1. Đô thị hóa - kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trước năm 1990, các đô thị ở Việt Nam phát triển chậm, số dân đô thị chỉ chiếm 7,4% (năm 1930), 10,96% (năm 1955) và 19,79% (năm 1989); quy mô đô thị nhỏ bé và tính chất không thuần nhất. Từ năm 1990 đến nay, do tác động của quá trình phân công lao động giữa các vùng, các ngành nghề trong nước, đặc biệt giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, khu vực đô thị đã có sự tăng trưởng đáng kể, nhất là ở các trung tâm kinh tế - xã hội lớn của đất nước như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị trung tâm vùng như Hải Phòng, Hạ Long, Đà Nẵng… Hiện nay, cả nước có 673 đô thị, trong đó có 5 thành phố trực thuộc trung ương, trên 30 thành phố trực thuộc tỉnh, 60 thị xã và trên 500 thị trấn. Bước đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung tâm quốc gia và khu vực: các đô thị trung tâm quốc gia gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế; các đô thị trung tâm vùng liên tỉnh gồm các thành phố loại hai như Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột, Nha Trang, Vinh, Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ Long và Hoà Bình; các đô thị trung tâm tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm hành chính - chính trị, kinh tế,văn hóa, du lịch - dịch vụ, đầu mối giao thông; các đô thị trung tâm huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn và các đô thị mới. Nhìn chung các đô thị ở nước ta đang phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng và đảm nhiệm được vai trò trung tâm phát triển công nhiệp, tiểu thủ công nghiệp, chuyển giao công nghệ, thương mại - du lịch - dịch vụ, trung tâm phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đóng góp vào ngân sách nhà nước.
2. Những tồn tại trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay
Một là, cơ sở kinh tế - kỹ thuật, động lực phát triển đô thị còn yếu; tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với tỷ lệ tăng dân số đô thị; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động không có việc làm ở khu vực thành thị còn cao. Dự báo, đến năm 2020, dân số khu vực đô thị sẽ vào khoảng 46 triệu, chiếm 45% dân số cả nước. Trong khi vấn đề lao động, việc làm ở đô thị chưa được giải quyết, thì tình trạng đô thị hóa nhanh đã đẩy một bộ phận lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị, tạo thêm gánh nặng cho khu vực đô thị. Hiện nay, dân cư nông thôn đang tự di cư vào thành thị để kiếm sống mà Nhà nước chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Thành phố Hồ Chí Minh có trên 2 triệu người nhập cư; ở Hà Nội, trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm có khoảng 60.000 người nhập cư vào Thành phố. Sự xâm nhập của các giá trị văn hóa nông thôn vào đô thị đã và đang tạo ra sự pha trộn phức tạp về văn hóa đô thị.
Hai là, tình trạng sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích xây dựng đô thị thiếu kế hoạch có thể dẫn đến nguy cơ về an ninh lương thực quốc gia. Dự báo đến năm 2020, diện tích đô thị vào khoảng 460.000 ha, chiếm 1,4 % diện tích đất tự nhiên cả nước. Mục tiêu đảm bảo 40 triệu tấn lương thực cho 100 triệu dân khó có thể đạt được.
Ba là, sự chênh lệch về văn hóa và mức sống giữa các tầng lớp cư dân đô thị ngày càng lớn, dẫn đến sự mất cân bằng trong sinh thái đô thị, nhất là giữa dân số và việc làm, giữa dân số và thu nhập, giữa dân số và kết cấu hạ tầng… Cơ chế thị trường đã làm cho dân cư đô thị nước ta bị phân hóa sâu sắc, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng bên cạnh tầng lớp nghèo, lang thang cơ nhỡ, sống tạm bợ trong các khu nhà ổ chuột, thiếu các điều kiện tối thiểu, không có cơ hội được hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội. Một kết quả nghiên cứu vấn đề nghèo đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: mức sống của người nghèo thấp hơn người giàu 7 lần. Do thu nhập thấp, các hộ nghèo phải dành 80% thu nhập chi cho bữa ăn hằng ngày (nhưng vẫn không đủ), chỉ còn 20% dành cho học hành, chữa bệnh, đi lại; gần 20% trẻ em trong độ tuổi không được đến trường, cũng gần bằng số đó là con của các hộ nghèo phải bỏ học, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 38,8%.(1) Các vấn đề này tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tình cảm và tâm lý dân cư đô thị, từ đó có thể dẫn đến các phức tạp xã hội. Sự mất cân bằng này cần phải được khắc phục bằng các chính sách về quản lý đô thị của các ngành chức năng và chính quyền các đô thị.
Bốn là, hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị Việt Nam còn rất yếu kém, lạc hậu, không đảm bảo các tiêu chuẩn đô thị hiện đại thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là hệ thống cấp thoát nước, giao thông đô thị và vấn đề nhà ở. Mạng lưới giao thông đô thị chưa phát triển, gây trở ngại cho sự giao thương giữa các địa phương; tỷ lệ đất dành cho giao thông, nhất là giao thông tĩnh ở các đô thị nước ta vào loại thấp nhất thế giới, chưa đạt 5%. Giao thông công cộng chưa phát triển, chỉ chiếm 2-3% nhu cầu vận tải công cộng; xe máy chiếm tỷ trọng lớn, gây ô nhiễm không khí, tiếng ồn và nguyên nhân chính gây tắc nghẽn giao thông. Tỷ lệ phát triển đường của Hà Nội trung bình mỗi năm chỉ đạt 5%, trong khi đó lượng xe máy tăng 20%, lượng ô tô tăng 12%. Việc cung cấp nước sạch mới bảo đảm được cho khoảng 50% số dân đô thị. Hệ thống thoát nước cũ kỹ, lạc hậu thường xuyên gây ra tình trạng úng lụt vào mùa mưa bão và rất mất vệ sinh do nước thải chưa được xử lý.
Năm là, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang thúc đẩy nhanh tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp, khu chế xuất. Các đô thị hàng ngày thải ra khoảng 900 tấn rác, riêng rác thải y tế chiếm 250 tấn. Việc thu gom mới đạt khoảng 60% và hình thức xử lý chủ yếu là chôn cất nên gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, mặt đất và không khí. Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mức độ ô nhiễm môi trường đã vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Còn có khá nhiều nhà máy, xí nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm nằm ở trung tâm thành phố, thị xã và xen kẽ giữa các khu đô thị.
Sáu là, tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, trật tự đô thị chưa được đảm bảo. Theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tỷ lệ tội phạm xảy ra ở khu vực thành thị trung bình hàng năm ở vào khoảng 70-75% so với cả nước, riêng 4 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh) chiếm 45-50%. Trật tự và văn minh đô thị chưa được lập lại, tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, vệ sinh công cộng còn rất phổ biến. Và cuối cùng là, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, không gian văn hóa đô thị bị phá vỡ. Tất cả các vấn đề trên đang tác động làm biến đổi văn hóa đô thị. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do công tác quản lý nhà nước về đô thị và quản lý nhà nước về văn hóa của ta còn yếu kém, bất cập.
3. Một số đặc điểm của văn hóa đô thị ở nước ta
Khác với văn hóa nông thôn, đặc trưng của văn hóa đô thị là sự tập trung dân cư phi nông nghiệp, hình thành những quần thể kiến trúc theo kiểu bàn cờ. Ở thành thị, quan hệ cư trú - ứng xử kết cấu giản đơn hơn ở nông thôn: gia đình - đường phố - xã hội (thông thường ở nông thôn Việt Nam, quan hệ cư trú - ứng xử kết cấu theo kiểu: gia đình - họ tộc - láng giềng - làng xóm - xã hội). Điều đó có nghĩa là: người thành thị khi bước chân ra khỏi nhà đã hoà mình với xã hội rồi. Ở nông thôn, mỗi gia đình có thể tự túc được lương thực, thực phẩm, còn ở thành phố, con người phải phụ thuộc vào dịch vụ… Nhu cầu tiêu dùng của người đô thị thường cao hơn, đa dạng hơn và hướng tới sự khá giả. Vì vậy, dịch vụ công không thể thiếu đối với cư dân đô thị. Đây có thể được xem như là một nét văn hóa đô thị. Trong văn hóa đô thị, do không gian giao tiếp rộng lớn, việc sử dụng các phương tiện giao thông là không thể thiếu và không ngừng tăng lên. Vì vậy, văn hóa ứng xử ngoài đường phố, trên các phương tiện giao thông công cộng cũng được coi trọng như văn hóa ứng xử trong gia đình và trong công sở. Sự phân hóa giàu nghèo ở đô thị hiện nay đang tăng lên đã thúc đẩy việc hình thành nhân cách của các tầng lớp dân cư đô thị, vì vậy văn hóa đô thị là một thể hỗn hợp giữa văn hóa bác học, văn hóa dân gian và văn hóa đại chúng (văn hóa thị dân). Trong khi văn hóa bác học đóng vai trò chủ yếu sản sinh ra các chuẩn mực văn hóa, văn hóa dân gian tạo tiềm năng, môi trường nuôi dưỡng và thể hiện các chuẩn mực văn hóa thì văn hóa thị dân dễ bị tầm thường hóa, dễ dẫn đến chỗ dung dưỡng các hành vi phản văn hóa như mê tín dị đoan, cờ bạc, ma túy, mại dâm. Con người ở đô thị có rất nhiều mối quan hệ, ngoài quan hệ gia đình, thân tộc, hàng xóm, còn có quan hệ đồng nghiệp, đồng hương, bạn hàng, nhóm cùng sở thích…Văn hóa ứng xử của người đô thị có phần thiên về quan hệ trên cơ sở luật pháp và thị trường nhiều hơn, người đô thị sống sòng phẳng và có vẻ “lạnh lùng” hơn.
4. Được và mất trong quá trình đô thị hóa ở nước ta
Đô thị hóa đang làm thay đổi bộ mặt đất nước trên nhiều phương diện. Quá trình đô thị hóa cũng đang làm thay đổi văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa đô thị nói riêng. Quá trình thay đổi văn hóa đô thị đang diễn ra ở các khía cạnh sau:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang làm thay đổi tập quán sản xuất, kinh doanh của người đô thị theo hướng công nghiệp hóa, đa thành phần, đa dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. Sự biến đổi văn hóa sản xuất, kinh doanh đang thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong lĩnh vực văn hóa, xác lập ngày càng đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của người dân, của các nhóm cư dân đô thị trong sáng tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ văn hóa. Người dân đô thị ngày càng chú trọng đến chất lượng các loại hình dịch vụ văn hóa, có nhiều điều kiện để chọn lựa cách thức hưởng thụ giá trị văn hóa. Trong tổ chức đời sống văn hóa, người dân đô thị đã: cơ bản khắc phục được tác phong sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm thuộm, manh mún; hình thành tác phong công nghiệp hiện đại; xây dựng được ý thức chấp hành pháp luật, ý thức công dân và ý thức cá nhân. Xã hội công dân đang manh nha hình thành ở khu vực đô thị. Tuy nhiên, sự tác động của cách thức sản xuất kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề về văn hóa không phù hợp với văn hóa dân tộc như sự thẩm lậu và lưu hành các loại hình văn hóa “trái luồng”, độc hại (sách báo, băng đĩa, sự phát triển thái quá ngoài tầm kiểm soát của các loại hình dịch vụ văn hóa nhạy cảm như ka-ra-ô-kê, vũ trường, in-tơ-nét, báo chí, xuất bản…). Tình trạng văn hóa đọc, viết đang bị mai một là một ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của cư dân đô thị hiện đại. Có rất nhiều người không bao giờ đọc các tác phẩm văn học, tiểu thuyết văn chương, kể cả những tác phẩm được coi là di sản văn hóa nhân loại. Vô tuyến truyền hình, trò chơi điện tử, máy tính, chuyện tranh vẫn sẽ là sự lựa chọn của học sinh, sinh viên và thanh thiếu niên, và điều đó là rất nguy hiểm.
- Đối với cư dân đô thị, kinh tế thị trường thậm chí đã làm thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan, tình cảm và tâm lý của họ. Về mặt tích cực, kinh tế thị trường làm thay đổi thái độ đối với lao động của người thành thị: tất cả phải vươn ra thị trường, tất cả phải kiếm được việc làm, phải có thu nhập, không trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự bố thí của xã hội. Thái độ đối với gia đình, bạn bè, xã hội cũng có sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia và tôn trọng tự do cá nhân (sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật). Người dân thành thị ngày nay đã vượt qua được tính ích kỷ, tự ti của người nông dân và tiểu thương, vượt qua được các ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến. Nhân cách văn hóa người dân đô thị trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tiếp tục được hình thành theo hướng tích cực nhiều hơn, có nhiều đặc trưng khác với nhân cách văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất sẽ là sự hình thành nhân cách công dân với đặc trưng là khẳng định cái “tôi”, cái cá nhân nhiều hơn và ít bị chi phối bởi cộng đồng. Về mặt tiêu cực, với bản chất là cạnh tranh, kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ cho sự nảy sinh và phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ nuôi dưỡng bản năng thấp hèn của con người. Nhiều mối quan hệ chỉ được giải quyết thông qua giá trị của đồng tiền, kể cả quan hệ ruột thịt trong một gia đình. Một bộ phận cư dân đô thị có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ, công chức và thanh niên, học sinh, sinh viên.
5. Một số biện pháp trước mắt
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển đô thị đến 2020 và các năm tiếp theo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát triển bền vững, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển đô thị phải coi trọng bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, các công trình kiến trúc và danh lam thắng cảnh, phát triển đô thị theo kiến trúc hiện đại kết hợp với kiến trúc truyền thống.
Thứ hai, khẩn trương hoàn thiện quy hoạch không gian văn hóa đô thị (nội đô và ven đô) đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phải tạo ra được các thiết chế văn hóa - thông tin của Nhà nước và xã hội trong một không gian văn hóa hợp lý. Đối với vùng ngoại ô, việc quy hoạch không gian văn hóa nên xây dựng tập trung, ở nội đô có thể phân tán nhưng phải đảm bảo sự liên hoàn giữa các khối kiến trúc.
Thứ ba, khuyến khích sáng tạo văn hóa đô thị bằng các chính sách ưu tiên đầu tư cho sáng tác, thẩm định và quản lý hoạt động biểu diễn, triển lãm, xuất bản, báo chí cả chuyên nghiệp và nghiệp dư. Tập trung ưu tiên đầu tư cho các hoạt động văn hóa ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn, xây dựng các thành phố này trở thành các trung tâm văn hóa quốc gia và khu vực.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa đô thị, kết hợp với công tác phòng chống các biểu hiện và hành vi phi văn hóa, bài trừ tệ nạn xã hội. Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật về văn hóa. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật về văn hóa đang phân tán (quản lý bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; quản lý hoạt động văn hóa chuyên nghiệp và quần chúng; quản lý dịch vụ văn hóa; quản lý môi trường văn hóa và xây dựng gia đình văn hóa), chưa được quy định trong một bộ luật thống nhất. Đẩy mạnh việc phân cấp công tác quản lý văn hóa theo hướng tăng cường cho cấp quận và phường kết hợp công tác kiểm tra, phòng ngừa, phát hiện, xử lý các vi phạm, phòng chống tệ nạn xã hội và chống xâm nhập các nguồn văn hóa lai căng, xa lạ với văn hóa dân tộc.
Thứ năm, đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng- văn hóa, kiên quyết phản bác các luận điệu sai trái phản cách mạng thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Chú thích:
(1)Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ, 2005, Đô thị hóa và vấn đề giảm nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội.
Nguồn: Nghiên cứu-Trao đổi, số 17 (137) 2007