
- Danh mục một số cỏ thường gặp ở Hà Nội |
62 loại |
- Cây họ đậu làm thức ăn cho gia súc |
34 loại |
Ngoài ra Hà Nội còn có nhiều vườn hoa công viên vui chơi, tập thể dục của nhân dân. Đặc biệt, là của các cụ già và thanh thiếu nhi:
- Công viên Thống Nhất
- Công viên tuổi trẻ
- Công viên Lý Công Uẩn
- Công viên Lê Nin
- Công viên Chí linh (indiraGandi)
-Vườn bách thảo
-Vườn thủ lệ
- Vườn hoa Parteur
Rất nhiều địa điểm để mọi người nghỉ ngơi, du lịch cuối tuần như: suối Hai, Đồng Mô, Ngải Sơn, Sóc Sơn, Sơn tây...
a. Số lượng loài và số lượng cá thể trong các chuồng nuôi tại vườn thú Hà Nội
Hiện nay, vườn thú hà nội đang nuôi dưỡng gần 600 cá thể động vật, thuộc 93 loài được nuôi dưỡng trong 48 chuồng. Trong đó, có 36 loại thú, 48 loài chim, 9 loại bò sát, lưỡng cư. Bao gồm 163 con thú, 490 con chim và 30 con bò sát, lưỡng cư (chưa kể số lượng về cá).
Còn một số khía cạnh chưa hợp lý ở vườn thú Hà Nội, ở một số chuồng đang nuôi chung một số loài và số cá thể quá lớn như: Chuồng chim tổng hợp (chuồng số 3) nuôi nhốt chung trên 10 loại với 64 cá thể (tuy có phân ra một số ngăn). Trong đó, có nhiều nhóm sinh thái rất khác nhau như chim nước (già đẫy, cò, xít...), chim rừng (cu gáy, các loài gà...), chuồng chim nhỏ (chuồng số 20) nhốt 76 con của nhiều loại trên diện tích 27 m2, chuồng khỉ vành (chuồng số 45) nhốt 16 cá thể trên diện tích 32,5 m2.
b. Hiện trạng chuồng nuôi động vật
Vườn thú Hà Nội, hiện nay có 48 chuồng nuôi động vật với tổng diện tích 12056 m2 (trong đó có một khu cách ly) được đánh số từ 1 đến 48. Dưới đây, là danh sách các loại thú đang được nuôi tại vườn thú Hà Nội.
vọc xám |
Gà cảnh |
Gà lôi vằn |
Cầy mực |
Rùa |
quạ đen |
Chim nhỏ |
báo gấm |
Chim tổng hợp |
Mèo cảnh |
Gà lôi lam |
voi |
Đà Điểu |
gà tre |
Khỉ vàng |
Thú ăn thịt lớn (hổ, sư tử, gấu) |
Yểng |
kền kền |
nhím |
khướu |
Sóc bụng đổ |
công |
khỉ mặt đỏ |
Nai |
Ghép hươu |
Khỉ đuôi dài |
Khỉ mốc |
Hươu |
Mèo rừng |
Cầy vòi đốm |
Dê, cừu |
ngựa hoang |
Beo lửa |
Hoẵng |
Bò tót |
Lửng chó |
Vườn quốc gia Ba vì (Bavi national Park) được thành lập ngày 18/12/1991 nằm trong địa phận huyện Ba vì, Hà Nội. Tổng diện tích quản lý 7.337 ha. Thảm thực vật gồm 3 kiểu: rừng kín thường xanh ẩm ,á nhiệt đới, núi thấp. Hệ thực vật phong phú gồm: 812 loài thực vật bậc cao thuộc 99 họ, 472 chi. Trong đó, cây quý hiếm có 8 loài, cây thuốc so 196 loài, cây đặc hữu của Ba Vì có hai loài: Cà lồ Ba Vì và Bời lời Ba Vì. Hệ động vật gồm 113 loài chim thuộc 17 bộ, 17 loài lưỡng cư, 41 loài bò sát, 86 loài côn trùng, 45 loài thú thuộc 10 bộ, trong đó có 9 loài được coi là quý hiếm và đưa vào Sách đỏ Việt nam: Culi lớn, chồn bạc má Bắc, gấu ngựa, cầy ngựa, cầy vừng, cầy mực, sơn dương, tê tê vàng, sóc bay, trâu và sóc đen.
Nguồn: T/c