1. Một vài vấn đề lí thuyết chung
1.1. Có bốn nguyên lý cơ bản của tư duy đảm bảo cho lập luận đúng quy luật, chặt chẽ và rõ ràng đó là: nguyên lí đồng nhất, nguyên lí phi mâu thuẫn, nguyên lí bài trung và nguyên lí lí do đầy đủ. Tuy nhiên, triết học có nói: “Sự sáng tạo bao hàm sự phá vỡ như một quy luật tất yếu”, nên tìm ra bốn nguyên lí cơ bản của tư duy, đồng thời con người cũng tìm ra lí do để phá vỡ chúng phục vụ cho những mục đích nhất định. Truyện cười Việt Nam hiện đại phá vỡ bốn nguyên lí cơ bản của tư duy là nhằm mục đích tạo ra tiếng cười.
Nói về thủ pháp gây cười do sự vi phạm bốn nguyên lý này trong truyện cười nói chung, đã có nhiều tác giả bàn tới và gọi bằng những cái tên khác nhau. Đứng trên phương diện lô-gic, tác giả Đặng Hồng Nhung [4] khẳng định đó là một trong những phương thức gây cười của lô-gic học hình thức. Khi bàn về các bộ phận trong một lập luận, Diệp Quang Ban cho rằng: “nhận định về một lập luận đúng đòi hỏi những “luật” rất khắt khe trong lô-gic hình thức, như luật đồng nhất, luật bài trung, luật (không) mâu thuẫn, có thế mới lí giải được những trường hợp “ngụy biện” [1, tr322]. Như vậy, trong nhận định của mình, Diệp Quang Ban đã ngầm gọi sự vi phạm các nguyên lý cơ bản của tư duy bằng cái tên “ngụy biện”. Với ông, các nguyên lý hay còn gọi là các “luật” rất khắt khe đảm bảo cho một lập luận ĐÚNG. Nếu vi phạm các “luật” đó (chưa bàn tới vô tình hoặc cố ý) thì chúng ta có sự ngụy biện. Nguyễn Đức Dân cũng sử dụng khái niệm “ngụy biện” nhưng nội hàm khái niệm này của ông rộng hơn, bao gồm cả sự vi phạm bốn nguyên lý cơ bản của tư duy và sự sai lầm trong suy luận [2]. Ngụy biện là lối lập luận quanh co, vi phạm luật lô-gic nhằm làm cho người khác hiểu sai sự thật. Những người ngụy biện thường dùng mọi thủ thuật để đánh lừa người khác bằng cách dựa vào những chỗ giống nhau bề ngoài để đánh tráo khái niệm, đánh tráo đối tượng, đánh tráo tư tưởng,… Trong bài viết này, chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ “ngụy biện” trong một số trường hợp cụ thể vì thuật ngữ này mang tính tiêu cực và có chủ ý của người nói, không hoàn toàn phù hợp với mọi loại diễn ngôn truyện cười. Thêm vào đó, dù được gọi bằng các tên gọi khác nhau, song bản chất của sự vi phạm các nguyên lý cơ bản của tư duy trong truyện cười đã mở đường cho một cách hiểu khác, “đánh lừa” độc giả để độc giả đi từ khoái cảm nhận biết đến khoái cảm phát hiện và kết thúc ở khoái cảm thắng lợi (chữ dùng của Chu Thị Thanh Tâm [7]).
1.2. Nguyên lý đồng nhất của tư duy yêu cầu một sự vật phải luôn đồng nhất với chính nó. Trong quá trình tư duy về đối tượng, không được tùy tiện thay đổi hình thức chữ viết (âm đọc) hay ý nghĩa của đối tượng. Truyện cười Việt Nam hiện đại thường tồn tại ở dạng hội thoại nên đối tượng được truyền từ lượt lời này sang lượt lời khác, từ tư duy của người này sang tư duy của người khác. Đó là cơ hội để nhân vật giao tiếp có thể thay đổi, đánh tráo đối tượng phục vụ cho chiến lược giao tiếp của mình. Chính sự thay đổi, đánh tráo đó tạo nên bước ngoặt tư duy bất ngờ khiến cho người đọc bật lên tiếng cười sảng khoái. Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi rút ra một số thủ pháp đánh tráo đối tượng tư duy như sau:
- Thủ pháp gây cười bằng đánh tráo khái niệm
- Thủ pháp gây cười bằng đánh tráo nghĩa
- Thủ pháp gây cười bằng đánh tráo đối tượng qui chiếu
- Thủ pháp gây cười bằng đánh tráo tiêu điểm thông báo
- Thủ pháp gây cười bằng đồng nhất hiện tượng với bản chất
- Thủ pháp gây cười bằng đồng nhất điều kiện cần và điều kiện đủ
Bài báo này chỉ tập trung vào thủ pháp thứ nhất.
2. Thủ pháp gây cười bằng đánh tráo khái niệm
Thông thường, thủ pháp “đánh tráo khái niệm” đòi hỏi:
- Có hai đối tượng/ khái niệm được thể hiện bằng các danh từ.
- Cả hai đối tượng đều xuất hiện tường minh.
- Đánh tráo khái niệm là sự hoán đổi hai khái niệm (không tính đến yếu tố vô tình hay cố ý).
Tuy nhiên, trên thực tế, việc “đánh tráo khái niệm” phức tạp hơn nhiều. Chúng không chỉ thể hiện thông qua các danh từ, và thông thường cũng chỉ có một đối tượng là tường minh, còn một đối tượng có thể ngầm ẩn. Việc đánh tráo có thể diễn ra một cách hoàn toàn (từ khái niệm này sang khái niệm khác), cũng có thể diễn ra trong một bộ phận (một số nét nghĩa nào đó) của khái niệm – đánh tráo không hoàn toàn. Việc đánh tráo cũng có thể thực hiện ở việc hoán đổi giữa nghĩa đen và nghĩa bóng của khái niệm. Sự phức tạp còn thể hiện ở chỗ việc đánh tráo có thể không chỉ thực hiện giữa hai đối tượng mà “đi lòng vòng” sang đối tượng thứ ba, thậm chí thứ tư, tức là đánh tráo nhiều lần.
Dưới đây, chúng tôi tạm phân chia đánh tráo khái niệm thành bốn kiểu.
2.1. Đánh tráo hai khái niệm diễn đạt bằng từ có âm giống nhau nhưng chữ và nghĩa khác nhau
Xét ví dụ sau: (1) Lấy vợ hai làm gì?
Tòa hỏi bị cáo:
- Anh lấy vợ hai làm gì?
- Thưa tòa, tôi lấy vợ hai làm dì.
Tòa đập bàn quát:
- Anh không hiểu câu hỏi của tòa à?
- Thưa, tôi lấy vợ hai làm dì ạ.
Từ “gì” trong câu hỏi của tòa là đại từ nghi vấn trong khi đó từ “dì” trong câu trả lời của bị cáo là danh từ chỉ người vợ kế của cha trong quan hệ với con của người vợ trước. Do trong tiếng Việt, cách phát âm của “gì” và “dì” gần giống nhau nên tòa đã không hiểu câu trả lời của bị cáo là: Tôi lấy vợ hai về làm mẹ kế cho con tôi.
Tương tự là truyện “Nước Lào”. Do nghe phải lời rao của những người bán hàng bị ngọng: “Ai mua bánh mì lào”, “Ai mua gạo lào”, “Ai mua chiếu lào”,… cậu bé đã hiểu sai về tình hình hàng hóa trên thị trường nước ta: “Hàng hóa nước Lào đang bày bán nhiều nhất trên thị trường nước ta”. Thực chất những lời rao đó phải là: “Ai mua bánh mì nào”, “Ai mua gạo nào”,…
Tiếng cười trong những câu chuyện này mang đặc trưng ngôn ngữ Việt. Nó phản ánh hiện tượng phát âm phức tạp do một số âm vị tiếng Việt có nhiều hình thức thể hiện.
2.2. Đánh tráo hai khái niệm diễn đạt bằng từ có âm và chữ giống nhau nhưng nghĩa khác nhau
Những từ đồng âm khác nghĩa được sử dụng tối đa cho thủ pháp gây cười đánh tráo khái niệm kiểu này. Ví dụ: (2) Có chí
Duy: Dạo này tao thấy mày có chí ghê quá!
Thanh: Ủa, sao biết?
Duy: Tại... tao thấy mày hay gãi đầu.
Hai từ đồng âm khác nghĩa là: “chí” với nghĩa là ý chí và “chí” với nghĩa là con chí (con chấy) đã được Duy cố tình tráo đổi. Cậu đã gài bẫy để Thanh hiểu từ “chí” với nghĩa là ý chí và lời nói “có chí ghê quá” là một lời khen, sau đó bất ngờ đánh tráo khái niệm ý chí thành con chí để Thanh phát hoảng khi biết rằng “có chí ghê quá” là một lời chê bai khủng khiếp. Tiếng cười sảng khoái bùng nổ.
Tương tự là truyện (3) Tại bỏ vợ
Một người hỏi anh chàng mới vào tù:
- Tại sao anh lại bị tù?
- Vì tội bỏ vợ.
- Bỏ vợ mà cũng bị tù à?
- Phải, vì tôi bỏ từ trên lầu 5 xuống.
Hai khái niệm “bỏ” với nghĩa là li dị và “bỏ” với nghĩa là thả một vật từ trên cao xuống là cách mà người nói cố tình đánh tráo để gây hiểu lầm cho người nghe.
Kiểu đánh tráo khái niệm này còn diễn ra ở việc hoán đổi các nét nghĩa, chọn nét nghĩa có lợi cho mình. Đây có thể xem là một kiểu đánh tráo hay gặp nhất trong truyện cười Việt Nam hiện đại. Ví dụ: (4) Kinh nghiệm
Nhìn cô gái còn trẻ quá, bà hiệu trưởng trường mầm non ân cần bảo:
- Trường có chỉ tiêu lấy cô nuôi dạy trẻ, nhưng đây là trường điểm, cần giáo viên kinh nghiệm. Cô đã có kinh nghiệm về trẻ con chưa ?
- Thưa bà, rất nhiều năm ạ. Trước kia tôi đã từng là trẻ con nên không có gì là lạ.
Kinh nghiệm là điều hiểu biết có được do tiếp xúc với thực tế, do từng trải [6, tr679]. Lợi dụng nét nghĩa “kinh nghiệm là sự từng trải”, cô gái đã đồng nhất kinh nghiệm dạy trẻ con với từng là trẻ con nên không thiếu kinh nghiệm rồi tráo đổi chúng để trả lời bà hiệu trưởng. Tiếng cười bật ra vì trên đời, ai chả từng là trẻ con. Nếu lý luận như cô gái này thì ai cũng có thể làm được nghề trông trẻ.
Một truyện cười tương tự là (5) Rút kinh nghiệm
Một thanh niên đến thăm gia đình bạn gái.
- Dạ thưa bác, cháu vừa đi công tác về, có chút quà nhỏ biếu gia đình.
- Anh cứ vẽ! – Bố nàng cười.
- Dạ, cháu cũng từng là họa sĩ đấy ạ. – Chàng được dịp giới thiệu.
- Họa sĩ mà vẽ ít thế này thôi ư? Lần sau nhớ rút kinh nghiệm nhé!
Khi được nhận quà, người Việt có thói quen cảm ơn bằng quán ngữ “Anh/chị cứ vẽ” hàm ý rằng: tình cảm hai bên là quan trọng, không cần bày đặt mua sắm quà cáp. Từ “vẽ” trong quán ngữ chỉ sự “bày đặt thêm những cái không cần thiết” [5, tr 1416]. Trong truyện, tiếng cười hé mở khi chàng trai hay khoe nhân dịp bố bạn gái cảm ơn đã đánh tráo khái niệm bày vẽ thành khái niệm vẽ tranh để quảng cáo cho bản thân. Nhưng tiếng cười thật sự bùng nổ khi ông bố nhân sự đánh tráo đó, sử dụng đòn gậy ông đập lưng ông, nhắc nhở khéo anh chàng rằng: món quà quá ít.
Đôi khi, các nhân vật hài không cố tình đánh tráo khái niệm mà tiếng cười bật ra do họ ngộ nhận hoặc vô tình không hiểu ý nghĩa khái niệm, như truyện số (6) Vô cùng kì lạ dưới đây.
Thầy giáo: Như các em đã biết, ôxi được phát hiện ra vào thế kỉ 18…
Học sinh thắc mắc: Thế thì trước đó con người thở bằng cái gì ?
Từ “phát hiện” vốn có nghĩa là tìm ra cái chưa ai biết [5, tr988], tức là ngoại diên của nó bao gồm cả những cái đã, đang tồn tại nhưng ở thời điểm trước khi phát hiện thì con người chưa từng biết đến. Ôxi là một ví dụ tiêu biểu. Ôxi có cùng với quá trình hình thành trái đất, loài người xuất hiện sau đó và hít thở ôxi như một lẽ hiển nhiên để duy trì sự sống. Có thể nói, loài người nhờ ôxi mà tồn tại. Nhưng trước thế kỉ 18, loài người chưa có ý thức về cái khí họ vẫn hít vào, vai trò và tác dụng của nó. Truyện rất ngắn nhưng tiếng cười bật ra ngay vì sự nhầm lẫn do học sinh đã đồng nhất nét nghĩa của từ “phát hiện” với từ “xuất hiện”. Cậu bé nghĩ rằng trước khi con người phát hiện ra ôxi thì ôxi không tồn tại, do đó băn khoăn: “trước đó con người thở bằng cái gì?”
2.3. Đánh tráo hai khái niệm diễn đạt bằng cụm từ có âm và chữ giống nhau nhưng nghĩa khác nhau
Việc đánh tráo khái niệm ở đây được thực hiện giữa nghĩa đen và nghĩa bóng của khái niệm. Câu chuyện dưới đây gây cười bằng sự chủ động đánh tráo khái niệm để ngụy biện cho hành vi của mình, truyện (7) Dựa vào dân
Trên tàu, anh lính trẻ dựa vào cô gái đẹp, ngủ. Tàu lắc, anh ta bật dậy. Cô gái hỏi:
- Sao anh cứ dựa vào tôi thế?
- Thì cô bảo, bộ đội chẳng dựa vào dân thì dựa vào ai?
Bị khiển trách về hành vi khiếm nhã của mình, anh lính trẻ đã nhanh trí đánh tráo khái niệm “dựa vào dân” với nghĩa chỉ mối quan hệ gắn bó giữa bộ đội với nhân dân nhằm tăng cường lực lượng quân đội, phục vụ cho đất nước thành “dựa vào cô gái đẹp để ngủ”. “Dựa” trong dựa vào dân được hình thành trên nghĩa bóng trong khi “dựa” trong dựa vào cô gái đẹp để ngủ hoàn toàn được hiểu theo nghĩa đen. Từ đó, anh lính trẻ cũng đồng nhất khái niệm “dân” với khái niệm “cô gái đẹp”. Truyện đem đến cái cười đùa vui, hóm hỉnh vì sự ngụy biện khéo léo của anh lính trẻ.
Tương tự là truyện (8) Gần và xa
Trên ghế đá, một cậu thanh niên đang ngồi xích lại gần một cô gái:
- Anh đã đi quá xa rồi đấy! – Cô gái nghiêm mặt.
Cậu thanh niên cười:
- Cô này thật kì! Tôi đang xích lại gần cô, cô lại bảo tôi đi quá xa…
Theo cách nói của cô gái, khái niệm “quá xa” được hiểu với nghĩa bóng, còn chàng trai lại dùng khái niệm “gần” với nghĩa đen. Thế là xảy ra tình huống cùng một hành động “xích lại phía cô gái” mà lại được đánh giá bằng hai tính từ đối lập.
2.4. Đánh tráo nhiều khái niệm
Như đã giới thiệu, việc đánh tráo khái niệm không chỉ diễn ra giữa hai khái niệm mà còn “đi lòng vòng” xa hơn giữa nhiều khái niệm, để rồi người ta không nhận ra được khái niệm ban đầu nữa, lí luận của người trong cuộc vừa vô lí lại vừa có lí. Đây thực chất là một kiểu ngụy biện nhằm đánh lạc hướng người đối thoại. Tiêu biểu là truyện (9) Lí sự sinh viên nghèo
Một sinh viên nghèo đói bụng quá không biết làm thế nào, liền đánh liều chui vào một quán nước.
- Cho tôi một cái bánh giò.
- Có ngay – chủ quán bê ra một cái bánh giò.
- Bánh bao thì giá cả thế nào?
- Như bánh giò.
- Thế thì đổi cho một cái bánh bao.
Chàng ăn xong cái bánh bao đứng dậy định đi về.
- Ơ kìa, không trả tiền à?
- Tiền nào?
- Tiền bánh bao.
- Nhưng tôi đổi bánh giò rồi cơ mà.
- Nhưng đã trả tiền bánh giò đâu?
- Ơ hay! Nhà chị buồn cười thật! Bánh giò nhà chị vẫn ở nguyên kia, tôi có ăn đâu mà bảo trả tiền?
Khái niệm “trả tiền” vốn được hiểu là “đưa cho người khác số tiền để đổi lấy hàng hóa” đã được cậu sinh viên hoán đổi thành “đưa cho người khác một vật ngang giá”. Đến đây, lập luận của cậu hoàn toàn có lí nếu cái “vật ngang giá” đó (tức cái bánh giò) là của cậu. Song khi tiếp tục bị đòi trả tiền thì cậu xoay sang lí luận: không ăn không phải tiền. Lập luận này đúng vì cậu không ăn bánh giò. Nhưng không trả tiền bánh giò thì đương nhiên bánh giò không phải là sở hữu của cậu nên không có giá trị qui đổi. Thế là sau một hồi đánh tráo lòng vòng, chuyện “trả tiền” lại biến thành “ăn không của người ta”!!!
Như vậy, việc cố tình đánh tráo khái niệm chính là một trong những thủ pháp phổ biến để gây cười. Nó có thể mang lại những kết quả hết sức phong phú và bất ngờ. Nó gây nhiều hiệu ứng: tạo ra sự mập mờ, mơ hồ với người đối thoại, dẫn tới những nhầm lẫn thú vị (truyện số 1, 2 và 3), nhầm lẫn ngây thơ (truyện số 4 và 6), sự nhắc nhở khéo léo (truyện số 5), sự ngụy biện khéo léo (truyện số 7 và 8), ngụy biện kiểu lí sự cùn (truyện số 9). Tóm lại, đánh tráo khái niệm đã từng bước một dẫn dắt người ta tới những hiểu lầm hoặc mâu thuẫn bất ngờ, làm bật lên tiếng cười…
Trong cuộc sống đầy bận rộn ngày hôm nay, con người cần lắm những tiếng cười vui. Dù cơ chế gây cười được thực hiện theo cách đánh tráo khái niệm hay cách nào đi nữa thì tiếng cười vẫn luôn là một liều thuốc hữu hiệu giúp chúng ta xả “stress”. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn có một suy nghĩ vui, nếu không phải là các nhà ngôn ngữ hoặc những người quan tâm tới ngôn ngữ học, đừng nên đi tìm cơ chế gây cười trong truyện cười làm gì, vì trước hết người Việt đọc truyện cười là cười được ngay và thứ hai là vì sự “khó” trong việc lí giải cơ chế gây cười sẽ khiến chúng ta phải nhăn nhó…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, NXB Giáo dục, HN.
- Nguyễn Đức Dân (1998), Lôgic và tiếng Việt, NXB Giáo dục, HN
- Triệu Truyền Đống (1999), Phương pháp biện luận – Thuật hùng biện, NXB Giáo dục, HN (Biên dịch Nguyễn Quốc Siêu)
- Đặng Hồng Nhung (2008), Phương thức gây cười trong truyện cười thế giới hiện đại dưới góc nhìn logic học, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Sư phạm HN.
- Hoàng Phê (2011), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng (tái bản lần thứ 4).
- Trần Kim Phượng, Nguyễn Thị Minh Hà (2013), Liên kết văn bản trong truyện cười hiện đại Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4.2013.
- Chu Thị Thanh Tâm (2005), Các biện pháp gây cười trong truyện cười Việt Nam hiện đại (trên quan điểm ngữ dụng học), Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nguồn ngữ liệu
- Phan Trọng Hòa, Phan Thị Đào (2006), Truyện cười lô-gic, NXB Văn học
- Việt Hùng (2013), Bệnh nhân và bác sĩ, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
- Việt Hùng (2013), Cười hài hước thông minh, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
- Việt Hùng (2013), Cười hiện đại, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
- Lương Kim Nghĩa (2013), Cười hở mười cái răng, NXB Thời đại, HN.
Nguồn: Tác giả