Vậy văn hóa học dựa trên tiêu chí nào để xây dựng cấu trúc ngành học? Làm thế nào để việc nghiên cứu văn hóa không thiên về các sự kiện quá khứ của sử học, không quẩn quanh trong các khái niệm về vũ trụ quan hoặc nhân sinh quan của triết học, không đi vào các hiện tượng xã hội đương đại của xã hội học… mà có thể nhận thức các quy luật phát triển xã hội bằng cái nhìn xuyên suốt lịch sử, vận dụng phương pháp “cắt lớp” theo từng phân đoạn không gian và thời gian để từ đó xác định vai trò của các chủ thể văn hóa trong tiến trình phát triển.
Nói đến quy luật là đề cập đến các nguyên lý, vì chỉ khi nào thống nhất được nguyên lý mới có thể xác định các nội dung của ngành học. Mặt khác, có nắm vững các nguyên lý văn hóa thì mới có thể nghiên cứu, ứng dụng văn hóa học vào thực tiễn đời sống, làm cho văn hóa học không chỉ là bộ sưu tập các di sản quá khứ. Chẳng hạn, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta, văn hóa học đô thị có thể góp phần nhận thức các quy luật, khái quát các điều kiện, đặc điểm, tác nhân của quá trình đô thị hóa tạo lập môi trường sống nhân văn ở thành thị.
1. Các đặc tính của văn hóa
Quan niệm phổ biến hiện nay coi văn hóa là tổng hòa các giá trị sáng tạo của xã hội loài người. Song theo chúng tôi, trước hết, cần coi văn hóa là hệ quả phát triển tất yếu các mối quan hệ của xã hội loài người; trên cơ sở đó quan niệm về sự tổng hòa là quá trình phát triển theo cấp số nhân, mang ý nghĩa tập đại thành các thành quả mang dấu ấn của từng thời đại. Có hai loại quan hệ cơ bản, giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người. Sự tổng hòa của văn hóa không giống như món “lẩu” thập cẩm hoặc là dấu cộng toàn bộ các dấu ấn lịch sử, các nhận thức triết học, tư tưởng, đạo đức, ứng xử hoặc là các công trình kiến trúc, di tích, kỹ thuật hạ tầng hay các hình tượng văn học, giá trị nghệ thuật, ngôn ngữ, căn tính tộc người….
Văn hóa là tiến trình vận động liên tục theo một quỹ đạo gần như đã được định sẵn, trong đó các giá trị văn minh là tác nhân động lực. Văn minh là điều kiện tiền đề, là thước đo tạo nên sự cân bằng, là tiêu chuẩn định vị trình độ phát triển của văn hóa. Văn minh là bộ phận toàn vẹn, không tách rời của văn hóa; văn hóa với tư cách nền tảng có thể coi là “bà đỡ” của xã hội văn minh. Nói cách khác, một tổ chức cộng đồng được coi là văn minh khi đạt đến các tiêu chuẩn phát triển đời sống văn hóa. Dường như chúng ta đã thiếu công bằng, dẫn đến nguy cơ hụt hẫng tụt hậu khi, hoặc là, quá nhấn mạnh các yếu tố đặc thù thuộc bản sắc dân tộc của văn hóa mà xem nhẹ yếu tố phổ quát, động lực phát triển của văn minh; hoặc ngược lại, quá chú trọng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà bỏ qua các đòi hỏi thích ứng của đô thị hóa nhằm tổ chức xây dựng môi trường sống nhân văn.
Văn hóa, do vậy, là sự kết tinh các phương diện của đời sống theo các trình tự và cách thức nhất định để vươn tới yêu cầu thể hiện các giá trị của nền văn minh. Nói cách khác, có thế khái quát văn hóa mang các đặc tính tổng hòa, vận động và mục đích. Tính tổng hòa làm cho các giá trị văn hóa có ý nghĩa toàn diện, vượt lên không gian và thời gian; tính vận động làm cho dòng chảy văn hóa luôn tiến về phía trước, theo quy trình thuận của tiến trình, tức là sự vận động theo nhu cầu của chính nó. Đó không phải là cách ban phát - lãnh nhận theo kiểu bao cấp “của trời cho” hoặc áp đặt theo quy trình ngược từ trên xuống; tính mục đích đòi hỏi văn hóa luôn thỏa mãn các nhu cầu ngày càng phong phú của con người, đạt tới các tầm với chân – thiện – mỹ ngay chính trong đời sống hiện thực.
Trong khi tính vận động và tính mục đích quy định dòng chảy hiện thực của văn hóa thì tính tổng hòa làm cho văn hóa không cắt đứt với truyền thống. Về nguồn là hồi tưởng về quá khứ, là dòng chảy ngược của nhận thức bắt nguồn từ cái “quả” (effect) để tìm đến cái “nhân” (cause). Về nguồn thể hiện giá trị đặc sắc của ký ức, thuộc về văn hóa tâm linh mang nhiều dấu chỉ tích cực của nguồn sống, chưa được chú ý khai thác đầy đủ. Song mặt khác, về nguồn không hiếm khi là trở về với các giá trị già cỗi, lạc hậu, thiếu thực chất hoặc không còn thích ứng với các giá trị của đời sống thực. Người ta có thể sống vì ngày hôm qua, song chỉ có những người mắc chứng tâm bệnh hoang tưởng mới sống cho hoặc như ngày hôm qua.
Trong quy luật vận động của văn hóa, có thể phân biệt hai tiến trình: sinh học thuộc về bản năng tự nhiên và văn hóa thuộc về giá trị nhận thức. Tính mục đích làm cho văn hóa không lững lờ, mông lung, trừu tượng mà bao giờ cũng vận động trong các dòng chảy hiện thực. Tính mục đích biểu hiện phương diện ứng xử (behavior) rất đặc trưng của loài người, gồm hai nhân tố: tham dự (shared) và học hỏi (learned), làm cho cá thể không tách rời cộng đồng, tuân thủ các lề thói, chuẩn mực, quy tắc thuộc về quyết định luận văn hóa (cultural determinism). Tính mục đích gắn với cộng đồng làm cho động cơ (motive) văn hóa cá nhân có thể vươn lên tầm cao của các giá trị chân – thiện – mỹ.
2. Các nguyên lý văn hóa học
Có thể có nhiều hình thức, phạm trù hoặc nguyên lý trong nghiên cứu văn hóa học, ở đây chúng tôi chỉ đề cập một số nguyên lý thông dụng, có mối tương quan lẫn nhau.
- Nguyên lý hai mặt và biện chứng: Các đặc tính của văn hóa không đứng riêng rẽ mà luôn hòa quyện, tác động, kể cả phủ định lẫn nhau, làm cho văn hóa có nguyên lý hai mặt và biện chứng. Tính hai mặt của văn hóa quy định một hiện tượng hoặc giá trị văn hóa luôn bao gồm hai khía cạnh: cái chung và cái riêng, phổ biến và đặc thù; tính biện chứng của văn hóa chỉ ra cái cốt lõi “tuy hai mà một” của hiện tượng ấy. Cái chung là mặt tiến bộ được coi là nền tảng, làm tác nhân và động lực cho cái riêng; cái riêng là mặt phong hóa thuộc về tính cách, cấu thành bản sắc, làm cho văn hóa có sắc thái vừa đa dạng vừa đặc trưng. Sự kết hợp và tương tác giữa hai yếu tố này qua các tiến trình thời đại, hình thái, cấu trúc, chức năng, làm cho văn hóa có bộ mặt muôn màu muôn vẻ.
Điều lưu ý là tính hai mặt này của văn hóa không cùng tồn tại song song một cách hòa bình, mà luôn tương tác, kể cả phủ định lẫn nhau trở thành căn nguyên của tiến bộ. Có thể kể ra nhiều cặp phạm trù thể hiện tính hai mặt và biện chứng của văn hóa, chẳng hạn: mặt biểu hiện và mặt tiềm ẩn, làm cho văn hóa vừa có phần xác vật thể, vừa có phần hồn phi vật thể; tính tiên tiến và tính lịch sử làm cho văn hóa luôn biến thiên đầy sức sống; tính động và tính tĩnh quy định các trạng thái vận động của văn hóa ở dạng tính năng và thể năng, hoặc tiềm tàng như có như không, vừa cương vừa nhu, vừa đột biến vừa tiệm tiến,v.v.
- Nguyên lý tương tác và toàn vẹn: Có thể coi tính hai mặt và biện chứng là thuộc tính và là nguyên lý cơ bản của văn hóa. Từ nguyên lý này có thể vận dụng để nhận biết mối quan hệ tương tác và toàn vẹn của văn hóa, tiêu biểu nhất là cặp phạm trù văn hóa và văn minh. Cho đến nay vẫn có quan niệm cho rằng văn hóa thuộc đời sống tinh thần, còn văn minh thuộc đời sống vật chất; hoặc khu biệt văn minh thuộc về trình độ khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến, khác với văn hóa là cái “bất biến” của bản sắc thuộc về đời sống tinh thần…
Việc tách rời riêng rẽ từng lĩnh vực một cách phân tán, không đặt trong mối quan hệ tương tác và toàn vẹn của một chỉnh thể theo nguyên lý văn hóa học có khả năng làm mất đi sự gắn bó đồng bộ hữu cơ, có thể dẫn đến thiếu điều kiện và động lực phát triển các mặt hoạt động.
- Nguyên lý tương hợp và thích ứng: Một tộc người, mặc dù đang ở trình độ sơ khai, không thể bị đánh giá thấp về văn hóa theo các tiêu chuẩn văn minh của thời đại, là vì nền văn hóa tộc người ấy thể hiện các giá trị biểu trưng mang tính toàn vẹn từ bên trong đời sống của cộng đồng, làm cho văn hóa trường tồn trong một phạm vi không gian và thời gian. Tuy nhiên, trường tồn không có nghĩa đứng im mà đòi hỏi luôn vận động thích ứng với mọi sự biến đổi. Nguyên lý tương hợp và thích ứng biểu hiện tính vận động của văn hóa. Văn minh nối tiếp văn minh làm cho “cây đời” liên tục biến thiên qua bốn mùa xuân – hạ - thu – đông. Văn hóa cũng vậy, có những bộ phận cần chết đi theo quy luật sinh học thoái hóa để được sống lại, vì cho dù có đánh phấn tô son hoặc khua chiêng gióng trống cũng không thể phục hồi diện mạo trơ trơ vô hồn.
Văn hóa dân tộc chỉ có nhựa sống và khí sắc khi có đủ nội lực thích ứng với các giá trị phổ biến của nền văn minh từ bên ngoài. Quá trình giao lưu và tiếp biến vừa có mặt tương hợp - hỗn dung về văn hóa, vừa có mặt thích ứng - hội nhập về văn minh. Quá trình này là tích cực hay tiêu cực không tùy thuộc “bản sắc” đậm hay nhạt, mà do năng lực thích ứng của chủ thể văn hóa khi tiếp biến với các nguồn lực từ bên ngoài.
- Nguyên lý tiên tiến và lịch sử: Văn hóa vận động theo tiến trình không khác với quy luật tuần hoàn của giới tự nhiên, gồm hai mặt tương phản: ngày – đêm, sống – chết, mới – cũ, trước – sau, còn – mất… có thể khái quát thuộc về nội hàm của nguyên lý tiên tiến và lịch sử. Tiêu chí tiên tiến bao gồm các thành quả của nguồn lực bên trong tương hợp với các nguồn lực từ bên ngoài (acculturation). Tiên tiến không chỉ đơn thuần mang các giá trị tinh thần truyền thống như lòng yêu nước một cách chung chung, cũng không là cái xu thời ngoại lai hoặc thiên về các tiện ích văn minh vật chất kỹ thuật. Tiên tiến là sự dung hợp, thích ứng với các giá trị văn minh, hình thành các chuẩn mực, quy tắc của đời sống xã hội, ở từng giai đoạn phát triển khác nhau. Còn tiêu chí lịch sử của văn hóa không hẳn là các sự kiện được xếp đặt lại có trình tự, mà đó là các tàn tích (survivals) còn sót lại, dấu chỉ chứa đựng các giá trị vật thể, phi vật thể của một thời đã qua.
Nguyên lý tương hợp và thích ứng của văn hóa đặt ra vấn đề tồn tại song song giữa một bên là cái tiên tiến thuộc thời đại và bên kia là cái bản sắc thuộc lịch sử. Bản sắc vốn không ngoài là cái tiên tiến của một thời đã qua, không hoàn toàn vô giá trị vì tiềm ẩn bên trong cái hồn của di sản quá khứ. Song nguyên lý tiên tiến và lịch sử của văn hóa quy định cái tiên tiến của ngày hôm nay không hẳn là tiên tiến của ngày mai mà có khi hoặc nên trở về với các giá trị lịch sử. Ở đây cần phân biệt giữa truyền thống và cổ truyền. Truyền thống thể hiện yếu tố toàn vẹn của bản sắc, thuộc về tính cách, chủ yếu có giá trị về mặt tinh thần trong đời sống hiện tại; cổ truyền thể hiện các đặc trưng thuộc về ký ức của thời đại đã qua được gìn giữ, có thể còn ít giá trị về văn hóa, song ít còn can dự với đời sống thực.
3. Văn hóa học đô thị – môn học nhận thức quy luật phát triển đời sống nhân văn
Tuy “sinh sau đẻ muộn”, song văn hóa và văn hóa học có ảnh hưởng bao quát đến mọi phương diện của đời sống và có mặt trong phạm vi ứng dụng thực tiễn của các ngành học khác. Nếu văn hóa thể hiện tính nhân văn trong các hoạt động của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội thì văn hóa học có thể xem là ngành học mang tính nhân văn triệt để nhất. Các thành tựu của các ngành khoa học đều thuộc về thành quả văn hóa của nhân loại, với tư cách là sản phẩm tri thức của con người ở dạng trực tiếp và gián tiếp. Tri thức trực tiếp nắm bắt các quy luật vận động của tự nhiên hoặc các sự vật, hiện tượng xã hội, các vấn đề liên quan đến con người; tri thức gián tiếp chính là sự nhân cách hóa, mô phỏng thế giới vận động của tự nhiên, hoặc hình tượng hóa, mỹ hóa hiện thực xã hội, làm cho đời sống con người ngày càng phong phú.
Văn hóa học đô thị có đối tượng nghiên cứu là thành thị và quá trình đô thị hóa, nhằm tạo lập môi trường sống nhân văn của con người, trong thế giới tự nhiên và xã hội. Thành thị là tấm áo khoác vật chất, nơi con người sinh cơ lập nghiệp. Đó là thế giới tự nhiên thu nhỏ do con người tạo tác, là khoảng không gian tự nhiên được con người khuất phục, chiếm hữu. Thành thị thuộc phạm trù văn hóa nên mang tính kế tục, tự cổ chí kim, từ khoảng không gian sinh tồn (oeukoumène) đến các hình thái đô thị, với các chức năng khác nhau qua từng thời kỳ, biểu hiện tính đa dạng của diện mạo văn hóa đô thị. Con người là nhân vật trung tâm của văn hóa, thành thị chỉ là cái vỏ vật chất bề ngoài. Đối tượng nghiên cứu văn hóa học đô thị là tìm hiểu “cái nôi” nơi con người trưởng thành, tách dần khỏi môi trường sống phụ thuộc vào tự nhiên để tự tạo lập môi trường sống của chính mình; nghiên cứu quá trình đô thị hóa ở các điểm tiếp giao trên trục tọa độ không gian và thời gian, nơi biểu hiện các mối quan hệ xã hội và các phương diện của đời sống qua từng thời kỳ.
Căn cứ các hình thái kinh tế - xã hội qua các thời kỳ có thể nhận biết một số hình thái thuộc về văn hóa đô thị như: văn hóa hang động, văn hóa nhà dài, nhà rông, văn hóa làng, văn hóa chợ, văn hóa thành thị. Mỗi hình thái đô thị tương ứng với từng giai đoạn văn minh khác nhau, có các chức năng khác nhau, trong đó việc phát triển công nghiệp cơ khí và quá trình toàn cầu hóa về mặt giao thương được coi là thời kỳ đỉnh cao xuất hiện văn minh thành thị, có khả năng tác động dây chuyền lên toàn bộ mọi phương diện, đánh dấu giai đoạn phát triển theo chiều ngang về lượng đến chiều sâu về chất, trở thành xu thế tất yếu nâng cao chất lượng sống ngày càng văn minh của loài người.
Trong thời kỳ hiện nay, các nước công nghiệp mới (NICs) đi theo lộ trình đô thị hóa kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, tức là vừa mở rộng đô thị dưới các hình thức khác nhau, vừa chú ý các vấn đề nâng cao chất lượng sống của thị dân, nhằm rút ngắn tiến trình đô thị hóa. Trong khi đó, nước ta đặt mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên cơ sở sự nghiệp “chiến lược” công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu trở thành một nước công nghiệp trong vòng hai thập niên nữa. Giữa mục tiêu và chiến lược phấn đấu có một khoảng cách vì không đồng hành theo nguyên lý tương tác và toàn vẹn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo nên tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật, phù hợp với thời đại văn minh cơ khí, là “cú hích” mang giá trị định lượng; còn đô thị hóa gắn với yếu tố con người và các dịch vụ tiện ích đảm bảo chất lượng sống thuộc về giá trị định tính, mới là nơi thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tiền đề chỉ là phương tiện, không ai lấy tiền đề làm mục tiêu. Để thực hiện “đi tắt đón đầu”, cần xác định đúng mục tiêu để chọn lộ trình phù hợp.
Vận dụng các nguyên lý văn hóa trong nghiên cứu văn hóa học đô thị còn góp phần xây dựng hiệu quả các phong trào hoạt động văn hóa ở thành thị. Ngoài ra, lịch sử phát triển thành thị gắn với quá trình quy hoạch đô thị (urbanism) với các hình thái phù hợp trong môi trường tự nhiên và xã hội. Song ở nước ta, điều đáng tiếc là bộ môn quy hoạch đô thị đậm tính nhân văn lại không thuộc ngành khoa học xã hội mà lâu nay vẫn “ăn nhờ ở đậu” bên ngành kỹ thuật kiến trúc. Hãy trả lại cho văn hóa học cái gì thuộc văn hóa, trong đó văn hóa học đô thị là môn học mang tính lý luận và thực tiễn khá tiêu biểu và cần thiết trong giai đoạn phát triển hiện nay của nước ta.-
Nguồn : Tác giả 12/2000 + vanhoahoc.edu.vn
Tài liệu tham khảo
1. Morton H. Fried, Readings in Anthropology, 2nd Ed., Vol.II: Cultural Anthropology. Edward Burnett Tylor, The Science of Culture, tr.1-18; Morris E. Opler, The Human Being in Culture Theory, tr.19-42; Leslie A. White, Man’s Control over Civilization: An anthropocentric illusion, tr.43-61.
2. Lowell D. Holmes, Anthropology – An Introduction: The Concept of Culture, tr.74-119.
3. John Gulick, Urban Anthropology: Its present and future, tr.552-564.
4. Mumford, Technique et Civilisation, bản dịch của Denise Moutonnier, Ed. du Seuil, 1950.
5. Mumford, La cité à travers l’histoire, (The City in History, 1961), Ed. du Seuil, 1964.
6. Pierre George, La ville, le fait urbain à travers le monde, PUF., 1952.
7. Jean Fourastié, La Civilisation de 2001, PUF., 1947, 11è Ed., 2/1982.
8. Jean Louis Harouel, Histoire de l’urbanisme, PUF., 1981.
9. Georges Olivier, L’écologie humaine, PUF., 1975, 1980.
10. Paul Chauchard, Sociétés animales, Société humaine, PRF., 1956.
11. Eric Cobast, Lecons particulières de culture générale, PUF., 1992.
12. Tạ Văn Thành, Văn hóa và phát triển : phổ biến và đặc thù, Tc. KHXH TP.HCM, số 38, IV/98, tr.155-158.
13. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 1999.
14. Trần Ngọc Khánh, Văn hóa – văn minh, tuy hai mà một, Tc. KHXH TP.HCM, số 38, IV/98, tr.150-154.
15. Trần Ngọc Khánh, Văn hóa đô thị và yêu cầu chuẩn mực hóa các quy tắc và nếp sống trong quá trình đô thị hóa, Tc. Văn hóa Thông tin cơ sở, Hà Nội, số 47, 9/1999, tr.12-13.
16. Trần Ngọc Khánh, Văn hóa đô thị và vấn đề xây dựng văn hóa cơ sở ở nông thôn ngoại thành TP.HCM, Tc. Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, số 6/2000, tr.17-25.